Đường Hồ Chí Minh trên biển
[B]Đường Hồ Chí Minh ... trên biển !?[/B]
Cách đây đúng 50 năm, khi cả dân tộc Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với con đường vận tải chiến lược Trường Sơn, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đă quyết định mở con đường vận chuyển trên biển Đông – Đường Hồ Chí Minh trên biển
Từ năm 1961 - 1975, đă có hàng trăm con “tàu không số” vượt biển làm nhiệm vụ chi viện vũ khí cho quân đội Việt Nam tại chiến trường miền Nam. Mỗi chuyến lên đường của “tàu không số” là một cuộc đâu trí căng thẳng với không chỉ kẻ thù mà với cả thiên nhiên. Hằng trăm lượt tàu ra khơi, hàng tấn vũ khí, thuốc men, hàng chục ngàn lượt chiến sĩ từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam với một niềm tin sắt đá sẵn sàng hy sinh để đất nước được thống nhất.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/huyphuong/20111012/tau.jpg[/IMG]
Tàu không số trong hành tŕnh "Đường Hồ Chí Minh trên biển"
Được đánh giá là một kỳ tich sáng tạo của nhân dân Việt Nam, những chuyến “tàu không số” và đường Hồ Chí Minh trên biển đă góp phần làm nên thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Do tính chất bí mật quốc gia nên măi đến sau này, một phần sự thật về những con “tàu không sô” vượt đại dương chi viện cho chiến trường Việt Nam mới được công bố.
Loạt phim kư sự truyền h́nh về đường Hồ Chí Minh trên biển, được gửi tới khán giả xem truyền h́nh trên Hệ Phát thanh có h́nh – Đài tiếng nói Việt Nam (VOVTV) bắt đầu từ ngày 10/10/2011, vào 8h25’ và phát lại vào lúc 18h35’ cùng ngày.
Loạt chương tŕnh tái hiện không khí hào hùng, tinh thần quả cảm của quân và dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước thông qua con đường Hồ Chí Minh trên biển. Hành tŕnh của những người vận chuyển vũ khí, thuốc men chi viên cho chiến trường miền Nam trên tuyến đường biển năm xưa trong ḷng nhân dân như một huyền thoại.
Kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển không chỉ là một bộ phim tái hiện lịch sử, một lời tri ân tới tới những con người đă hy sinh v́ sự độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Mặt khác, Kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển c̣n tôn vinh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, truyền lại sức mạnh và niềm tự hào cho các thế hệ sau này./.
Đông Giang
Đường Hồ Chí Minh trên biển
[B]Đường Hồ Chí Minh... trên biển[/B]
LTS: Ngày 23/10 tới đây, chúng ta sẽ long trọng kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển - Con đường được đánh giá là độc đáo, sáng tạo nhất của thế kỷ XX. Trên con đường, có những con người đă đi vào lịch sử như những huyền thoại. Họ không chỉ là những người “đứng mũi chịu sào”, giữ vững tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, mà c̣n là những tấm gương ngời sáng của thời đại Hồ Chí Minh để thế hệ trẻ hôm nay và mai sau noi gương, học tập về đức hy sinh quên ḿnh v́ Tổ quốc.
Bắt đầu từ số này, VOV Online khởi đăng loạt bài “Những trang đời bất tử”, coi đây là nghĩa cử và sự tri ân đối với các chiến sĩ Đoàn tàu không số năm xưa.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/manhhung/20111017/a-4.jpg[/IMG]
Mô phỏng tuyến đường vận tải vũ khí đạn dược của đoàn tàu không số vào các tỉnh Nam bộ.
Trong 168 chuyến tàu vận chuyển vũ khí đạn dược cho quân, dân miền Đông Nam bộ và chiến trường Khu 5 đánh Mỹ, có một chuyến tàu mang bí số 56, bí mật vượt biển từ Hải Pḥng cập bến Lộc An (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) năm 1964 đă góp phần trực tiếp vào thắng lợi của chiến dịch B́nh Giă, làm thay đổi cục diện chiến trường, đập tan mưu đồ chiến lược “Thiết xa vận” của Đế quốc Mỹ.
Lời thề v́ Tổ quốc
Để chiến thắng mưu đồ chiến lược “Thiết xa vận” của địch, trước yêu cầu cấp bách chuyển vũ khí đạn dược chi viện cho các chiến trường miền Nam đánh Mỹ, Bộ Tư lệnh miền Nam điện trực tiếp ra Trung ương xin chi viện vũ khí và hậu cần. Con tàu mang bí số 56 do thuyền trưởng Lê Quốc Thân và chính trị viên Trần Ngọc Tuấn, hai thuyền phó là Nguyễn Đắc Thắng phụ trách hàng hải và Lê Xuân Ngọc phụ trách hậu cần cùng 14 thủy thủ khác nhận nhiệm vụ đặc biệt này và sẵn sàng vượt biển.
Những ngày giáp Tết năm 1964, vùng biển Hải Pḥng sóng to dữ dội. Bất chấp điều kiện thời tiết, tàu 56 vẫn hành tŕnh theo kế hoạch đă được xác định. Trước khi rời bến 2 giờ, thuyền trưởng Lê Quốc Thân đă tập trung 17 thủy thủ ở khoang giữa của tàu để quán triệt nhiệm vụ, phân công phụ từng người phụ trách từng mặt công tác. Ngày ấy, đi chiến trường đồng nghĩa với sống chết, biệt ly không hẹn ngày trở lại. Bởi chiến tranh dài đằng đẵng liên miên, ai biết ngày nào kết thúc.
Thuyền trưởng Thân quả quyết: “Đây là chuyến vượt biển vô cùng quan trọng. Chúng ta có thể hy sinh tính mạng, nhưng vũ khí đạn được nhất định phải được chuyển vào miền Nam và con đường vận tải biển phải tuyệt đối giữ bí mật. Chúng ta xin thề với Tổ quốc, thà hy sinh chứ không để vũ khí rơi vào tay giặc, thà đổ máu chứ nhất định không xưng khai. Miền Nam đang chờ chúng ta, chiến dịch B́nh Giă đang đợi chúng ta”.
Lời thuyền trưởng Thân nói như tiếp thêm sức mạnh, ḷng yêu nước của từng chiến sĩ. Họ bắt chặt tay nhau thể hiện sự quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, công tác chuẩn bị lần cuối hoàn thành, tàu sẵn sàng rời bến.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/manhhung/20111017/a-3.jpg[/IMG]
Đó là đêm 29/11/1964 - một đêm giá rét không thể nào quên được đối với các chiến sĩ trên chuyến tàu 56. Con tàu vỏ sắt có trọng tải 50 tấn bí mật rời cảng Hải Pḥng, băng băng ra khơi trong đêm tối. 44 tấn vũ khí đạn dược được giấu kín dưới đáy tàu. Hành trang của 18 cán bộ, chiến sĩ chủ yếu là những dụng cụ cá nhân như ba lô, khăn mặt, hộp sữa ḅ, ít lương khô, nhưng nặng nhất trong mỗi người là t́nh yêu Tổ quốc.
Sau những ngày vật lộn với sóng gió, ngày 22/12/1964, tàu 56 đă đến vùng biển Phước Hải, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tuy nhiên, làm thế nào để đưa con tàu sắt vào cửa Sông Ray trong khi bọn địch kiểm soát chặt chẽ nhiều tầng, nhiều lớp, dưới nước, trên không, trên bờ là một bài toán khó khăn với cán bộ, chiến sĩ tàu 56. Điểm đến của tàu là Bến Lộc An, nhưng bến Lộc An lại nằm tận sâu trong Sông Ray. Muốn đến Lộc An phải hành tŕnh qua con đường thủy hẹp, ḍng nước thủy triều lên xuống thất thường, nhiều cồn cát, nhiều băi ngầm, đặc biệt địch bố pḥng canh gác cẩn mật ngay cửa Sông Ray.
Phương án “Ngư dân Phước Hải đánh cá về bờ” được chuẩn bị kỹ càng và chưa lộ bí mật. Thuyền trưởng Lê Quốc Thân đă lệnh phát tín hiệu bằng mật ngữ với căn cứ bí mật, nhưng không thấy trả lời. Để tránh bị địch phát hiện, truyền trưởng Thân đă cho tàu chạy ḷng ṿng ở cửa biển Sông Ray, vừa chạy vừa vờ câu cá để đánh lừa địch. Ông nhận định, nếu cứ cho tàu chạy ḷng ṿng ngoài cửa biển sẽ bị địch phát hiện, nên đă lệnh cho 2 thủy thủ bí mật bơi vào bờ t́m bến. 2 chiến sĩ ấy là Trần Văn Phủ và Nguyễn Thanh.
Thời gian chậm chạp trôi đi, ai cũng lo lắng cho sự an nguy của con tàu. Lúc đó thuyền trưởng Thân đă bàn với các đồng chí trong Ban Chỉ huy, nếu bị lộ sẽ sẵn sàng hy sinh và hủy tàu chứ nhất định không để vũ khí đạn dược rơi vào tay địch. Ông động viên anh em “Đây là giờ phút phải b́nh tĩnh và thông minh nhất. Các đồng chí cứ yên tâm, nhiệm vụ sắp hoàn thành, phần thắng đă nắm chắc trong tay. Trong giờ phút này không được ai lung lay ư chí”.
15 phút, 20 phút, rồi 40 phút trôi qua, bỗng từ phía bờ có ánh đèn chớp lóe sáng 3 lần liên tục, báo hiệu bến an toàn. Dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Thân, con tàu 56 đă vượt qua chặng đường hơn 10 km luồng lạch, cồn cát, băi ngầm ở Sông Ray, cập bến Lộc An an toàn lúc 22h ngày 22/12/1964. Khi vào đến bến Lộc An anh em mới biết, lực lượng bộ đội của Trung đoàn 1 và 2 thuộc Sư đoàn 9 đă ém quân 4 ngày tại đây. Dẫu nhận được tín hiệu từ tàu 56 xin cập bến, nhưng không dám đánh tín hiệu trả lời v́ con tàu sắt to quá, ai cũng nghĩ là tàu địch giả danh.
Đánh bại chiến lược “thiết xa vận” của địch
44 tấn vũ khí đạn dược được người dân làng chài Phước Hải và bộ đội chuyển lên bờ giấu trong kho an toàn, rồi được Trung đoàn 1 và 2 của Sư đoàn 9 tiếp nhận. Đó là những tấn vũ khí đầu tiên chi viện cho chiến trường B́nh Giă.
Được tiếp thêm vũ khí, chiến trường B́nh Giă như được tiếp thêm sức mạnh. Quân, dân làng chài Phước Hải bước vào trận chiến đấu mới, quyết tâm đập tan chiến lược “thiết xa vận” của địch. Chỉ trong 10 ngày, 5 trận đánh liên tiếp của quân và dân B́nh Giă đă giành thắng lợi. Ta diệt gọn 2 tiểu đoàn chủ lực, một chi đoàn xe bọc thép ngụy, 3 tiểu đoàn bộ binh địch bị thiệt hại nghiêm trọng. Nhiều ấp chiến lược ven đường số 2, số 3, đường 14 thuộc huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch bị phá tan. Vùng căn cứ cách mạng được mở rộng đến sát biển chạy dọc từ Bến Lộc An đến Phước Hải, huyện Đất Đỏ.
Trận chiến B́nh Giă là chiến dịch tiến công đầu tiên của quân giải phóng miền Nam, phá tan mưu đồ “b́nh định” có trọng điểm của chính quyền Sài G̣n ở vùng giáp danh 2 tỉnh B́nh Thuận và Đồng Nai. Lần đầu tiên, bộ đội chủ lực miền Đông Nam bộ với lực lượng Trung đoàn Minh Đạm ra quân đánh lớn, giáng đ̣n sấm sét xuống đầu Ngụy quyền Sài G̣n. Địch không thể biết những khẩu DKZ, B40, trung liên, đại liên, AK ở đâu mà nhiều thế. Chúng nói với nhau, đó là những loại vũ khí từ trên trời rơi xuống.
Hăng phim Giải phóng tái hiện tàu 56 chở vũ khí đạn dược vào vùng biển Phước Hải huyện Đất Đỏ chi viện cho chiến dịch B́nh Giă.
Thắng lợi của chiến dịch B́nh Giă, đă góp phần đánh một đ̣n quyết định làm phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền Nam. Trong đó có sự đóng góp kịp thời, táo bạo, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ tàu 56./.
Đường Hồ Chí Minh... trên biển
[B]Đường Hồ Chí Minh... trên biển !?[/B]
Kỷ niệm 50 năm ngày mở đường “Hồ Chí Minh trên biển” (23/10/1961-23/10/2011)
Bản hùng ca về những chiến công thầm lặng
(VOV) - Đường Hồ Chí Minh trên biển măi măi là bản anh hùng ca bất tử, là kỳ tích về sự anh dũng hy sinh, mưu trí, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn gian khổ
Trước t́nh h́nh địch đẩy mạnh chiến tranh, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đă họp và ra Nghị quyết về “nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam”. Ngày 23/10/1961, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam đă quyết định thành lập Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân (với tên gọi “Đoàn tàu không số”) để vận chuyển vũ khí, trang bị cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.
Ngày 8/4/1962, chuyến tàu đi trinh sát và mang chỉ thị của Trung ương về “Mở đường vận chuyển chiến lược trên biển” do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy đă đến miền Nam. Bắt đầu từ đây, xuất hiện những con tàu không số lúc ẩn lúc hiện, tiếp tế vũ khí cho miền Nam.
Ngày 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy không số đầu tiên mang tên Phương Đông 1 chở vũ khí dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa rời bến Đồ Sơn (Hải Pḥng), đến ngày 16/10 tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn, khai thông tuyến đường vận chuyển vũ khí trên biển nối liền hai miền Nam-Bắc.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/tienhai/20111014/dai-tuong.jpg[/IMG]
Với 6 chiếc thuyền gỗ thô sơ ban đầu đưa từ miền Nam ra và 38 cán bộ, chiến sĩ làm ṇng cốt trong ngày đầu thành lập, trong 14 năm thực hiện nhiệm vụ trên con đường biển mang tên Bác, lực lượng vận tải biển của hải quân đă phát triển thành một binh đoàn vận tải chiến lược trên biển, h́nh thành nhiều tuyến, mở hàng chục bến băi khắp các tỉnh ven biển miền Nam, len lỏi vào chiến trường khu 5 khốc liệt, đến tận cửa ngơ Sài G̣n vận chuyển vũ khí chi viện cho tiền tuyến đánh giặc.
Trong 14 năm hoạt động, đường Hồ Chí Minh trên biển có gần 2.000 lượt tàu, đi gần 4 triệu hải lư, vận chuyển gần 8 vạn lượt người, trên 15 vạn tấn vũ khí, đạn dược và hàng vạn tấn hàng hóa.
Cùng với đường Hồ Chí Minh trên dăy Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông là tuyến chi viện chiến lược đă góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra một trang sử vẻ vang mới cho dân tộc Việt Nam.
Những chiến công thầm lặng
Trong những ngày cả nước nói chung và Hải quân Nhân dân Việt Nam nói riêng đang tích cực chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 50 ngày mở đường “Hồ Chí Minh trên biển” (23/10/1961-23/10/2011), nhóm phóng viên VOV Online đă đến thành phố Hoa phượng đỏ, nơi có Trụ sở của Hội Truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc; địa danh K15 Đồ Sơn – nơi cập bến và xuất phát đầu tiên của các con tàu không số để gặp gỡ một số nhân chứng là những người từng trực tiếp tham gia vào con đường vận tải huyền thoại này.
Dù hiện nay ở vào độ tuổi “thất thập cổ lai hy”, mái tóc bạc trắng, nước da sạm đen vốn có của người đi biển…, nhưng những chiến sĩ của Đoàn tàu Không số năm xưa mà chúng tôi gặp đều trào dâng niềm tự hào mỗi khi hồi tưởng về những chuyến đi sinh tử “một đi không trở về”. Đối với họ, đường Hồ Chí Minh trên biển măi măi là một bản anh hùng ca bất tử, một kỳ tích về sự anh dũng hy sinh, mưu trí, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào thành quả thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Trụ sở Hội Truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc được đặt tại căn nhà số 154, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Pḥng. Đây là căn nhà của gia đ́nh Thượng tá Trần Văn Hữu (69 tuổi) – Hội trưởng và cũng là một chiến sĩ của Đoàn tàu Không số huyền thoại.
Gian pḥng nhỏ ngay sát đường ngơ của nhà ông Hữu là địa chỉ quen thuộc của các cựu chiến sĩ Đoàn tàu Không số. Những h́nh ảnh, hiện vật về Đoàn tàu được treo ngăn nắp khắp căn pḥng trụ sở. Nơi đây đă trở thành điểm đến của những cựu binh Đoàn tàu Không số khắp trong Nam ngoài Bắc. Họ đến đây để gặp gỡ, trao đổi về t́nh h́nh cuộc sống, sức khỏe của các đồng đội và những hồi tưởng về mỗi chuyến đi biển thầm lặng là phần không thể thiếu trong mỗi lần gặp nhau.
Thượng tá Trần Văn Hữu gia nhập Trung đoàn hải quân 170 từ tháng 2/1964, sau một thời gian được huấn luyện tại Đồ Sơn (Hải Pḥng), tháng 10/1964, ông được lệnh xuống tàu làm nhiệm vụ.
Thượng tá Trần Văn Hữu
Đối với ông Hữu và các đồng đội, thời gian gần 50 năm trôi qua kể từ khi nhận nhiệm vụ đặc biệt như vừa mới diễn ra. Ông Hữu nhớ lại: “Lúc đó được lệnh làm nhiệm vụ th́ háo hức lắm, nhưng đó là nhiệm vụ ǵ th́ tôi và các đồng đội không được thông báo rơ. Sau này khi chuẩn bị xuất phát mới được biết cụ thể về một nhiệm vụ đặc biệt: Chở trang bị, vũ khí theo tuyến đường biển từ Đồ Sơn vào miền Nam”.
Ông Hữu vẫn nhớ vào thời điểm đó, có khoảng 10 chiếc tàu làm nhiệm vụ này và mỗi tàu có khoảng từ 15-18 cán bộ, chiến sĩ. Vị Thượng tá 69 tuổi này đă tham gia 4 chuyến đi làm nhiệm vụ như vậy từ 1964 đến 1973. Có những chuyến đi thành công, tàu cập bến an toàn ở Bến Tre, Cà Mau, Cửa Việt (Quảng Trị) và có chuyến đi nửa đường phải quay lại v́ bị địch phát hiện.
Bên ấm trà đặc buổi sớm quây quần cùng đồng đội, ông Hữu bồi hồi khi nhắc đến những đồng độ cũ: Đối với các chiến sĩ Đoàn tàu Không số, nếu gặp t́nh huống xấu nhất khi đối mặt với tàu địch th́ phương án được thống nhất từ trước là chấp nhận hy sinh, cho nổ bộc phá hủy tàu và vũ khí để giữ bí mật tuyệt đối về con đường vận tải trên biển. Như chuyến đi của tàu 165 vào năm 1968, 18 cán bộ, chiến sĩ trên tàu do Thuyền trưởng-Trung úy Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy đă anh dũng hy sinh, cho nổ tung tàu khi gặp địch tại vùng biển Cà Mau. Ngày hôm sau, các chiến sĩ quân giải phóng miền Nam bơi thuyền đến khu vực tàu 165 nổ th́ chỉ c̣n lại những tấm ván nát bồng bềnh trên biển. Thi thể của toàn bộ 18 chiến sĩ đă ḥa lẫn nước biển quê hương. Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm đă được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Ông Hữu luôn có hai niềm tự hào: Căn nhà của ḿnh được làm trụ sở của Hội Truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển và con trai cả của ông - Trung úy Trần Văn Hiếu cũng tiếp nối truyền thống của cha, hiện đang làm nhiệm vụ tại đảo Trường Sa Đông.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/tienhai/20111014/cac-cuu-binh-chup-anh.jpg[/IMG]
6 chiến sĩ Đoàn tàu Không số đều đang sống cùng gia đ́nh tại thành phố Hải Pḥng
C̣n đối với Đại úy Lê Xuân Khảm (71 tuổi), kỷ niệm về những chuyến đi vào Nam trên biển như vừa mới hôm nào, đầy bâng khuâng, xao xuyến.
Ông Khảm tham gia vào Đoàn tàu Không số từ tháng 10/1964, với vai tṛ là thợ máy. Chuyến đi đầu tiên của ông Khảm là vào năm 1965 trên con tàu số 121, với nhiệm vụ chính là trinh sát mở đường mà không chở vũ khí, thu hút địch để tàu khác đi sau làm nhiệm vụ chính: Vận chuyển vũ khí. Theo ông Khảm, đó là một nhiệm vụ mà tất cả các thành viên trên tàu đều được xác định là “một đi không trở về”, chấp nhận hy sinh. Tàu của ông đă lênh đênh trên biển đến tận gần Côn Đảo, bị địch phát hiện bám đuổi và phải chạy ngược sang gần Hongkong do lúc đó tàu mang cờ Đài Loan, sau đó mới về được Hải Pḥng.
Đại úy Lê Xuân Khảm
Ông Khảm cũng c̣n có 2 chuyến đi đầy gian nan vào các năm 1966 và 1967. Có chuyến tàu vào đến gần Cà Mau th́ bị tàu địch phát hiện bám đuổi. Nhờ sự mưu trí, dũng cảm mà con tàu đă thoát được. Đến lúc từ Cà Mau đi ra Bắc, tàu của ông Khảm do cố t́nh đi ṿng tránh địch nên đă bị lạc, lại phải quay trở lại Cà Mau để ẩn núp. Khuôn mặt thư sinh của vị Đại úy già đă từng làm nghề dạy học này chợt suy tư khi nhắc đến kỷ niệm cùng đồng đội 5 lần liên tiếp từ Ca Màu ra Bắc mà không thành công: “Bốn lần trước khi ra đến Côn Đảo th́ đều bị địch phát hiện, nên phải quay lại. C̣n đến lần thứ 5, tuy đă ra được ngoài xa gần ở giữa mũi Cà Mau và Côn Đảo nhưng vẫn bị địch phát hiện. Hai bên giao tranh ác liệt trong gần 3 giờ đồng hồ. Bên ta có 1 người hy sinh, 8 người khác bị thương và chúng tôi lại phải quay trở lại Cà Mau. Do tàu hỏng nặng sau trận đánh đó nên chúng tôi quyết định hủy tàu, ở lại Cà Mau chiến đấu cùng lực lượng giải phóng quân cho đến tận ngày chiến thắng năm 1975”.
Sau này, ông Khảm c̣n tham gia chiến đấu tại chiến trường Campuchia rồi mới về công tác tại trường Đại học Hàng hải (Hải Pḥng) vào năm 1983. Nghỉ hưu đến nay tṛn 10 năm, hiện ông sống cùng gia đ́nh ở đường Ngô Gia Tự, quận Hải An (thành phố Hải Pḥng).
Đối với Trung tá Nguyễn Văn Phong (66 tuổi), được làm thành viên của Đoàn tàu Không số và đặc biệt là một thành viên của con tàu 235 do Anh hùng LLVT Phan Vinh làm Thuyền trưởng, đối với ông là một vinh dự đặc biệt.
Ông Phong tham gia Lữ đoàn 125 Hải quân vào năm 1966 và nhận nhiệm vụ về Đoàn tàu Không số. Do có năng khiếu bắn súng và kinh nghiệm chiến đấu từ năm 1963 nên ông được huấn luyện chiến đấu ở vị trí pháo thủ số 1 súng 12 ly 7, trên tàu 235.
Tháng 2/1968, tàu của ông được lệnh chở hàng hóa vào miền Nam. Điểm đến lúc đó là Ḥn Hèo (Nha Trang). Trên đường đi nhiều lần gặp phải tàu địch, nhưng nhờ sự chỉ huy tài t́nh của thuyền trưởng Phan Vinh nên tàu đă thoát khỏi sự đeo bám của địch, chuyển hàng hóa thành công vào vùng biển Ḥn Hèo. Ông Phong c̣n 3 lần khác tham gia vận chuyển hàng hóa, vũ khí vào miền Nam.
Trung tá Nguyễn Văn Phong
Tuy vậy, với ông Phong th́ chuyến đi căng thẳng nhất là chuyến đầu tiên cùng tàu 235. Tàu có 20 người th́ khi chiến đấu bị hy sinh mất 10 người. Sau chuyến đi đó, ông được điều chuyển sang làm nhiệm vụ ở tàu khác.
“Khi làm nhiệm vụ, chúng tôi mặc quần áo của thường dân để che giấu địch. Đến bao thuốc lá cũng chỉ có màu trắng, không có một chữ ǵ cả. Cũng có lúc chúng tôi mặc quần áo của ngư dân nước ngoài. Có khi hôm nay tàu mang cờ của nước này, nhưng mai lại mang cờ của nước khác. Chính v́ thế mà nói “tàu không số” th́ không phải, mà phải là tàu nhiều số, rất nhiều số th́ đúng hơn” – ông Phong cùng các đồng đội cùng cười sảng khoái nói.
Đối với các chiến sĩ Đoàn tàu Không số, để đảm bảo bí mật và an toàn cho mỗi chuyến đi, nên lúc thời tiết xấu, biển động th́ tàu mới ra khơi, thường là vào cuối năm. Theo lư giải của các cựu chiến binh Đoàn tàu Không số, thời tiết xấu th́ mới che mắt được sự do thám của máy bay, rada địch. Những chuyến đi và chiến công như vậy của họ diễn ra thầm lặng trước muôn vàn thử thách và tiếng gầm gào của sóng biển Đồ Sơn./.
Hội Truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc được ra đời vào năm 2008, sau cuộc gặp gỡ của đông đảo các cựu chiến sĩ của Đoàn tàu Không số tại Dinh Độc lập (TP HCM). Hội hiện có hơn 1.060 hội viên, với kinh phí hoạt động chủ yếu do các thành viên trong Hội tự đóng góp.
Hội đă được Nhà nước trao tặng 735 Huân chương, Huy chương Giải phóng từ hạng Nhất đến hạng Ba cho các cán bộ, chiến sĩ hải quân; kêu gọi và quyên góp xây dựng vài chục căn nhà t́nh nghĩa cho các hội viên có hoàn cảnh khó khăn…
Nguyễn Hải-Lê Vũ
Đường Hồ Chí Minh... trên biển
[B]Đường Hồ Chí Minh ... trên biển !?
[/B]
Chiều 12/10, tại Cảng Vũng Rô, xă Ḥa Xuân Nam, huyện Đông Ḥa (Phú Yên), tỉnh Phú Yên tổ chức đón đoàn “Hành tŕnh theo dấu tích đường Hồ Chí Minh trên biển”.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/thuthuy/20111012/doan_doan_77.jpg[/IMG]
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ Cứu nước, Bến Vũng Rô (Phú Yên) được Quân uỷ Trung ương chọn làm một trong những điểm tiếp nhận vũ khí trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. Tại đây, trong 2 năm (1964 và 1965) đă có 4 chuyến tàu cập bến thành công, vận chuyển vũ khí, thuốc men, hàng hoá, phục vụ chiến trường Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Tại Cảng Vũng Rô, 148 thành viên trong chuyến hành tŕnh đă được các đoàn viên, thanh niên Phú Yên đón tiếp trong không khí ấm áp nghĩa t́nh. Sau buổi tiếp đón, Đoàn hành tŕnh đă di chuyển đến mũi Đại Lănh và chia làm 6 Trung đội tham gia cuộc thi “Chinh phục đỉnh mũi Đại Lănh”.
Tại Khu di tích lịch sử tàu Không số Vũng Rô, các thành viên đoàn hành tŕnh đă tổ chức thi vẽ tranh về chủ đề biển đảo và lễ dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đă hy sinh trên con đường Hồ Chí Minh trên biển và những người chiến đấu bảo vệ bến Vũng Rô những năm 1964, 1965.
Sáng 13/10, Đoàn hành tŕnh theo dấu tích đường Hồ Chí Minh trên biển tham gia các hoạt động như ngày hội “Tuổi trẻ v́ biển đảo quê hương”; trao học bổng, sổ tiết kiệm, quà của Đoàn hành tŕnh cho các gia đ́nh chính sách của Phú Yên; vận động đoàn viên thanh niên đồng loạt nhắn tin tham gia chương tŕnh “Góp đá xây Trường Sa”, b́nh chọn Vịnh Hạ Long là kỳ quan thiên nhiên thế giới và giao lưu với nhân chứng lịch sử đoàn tàu Không số./.
[B]Kỳ 1: Khơi nguồn con đường huyết mạch[/B]
(VOV) - Chập tối một ngày mùa đông giá rét năm 1960, có những con thuyền lặng lẽ nhổ neo rời bến. Đây cũng là con thuyền mở ra con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Ngày 23/10/1961, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đă quyết định thành lập Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân ngày nay.
Với tên gọi “Đoàn tàu không số”, con đường Hồ Chí Minh trên biển đă vận chuyển 150.000 tấn vũ khí, trang bị và 80.000 lượt cán bộ vượt biển vào Nam chiến đấu. Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường huyết mạch, nối liền hai miền Nam Bắc – Đây là con đường của niềm tin tất thắng, con đường tự hào của bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam.
Tất cả cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ
Ngày 23/3/1959, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố đặt miền Nam Việt Nam trong t́nh trạng chiến tranh. Tháng 5/1959, Diệm ban hành Luật phát-xít 10/59, lê máy chém đi khắp miền Nam, tàn sát các chiến sĩ cộng sản, khủng bố dă man phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, gây bao đau thương tang tóc.
Trước t́nh h́nh đó, Quân ủy Trung ương đă triển khai hàng loạt công tác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu ở miền Nam và xác định: “Muốn đánh thắng kẻ thù nhất thiết phải có vũ khí và phương tiện, không thể đánh Mỹ bằng tay không”. Tuy nhiên, trong lúc này, chiến trường miền Nam đang thiếu thốn trăm bề, không thể tự phát huy “nội lực” được.
Để chi viện cho miền Nam, ngày 19/5/1959, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập “Đoàn quân sự đặc biệt”. Lực lượng ṇng cốt gồm 2 tiểu đoàn. Tiểu đoàn 301 gồm 500 chiến sĩ có nhiệm vụ mở đường vào Nam. Tiểu đoàn 603 gồm 107 chiến sĩ có nhiệm vụ mở đường thủy, vận chuyển vũ khí, lương thực, tổ chức đưa đón bộ đội từ Nam ra Bắc và ngược lại. Thượng tá Vơ Bẩm được chỉ định là Đoàn trưởng kiêm Chính ủy.
Sau khi thành lập, Tiểu đoàn 301 vận chuyển vũ khí, trang thiết bị chủ yếu dùng sức người gùi, xe thồ đi dọc theo dăy Trường Sơn từ miền Bắc cung cấp vũ khí cho chiến trường miền Nam. Sau một tháng rưỡi vượt núi, băng rừng với phương châm "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng", Tiểu đoàn 301 đă hoàn thành chuyến vận chuyển đầu tiên với khối lượng 500kg vũ khí chi viện cho chiến trường Khu 5, mở đầu kỳ tích anh hùng của lực lượng vận chuyển trên đường Trường Sơn.
Tháng 9/1959, Quân ủy Trung ương ra Quyết định 446/QĐ, hợp thức việc thành lập "Đoàn công tác quân sự đặc biệt", lấy tên là Đoàn 559, mở đường giao thông quân sự vào miền Nam dọc theo dăy Trường Sơn. Quyết định lấy Tiểu đoàn 603 đi khai luồng mở đường trên biển. Đây là con đường huyết mạch bí mật vận chuyển duy nhất lúc đó với tư cách là đường Hồ Chí Minh trên biển. Chính từ con đường này, hàng chục tấn vũ khí, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đă vào tới chiến trường Khu 5 và miền Nam an toàn.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/manhhung/20110905/tuong-niem.jpg[/IMG]
Bia ghi nhớ “Đoàn tàu đánh cá Sông Gianh” xuất kích ngày đầu tiên tại Sông Gianh Quảng B́nh (Ảnh tư liệu)
Tập đoàn đánh cá sông Gianh?
Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam đă bước vào giai đoạn mới và ngày càng gay go, quyết liệt. Muốn cách mạng thắng lợi, miền Bắc phải dồn sức chi viện cho miền Nam. Nếu chỉ trông vào lực lượng vận chuyển đường bộ của Tiểu đoàn 301, các tỉnh ở Nam bộ sẽ rất thiếu vũ khí. Trong khi đó, việc vận chuyển vũ khí đạn dược theo đường Trường Sơn tốn nhiều công sức, dễ lộ bí mật, hiệu quả không cao.
Trước thực tiễn ấy, Quân ủy Trung ương đặt câu hỏi: Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng ta từng dùng thuyền chở vũ khí vượt biển từ miền Bắc, từ Campuchia và từ Thái Lan vào chi viện cho miền Nam đánh giặc, tại sao bây giờ không vận chuyển được đường biển?
Ngay lập tức Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập đoàn Vận tải thủy đóng quân tại thôn Thanh Khê, xă Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng B́nh, bên bờ sông Gianh, có nhiệm vụ vận chuyển vũ khí trên biển chi viện cho miền Nam.
Tiểu đoàn 603 gồm 107 người, được biên chế thành hai đại đội. Đại đội 1 do Trung úy Nguyễn Bất là Đại đội trưởng, Trung úy Đồng Yên làm Chính trị viên. Đại đội 2 do Trung úy Lê Quang làm Đại đội trưởng, Trung úy Trương Kia làm Chính trị viên. Để giữ bí mật, đơn vị không dùng tàu thuyền của vùng sông Gianh mà cử người ra xă Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đặt đóng thuyền 2 đáy. Đây là loại thuyền ngụy trang, đáy dưới để vũ khí, đáy trên để lưới và ngư cụ đánh cá, trọng tải mỗi chiếc 20 tấn.
Có tàu rồi, các chiến sĩ Tiểu đoàn 603 tranh thủ ra khơi để "đánh cá". Nói là đi "đánh cá" nhưng thực chất là cuộc diễn tập cho cuộc vượt biển sắp tới. Từ việc quăng chài, thả lưới, tập chịu đựng sóng gió, tập lấy phương hướng theo sao trời, theo địa h́nh. Ban đầu, đội chỉ tập gần bờ, dần đến xa bờ và sau đó là ra khơi.
Những lúc không đi biển, đơn vị tổ chức học tập chính trị và kỹ thuật, nâng cao tŕnh độ giác ngộ giai cấp, tinh thần yêu nước và ḷng căm thù giặc, sẵn sàng hy sinh v́ sự nghiệp cách mạng. Nguyên tắc giữ bí mật mà tất cả các cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn đều biết đó là: Nếu bị địch bắt th́ dù có chết cũng không được khai.
Sau 5 tháng “diễn tập” cho cuộc vượt biển, chập tối một ngày mùa đông giá rét năm 1960, thuyền của Đại đội 1, Tiểu đoàn 603 đă nhổ neo rời bến. Đây là chuyến vượt biển đầu tiên từng bước khai phá ra con đường huyền thoại trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu./.
[B]Kỳ 2: Chuyến đi đầu tiên
[/B]
(VOV) - Trên con thuyền nhỏ, 6 chiến sĩ kiên trung đă nhổ neo ra khơi với 5 tấn vũ khí, dù không thành công nhưng đây là chuyến đi mở đầu cho con đường huyền thoại
Sau 5 tháng “diễn tập” cho cuộc vượt biển, chập tối một ngày mùa đông giá rét năm 1960, thuyền của Đại đội 1, Tiểu đoàn 603 đă nhổ neo rời bến. Đây là chuyến vượt biển đầu tiên từng bước khai phá ra con đường huyền thoại trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/manhhung/20110906/ben-tre.jpg[/IMG]
Các chiến sĩ đoàn tàu không số tỉnh Bến Tre (Ảnh tư liệu)
Xuất quân đêm Giao thừa
Chiều tối ngày 27/1/1960, gió mùa Đông Bắc tràn về, Sông Gianh ́ oạp sóng vỗ. “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh” rời vị trí, tiếp nhận 5 tấn vũ khí, thuốc men chi viện cho chiến trường quân khu 5. Địa điểm cập bến là Bến Hồ Chối phía chân đèo Hải Vân.
Để tuyệt đối giữ bí mật về phương thức vận chuyển vũ khí trên biển, Tiểu đoàn 603 đưa ra hai phương án tác chiến. Thứ nhất, nếu đưa được hàng vào bến, bốc dỡ xong sẽ phá tàu rồi đi theo đường bộ trở về đơn vị. Thứ hai, nếu lạc đường, lạc hướng th́ thả hàng xuống biển để giữ bí mật. Trong trường hợp bị địch phát hiện, bao vây th́ cho phép nổ ḿn phá tàu và hy sinh.
Chiếc thuyền nhỏ bé của Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 603 nhổ neo lúc 18 giờ chiều 30 Tết Canh Tư. 6 người trên con tàu nhỏ bé ấy gồm Đại đội trưởng Nguyễn Bất làm thuyền trưởng, Trần Mức làm thuyền phó, 4 thành viên c̣n lại là Huỳnh Ba, Nguyễn Sơn, Nguyễn Sinh và Nguyễn Ngữ. Tất cả lúc đó đều ở lứa tuổi từ 19 - 23.
Chỉ c̣n 6 tiếng đồng hồ nữa là đến Giao thừa, nhưng tất cả đều quyết tâm ra đi, không ai nấn ná ở lại đón Giao thừa cùng gia đ́nh, dù biết chuyến đi sẽ gặp muôn và khó khăn gian khổ và có thể phải hy sinh. Đại đội trưởng Nguyễn Bất nói với anh em: “Cuộc vượt biển giữa đêm 30 Tết này là mệnh lệnh trái tim người lính. Tiền tuyến đang chờ chúng ta, cả miền Nam đang mong đợi chúng ta, các đồng chí hăy nén việc riêng mà hoàn thành nhiệm vụ”. Lời nói của Bất như đ̣n bẩy thúc giục thêm trong tim mỗi người ḷng yêu nước. Họ quyết tâm ra đi mà không hề tính toán, nghĩ suy. Nắm chặt tay nhau trước khi giong thuyền ra khơi, 6 người thề giữ vững chí khí chiến đấu, nếu bị địch bắt dù phải hy sinh cũng không được xưng khai.
Sau hơn 6 giờ hành tŕnh, được chừng gần 20 hải lư, bất ngờ thuyền gặp sóng to, gió băo. Toàn bộ buồm cánh bị xé toạc. Đáy thuyền bị thủng, nước biển tràn vào khoang. Đúng lúc đó, thuyền bị địch phát hiện. Không thể để hàng rơi vào tay giặc và lộ con đường bí mật, thuyền trưởng Nguyễn Bất đă quyết định phi tang 5 tấn súng đạn và thuốc men xuống biển và d́m thuyền. Địch ập tới, 6 thủy thủ của ta bị bắt. Chúng đưa đi giam ở các nhà lao khác nhau để khai thác thông tin. Lời thề quyết không khai và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng được các chiến sĩ kiên trung giữ trọn. Tại các nhà giam này, 5 thủy thủ đă hy sinh, nhưng tuyến đường vận tải trên biển vẫn được giữa bí mật tuyệt đối.
Sau chuyến đi đầu tiên không thành ấy, Quân ủy Trung ương nhận thấy việc dùng thuyền gỗ, chạy bằng buồm, chở vũ khí vào chiến trường có rất nhiều khó khăn và không an toàn, v́ vậy Bộ Quốc pḥng chỉ thị cho Tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động để t́m một phương thức vận chuyển mới.
Đường Hồ Chí Minh... trên biển
[B]Đường Hồ Chí Minh trên biển
[/B]
Những chuyến tàu huyền thoại
Trong khi chờ phương thức mới vận chuyển vũ khí từ miền Bắc bằng đường biển vào miền Nam, Trung ương Đảng đă chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ chuẩn bị bến băi và cho thuyền ra miền Bắc, vừa thăm ḍ, mở đường, vừa nghiên cứu phương tiện vận chuyển trên biển và báo cáo t́nh h́nh, nếu có điều kiện th́ chở vũ khí về.
Cuối năm 1961, đầu năm 1962, tỉnh Bến Tre đă tổ chức hai đội tàu. Đội tàu thứ nhất do đồng chí Đặng Bá Tiên (Sáu Giao) làm đội trưởng. Sau 9 ngày đêm vật lộn với sóng gió và né tránh sự kiểm soát của địch, ngày 9/6/1961, thuyền đă chở 6 anh em cập vào Hà Tĩnh. Đội tàu thứ hai do đồng chí Lê Công Cẩn (Năm Công) phụ trách, ngày 28/8/1961, thuyền cập vào Thanh Hoá, đó là chuyến tàu huyền thoại thứ nhất.
Chuyến tàu huyền thoại thứ hai xuất phát từ tỉnh Bạc Liêu (c̣n gọi là đội thuyền Cà Mau) với hai đội thuyền ra Bắc. Đội thuyền thứ nhất do đồng chí Bông Văn Dĩa (Hai Dĩa) phụ trách. Ngày 7/8/1961, thuyền cập cửa sông Nhật Lệ (Quảng B́nh). Đội thuyền thứ hai do đồng chí Nguyễn Thanh Trầm (Tư Lưới) phụ trách. Ngày 3/8/1961 thuyền xuất phát, nhưng khi đi ngang qua Huế, thuyền đă bị thủng và nước tràn vào, phải quay trở lại Trà Vinh để sửa chữa.
Chuyến tàu huyền thoại thứ ba của tỉnh Trà Vinh xuất phát ngày 16/8/1961 do đồng chí Hồ Văn In (Bảy Thắng) làm đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thanh Lồng (Hai Tranh) làm Chính trị viên. Khi ra tới Nha Trang, gặp băo, phải dạt sang Ma Cao (Trung Quốc) sau đó tiếp tục đi. Ngày 15/8/1961, tàu bị bộ đội Biên pḥng Trung Quốc giữ và kéo về Du Hải - Quảng Châu. Ngày 16/8/1961 đại diện Đại sứ quán Việt Nam đón và anh em được đưa về Hà Nội.
Chuyến tàu huyền thoại cuối cùng ra tới miền Bắc ngày 15/5/1962 là thuyền của tỉnh Bà Rịa do đồng chí Nguyễn Sơn (Nguyễn Văn Phe) xă đội trưởng xă Phước Hải làm đội trưởng, đồng chí Lê Hà (Lê Văn Mây) làm đội phó. Đóng góp cho chuyến đi này có 10 cây vàng của bà má Nguyễn Thị Mười (Mười Riều). Ngoài việc ủng hộ vàng mua thuyền, má Mười Riều c̣n gửi gắm đứa con trai yêu thương Lê Hà làm thủy thủ tàu. Đến Cam Ranh, tàu bị địch bắt. Sau khi khai thác hơn một tháng không được ǵ, tàu được thả. Phải bán lưới để mua xăng dầu. Ngày 19/4/1962, 6 chiến sĩ trên con tàu ấy tiếp tục lên đường. Sau khi dạt vào đảo Hải Nam, ngày 15/5/1962, đoàn được Thủ tướng Phạm Hùng đón về đến Hà Nội.
Ông Nguyễn Văn Đức (Ba Đức), sinh năm 1941, thủy thủ tàu Bến Tre, hiện là Phó ban liên lạc Cựu chiến binh Đoàn tàu không số TP HCM nhớ lại: “Bến Tre là nơi khởi đầu phong trào đồng khởi, cũng là nơi cho những con tàu huyền thoại nối tiếp nhau vượt biển ra Bắc. Những năm ấy, các tàu của ta đi điều kiện bị phong tỏa cả đường thủy, đường bộ, thiếu thốn vũ khí, thuốc men, nhưng đi đến đâu được nhân dân hết ḷng ủng hộ đến đấy. Những năm ấy, thanh niên trai tráng chúng tôi tràn đầy sức sống, ḷng phơi phới niềm tin phong trào cách mạng. Điều kiện thiếu thốn, công tác chuẩn bị sơ sài v́ không đủ tiền, không có la bàn, hải đồ, thuyền th́ nhỏ bé nhưng tất cả đều xác định tốt nhiệm vụ và sẵn sàng hy sinh, ra đi không hẹn ngày trở lại, không ai tính toán suy nghĩ ǵ”.
Để tiếp tục vận chuyển vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam và phát huy nội lực của các thủy thủ, ngày 23/10/1961, Bộ Quốc pḥng ra Quyết định thành lập Đoàn vận tải thuỷ có nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển mang tên Đoàn 759 - tiền thân của Lữ đoàn 125 ngày nay. Đoàn 759 ra đời với mật hiệu “Đoàn tàu không số” với sứ mệnh mới./.
[B]Kỳ 3: Trinh sát mở đường[/B]
Cuối năm 1961, đầu năm 1962, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đứng trước nguy cơ sụp đổ. Mỹ đẩy mạnh hoạt động “chiến tranh đặc biệt” khắp chiến trường miền Nam. Để đối phó kịp thời với âm mưu thâm độc của Mỹ và bảo đảm vũ khí chi viện cho chiến trường Nam bộ, những chiến sĩ Hải quân Đoàn 759 đă bước vào cuộc chiến đấu mới.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/manhhung/20110908/tau-1.jpg[/IMG]
6 ngư dân “bất đắc dĩ”
Sau phong trào Đồng khởi năm 1960 thắng lợi, Cách mạng miền Nam chuyển biến mạnh mẽ, cục diện chiến trường có nhiều thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu văn t́nh thế và chiếm lại những địa bàn, vùng dân cư đă mất, đầu năm 1962, đế quốc Mỹ thực hiện Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Âm mưu cơ bản của chiến lược này là càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược trên quy mô lớn, đưa hàng triệu nông dân miền Nam vào trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi dân; tăng cường pháo kích, ném bom, rải chất độc hoá học huỷ diệt sự sống trên mặt đất.
Trước t́nh h́nh đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trước mắt của Cách mạng miền Nam chỉ rơ: “…Tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, nhất là xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang tập trung của miền, quân khu…”.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, sau khi rút kinh nghiệm các chuyến vận chuyển đường biển từ Bắc vào Nam chưa thành công, Đoàn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam. Thuyền gồm 6 người do đồng chí Bông Văn Dĩa là Bí thư chi bộ phụ trách, đồng chí Hai Tranh là Phó Bí thư chi bộ.
Đêm 10/4/1962, thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng B́nh) đi về hướng Nam, ngày 14/4/1962, khi thuyền đến vùng biển Nha Trang th́ gặp tàu Mỹ. Lúc đó 6 chiến sĩ b́nh tĩnh đối phó với địch và sẵn sàng hủy tàu hy sinh. Tàu Mỹ chạy ṿng quanh quần đảo từ 8h sáng đến 14h chiều.
Để cứu văn t́nh thế nguy cấp lúc ấy, chiến sĩ Bông Văn Dĩa đă chỉ huy anh em ném hết hải đồ, la bàn xuống biển, mặc quần áo ngư dân và thống nhất phương án: Nếu bị địch bắt tra hỏi th́ nói “Ngư dân đánh cá, gặp sóng gió to nên đẩy thuyền ra xa, xin được cứu trợ”, nếu t́nh huống bị bại lộ hoàn toàn th́ nổ ḿn hủy tàu và hy sinh, quyết không để lộ đường bí mật.
Nhờ có trí thông minh và nghi binh khôn khéo nên địch tưởng ngư dân, không bám theo nữa. Bông Văn Dĩa chỉ huy 5 thủy thủ tiếp tục hành tŕnh về phía Nam. Sau 8 ngày lênh đênh trên biển vừa hành tŕnh vừa tránh sự truy lùng của địch, sáng 18/4/1962, thuyền tới cửa Bồ Đề (thuộc Tân Ân - Ngọc Hiển - Cà Mau) và tiếp tục đi vào cửa Rạch Ráng, 22h đêm đó cập vào Vàm Lũng. Kết thúc chuyến trinh sát mở đường thành công thắng lợi.
Khi nói về việc hóa trang thành những ngư dân, Đại tá Bông Văn Dĩa, nguyên là thủy thủ trên con thuyền gỗ chỉ huy chuyến trinh sát mở đường ngày ấy tự hào: “Lúc đó chúng tôi chẳng sợ ǵ v́ xác định sẵn sàng hy sinh, hủy tàu. Thật ra phương án đóng giả ngư dân đánh cá đă được chuẩn bị từ trước, nên có t́nh huống là xử lư thôi. Không ngờ bọn chúng cũng thua 6 ngư dân bất đắc dĩ này”.
[IMG]http://vov.vn/Uploaded_VOV/manhhung/20110908/tau-2.jpg[/IMG]
Tượng đài ghi nhớ Đoàn tàu không số tại Cà Mau
Chuyến hàng đầu tiên
Trung tuần tháng 8/1962, Quân uỷ Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759 bước vào một giai đoạn vận chuyển mới. Tháng 8/1962, Đoàn 759 nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I (Hải Pḥng) và tiếp nhận bổ sung cán bộ.
Đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí đă rời bến Đồ Sơn (Hải Pḥng) lên đường đi Cà Mau do đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm chính trị viên cùng 11 thủy thủ, 30 tấn vũ khí từ hậu phương miền Bắc đă cập cảng Vàm Lũng đêm 19/10 và được chiến trường miền Nam tiếp nhận an toàn. Đường biển được nối liền giữa hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam bằng tất cả nhiệt huyết, máu xương của các thủy thủ đoàn tàu không số.
Phát huy kết quả của tàu thứ nhất, lần lượt tàu thứ hai, thứ ba và tàu thứ tư tiếp tục vượt biển vào bến Cà Mau. Để đảm bảo bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, những chiếc tàu của Đoàn 759 phải cải hoán thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi “Đoàn tàu không số” được ra đời từ đây. Trong hai tháng, những con tàu không số đă vận chuyển 111 tấn vũ khí cho Khu 9 an toàn, đây là một thắng lợi lớn khi mà phong trào cách mạng ở miền đất cực nam Nam Bộ đang lên cao, rất cần vũ khí để đập tan các cuộc càn quét của Mỹ ngụy.
Khi tuyến đường vận tải biển được khai thông, những tấn vũ khí đầu tiên đến với lực lượng vũ trang Cà Mau (10/1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh đă gửi điện biểu dương khen ngợi Đoàn 759, “Các đồng chí hăy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam giết giặc".
Lời Bác Hồ khen như tiếp thêm sức mạnh, những thủy thủ tàu không số bước vào cuộc chiến đấu mới với những con tàu vỏ sắt có trọng tải từ 50 - 100 tấn đóng tại xưởng đóng tàu Hải Pḥng vào cuối năm 1962. Ngày 17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên do đồng chí Đinh Đạt làm thuyền trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Tiến làm chính trị viên chở 44 tấn vũ khí lên đường và đă vào bến Trà Vinh an toàn. Xưởng đóng tàu III (Hải Pḥng) tiếp tục cho hạ thủy chiếc tàu thứ 2, rồi tàu thứ 3, thứ 4… Nhờ đó, trong năm 1963, Đoàn 759 đă tổ chức đi nhiều chuyến chở hàng hóa, vũ khí; những chuyến tàu cùng cán bộ, chiến sỹ lặng lẽ, bí mật, nối tiếp nhau rời bến, cập bến chi viện cho chiến trường miền Nam.
Mỗi chuyến ra khơi là mỗi lần thử thách đầy khó khăn, gian khổ, căng thẳng, hiểm nguy đối với cán bộ, chiến sỹ. Bởi họ không chỉ đấu trí với kẻ thù mà c̣n phải vượt qua sóng gió, thử thách của thiên nhiên khắc nghiệt. Trong Đoàn, không tàu nào biết tàu nào, trước khi lên đường, cán bộ chiến sỹ không tiếp xúc bạn bè, người thân. Nhờ có tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm, ư thức trách nhiệm cao, tinh thần vững vàng và tŕnh độ chuyên môn giỏi, những chuyến đi của Đoàn đều hoàn thành tốt nhiệm vụ và giữ được bí mật. Chỉ trong ṿng 1 năm, Đoàn 759 đă thực hiện 29 chuyến hàng vào Nam Bộ, vận chuyển 1.430 tấn vũ khí cho chiến trường. Đây là chiến công to lớn trực tiếp góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân và dân miền Nam./.
Mai Thắng
Súng đạn của Nga-Tàu vào Nam !
Vào Nam để giét chính máu mũ của ḿnh thế mà vẫn đăng tải vào đây để ngụy biện cho những hành vi sát máu !
Tết Nhâm Th́n nhớ Tết Mạu Thân !
Nguyễn Khoa Điềm (NKĐ), một nhà thơ VC đă từng đảm trách một chức vụ rất lớn trong Bộ Chính Trị Đảng CSVN, về cuối đời đă thú nhận là: “Bây giờ th́ tôi chỉ c̣n chường mặt trong thơ!”.
[url]http://www.hennhausaigon2015.com/?p=13441[/url]