-
Những bài thơ 30/4/75
> Trân trọng Kính Chào Quý Đồng Môn
> Nhân mùa Quốc Hận 30/4. Vân Trang xin mạng phép,
> được kính gởi đến quý Đồng Môn 8 bài thơ tả chân:
> Những thãm cảnh xãy ra, trên Tỉnh Lộ Máu,
> Trong thi tập ( Nỗi Lòng Viễn Xứ) Xuất bản năm 1999 .
> Đây là những thãm cảnh mà Vân Trang đã chứng kiến.
> Còn còn rất nhiều, VânTrang không nhìn thấy, vì lúc di tản đa phần là tìm đường rừng mà đi, chỉ khi nào đói quá, mới tìm ra đừơng để kiếm thức ăn…
> Vì thế những cảnh tả chân trên đây, chỉ là tượng trưng trong hằng trăm cảnh thãm thương mà người dân phải gánh chịu trên dọc đường TỈnh Lộ Máu.
> [COLOR="#000080"]Em bé chết ngồi
> Trong Phố Cheo reo reo[/COLOR]
>
> Em bé ơi! Sao em còn ngồi đó,
> Nhà của ai? mà cửa nẽo mỡ toang,
> Lửa bên kia đang cháy sắp lan sang,
Sao em mãi ngồi, yên không nhúc nhích.
>
> Em kinh hoàng vì những tràn sung địch,
> Hay xót đau mà cúi mặt căm hờn,
> Thôi đừng sợ anh sẽ đở em lên,
> Cùng di tản ra khỏi vùng đạn khói.
>
> Tay lạnh buốt… tôi nghe long đau nhói,
> Em chết rồi… còn đâu nữa bé thơ,
> Tội nghiệp em trong lứa tuổi dại khờ.
> Em nào biết cớ sao em bị chết!
>
> Tràng sung địch, chắc em ngờ pháo tết,
> Viên đạn nào , mãnh đại bác của ai,
> Giết chết em trong thãm cảnh đoạ đày.
> Ôi khốn khổ! thương thay người vô tội.
>
> Chiến tranh hỡi! ai gây ra lầm lỗi,
> Tuổi trẻ thơ nào có tội chi đâu,
> Giết chết em trong hoàn cãnh cơ cầu,
> Không có được mãnh lụa đào bó xác.
>
> Cha mẹ em giờ đây đang thất lạc,
> Biết còn không,hay banh xác nơi nào,
> Nhìn thấy em mà lệ xót đớn đau,
> Đành quay bước vì đạn gào, pháo chớp…
>
> Thôi em ở lại Cheo Reo yên giấc ,
> Anh ra đi chưa chắc đã yên thân.
> Đường anh đi còn lắm cãnh gian truân.
> Vì sung địch đều vô nhân bất đạo.
> (Nỗi Lòng Viễn Xứ) Vân Trang
>
[COLOR="#000080"]> Khóc Bạn[/COLOR]
>
> Chiều buồn di tản chồn chân bước,
> Cờ rũ nón treo, súng ngược đầu,
> Anh ở lại buồn không giả biệt,
> Tôi về mang nặng trái tim đau.
>
> Bao năm lăn lóc mờ chinh chiến ,
> Máu đổ thân trai đã mấy lần,
> Chiến cuộc bây giờ đang vận chuyển,
> Sao đành vội bỏ tuôỉ thanh xuân.
>
> Trên đường di tản nào ai biết,
> Súng đạn quân thù lại bất tri,
> Bao năm bè bạn tình thắm thiết,
> Đâu ngờ tôi phải khóc chia ly.
>
> Giờ đây anh đã thành thiên cổ,
> Lòng đất cao nguyên ôm buớc chân,
> Ai đã an bày hay định số?
> Cho anh trả hết nợ hồng trần.
>
> Rưng rưng lệ đổ tôi từ biệt,
> Anh ở lại đây an xác thân,
> Chưa chắc anh buồn trong cõi chết,
> Hơn người còn lại chốn dương trần!!!.
>
> Thi Tập ( Nỗi Lòng Viễn Xứ ) Vân Trang
>
>
>[COLOR="#4B0082"] Thãm cảnh Đèo Tona[/COLOR]
>
> Từ cầu Quý Đức Cheo Reo,
> Con đường uốn khúc, đến đèo Tona,
> Một bên giòng nước sông Pa,
> Một bên là núi, rừng già rậm cây.
>
> Năm cây số, khoãng đường dài,
> Từng khu nút chận , địch vây từng phần,
> Từng hốc núi, từng dóc truông,
> Từng lồng đá kín ,từng vòng khúc quanh.
>
> Trên cao đại pháo xây thành,
> Liên hồi nhả đạn tan tành đoàn xe,
> Biệt kích bám sát vào kề,
> Đánh toàn lựu đạn, lưởi lê với mìn.
>
> Thiết xa yễm trợ đại liên,
> Trực thăng oanh kích dọc triền núi cao,
> Địch càng nhã đạn ào ào,
> Trên đường tiếng thét, tiếng gào con tôi!
>
> Người người kêu đất kêu trời,
> Ai gây chi cảnh thịt rơi máu tràn,
> Súng trường đại pháo bắn càng,
> Ak 47 chẳng màng chi dân.
>
> Khổ thay một lính trăm dân,
> Làm sao chống lại địch quân điên cuồng,
> Rêu rao giải phóng quê hương,
> Sao anh tàn ác hơn phường ngoại xăm?
>
> Việt Nam! ơi hỡi Việt Nam !
> Ai gieo tang tóc cho đàn dân đen? !!!
>
> Thi Tập ( Nỗi Lòng Viễn Xứ ) Vân Trang
>
>[COLOR="#4B0082"] Vượt thác cuối Đèo To Na[/COLOR]
>
> Đây là dòng thác sông Pa,
> Xuyên qua đèo đá ToNa xây thành,
> Dốc dài nước đổ càng nhanh,
> Từng mô đá nổi xanh xanh mập mờ.
>
> Giửa dòng nước chảy nên thơ,
> Một bên cuồn cuộn, bên lờ đờ trôi,
> Dây rừng bện chặt từng đôi,
> Quăn theo từng mõm đá xuôi theo dòng.
>
> Chúng tôi qua được nửa sông,
> Gặp hai cô gái giữa dòng khóc than,
> Ỹ mình sức mạnh lội ngang,
> Nào ngờ, ra giửa nước càng cuộn trôi.
>
> “ Anh ơi nước cuốn mấy người.
> Hai em sợ quá, phải ngồi lại đây,
> Xin anh cứu giúp tụi nấy,
> Đến nơi em quyết ơn dầy đáp công.
>
> Cùng anh gá nghiã vợ chồng,
> Anh mà có vợ, em không ngại ngần”
> Thật là bãn sắc sinh tồn,
> Vẫn hơn đạo lý làm thân con người.
>
> Khó khăn đưa họ tới nơi,
> Hai cô khắn khích, chảng rời bước chân,
> Khổ thay còn lắm gian truân,
> Hơn trăm cây số đường rừng phải đi.
>
> Cô nào chân cũng đeo chì,
> Chổ phòng, chổ nứt, chổ thì máu tươi,
> Làm sao theo kịp chúng tôi,
> Trong khi pháo địch khắp nơi ầm ầm.
>
> “Hai cô là gái là dân,
> Nếu địch bắt được, chắc không hề gì,
> Đường rừng còn lắm hiểm nguy,
> Đi mà không kheó, có khi đạp mìn…
>
> Đưa hai cô gái ra đường,
>
> Thi Tập ( Nỗi Lòng Viễn Xứ ) Vân Trang
[COLOR="#4B0082"]
> Thãm cảnh gần Câù Lơ Bắc[/COLOR]
>
> Đưa hai cô gái ra đường,
> Tôi nhìn:những cảnh tang thương nát lòng,
> Gần cầu Lơ Bắc con sông ,
> Dọc đường máu đổ, đông dòng huyết thâm.
>
> Nhìn đâu cũng cảnh thương tâm,
> Lời thơ khó thể tả chân rõ ràng,
> Trên cao, quà quạ kêu vang ,
> Ở dưới, người chết ngổn ngang bốc mùi.
>
> Nhìn đâu, cũng thấy rợn người,
> Nhìn đâu, cũng thấy rã rời tay chân,
> Chắc đây là cặp vợ chồng,
> Người thì banh ruột, người không thấy đâù.
>
> Còn kia là bác nhà giàu,
> Chết còn nắm chặc hồ bao đầy vàng.
> Kia là, đứa trẻ bên đàng,
> Nằm bên xác mẹ ôm dòng sửa khô.
>
> Còn đây, cô gái loã lồ,
> Văng ngang khúc ngực, gan nhô, ruột lòi.
> Mãnh quần bung rách tã tơi.
> Con người còn ác hơn loài hổ mang,!
>
> Tôi nghe trong dạ xốn xang,
> Như kim chích mủi, mắt tràn lệ tuôn.
> Việt Nam Ơi! hỡi ! Việt Nam… !!!
>
> Thi Tập ( Nỡi Lòng Viễn Xứ)Vân Trang
>
>[COLOR="#4B0082"] Gia đình Nghĩa Quân tự sát[/COLOR]
>
> Tôi vừa đi đến Cũng Sơn Quận,
> Nghe họ nói rằng: có nghiã quân,
> Đã giết vợ con rồi tự sát,
> Anh còn để lại máy truyền tin.
>
> Tôi với người em chạy đến ngay,
> Mong tìm được máy sẽ liền tay,
> Mở ra liên lạc cùng đơn vị,
> Vì mất tin nhau đã bãy ngày.
>
> Vừa đến cửa nhà, thấy bên trong,
> Một cảnh thương tâm lạnh cả lòng,
> Người chồng gục xuống, tay còn súng,
> Chiếc máy truyền tin ở cạnh hông.
>
> Người vợ co mình ôm đứa con,
> Nằm trên vủng máu loang mặt nền,
> Phải chăng chị cũng đang cầu nguyện,
> Gương mặt xanh dờn đang ngước lên.
>
> Mâm cơm kề đó, chắc chữa ăn,
> Một chén cơm văng, đẫm máu hồng.
> Có lẽ hãi hùng vì giặc cộng,
> Nên đành phủi sạch nợ hồng trần.
>
> Thi Tập ( Nỗi Lòng Viễn Xứ)Vân Trang
>
>[COLOR="#000080"] Thãm cảnh Bến Phà Sông Đà Rằng[/COLOR]
>
> Từ trên đồi dóc, tôi nhìn xuống,
> Một khúc sông Đà thậtt rõ ràng,
> Có chiếc cầu hư không dụng được,
> Nhờ con phà nhỏ để đưa sang.
>
> Vì số người qua, lại quá đông,
> Họ tìm chổ cạn để sang sông,
> Đoàn người đùn lại trên bãi cát,
> Súng địch bất ngờ lại tấn công.
>
> Một cảnh thương tâm không kể xiết,
> Đoàn xe gắn máy nằm tang hoang,
> Hơn ngàn xác chết nằm la liệt,
> Máu nhuộm màu nâu bãi cát vàng.
>
> Sau đó người dân hỏi cộng quân,
> “Tại sao tàn sát cả ngàn dân,
> Họ đi gắn máy, mặc thường phục,
> Chẳng có vẽ gì lính với quân”
>
> Việt Cộng trả lời rất (giãn đơn),
> “Ngỡ là quan lớn của (nguỵ quân),
> Được đi gắn máy và xe lớn,
> Còn kẻ đi chân mới là dân “.
>
> Đây là cố ý hay vô tình,
> Sao kẽ cầm quân lại quá khinh,
> Tình trạng dân sinh mà chẳng biết
> Khiến bao ngàn người phải hy sinh !!!...
>
> Thi Tập ( Nỗi Lòng Viễn Xứ)Vân Trang
>
> __._,_.___
> .
> __,_._,___
[COLOR="#4B0082"][/COLOR]