- 
	
	
	
		Thơ của giun đất 
		Nho học
 Cụ Khổng sáng lập Ngo gia
 Lấy tích xưa cũ lập thành Tứ Thư
 Ngũ Kinh cũng hợp mà nên
 Nay giun thử nghiệm để xem gốc nguồn
 Cụ Khổng ấy dùng tự tâm
 Dùng tri hiểu biết tiếp thần người xưa
 Sau dùng tự tâm của ḿnh
 Sanh thức biến hiện hợp cho đúng thần
 Thức ấy phân biệt là tên
 Và thêm hiện thức tự tâm hiện thành
 Do tự tâm ấy biến lên
 Sao cho đúng với thần xưa tích c̣n
 Ấy chính thần nhăn người xưa
 Chưa phải thiên nhăn minh tường mới hay
 Nếu là thiên nhăn minh tường
 Ắt tên phải khác đó là thức chơn
 Thức chơn chẳng từ tự tâm
 Mà từ chân gốc tinh thần tích xưa
 Các bậc danh nho thời sau
 Thanh danh thiên sử đều nhờ chánh tri
 Áp dụng lời cụ Khổng xưa
 Kết hợp thần nhăn biến tri viên thành
 C̣n các bậc thánh Nho gia
 Lưu danh Lư số muôn đời ngàn năm
 Đó là vận dụng nhăn thiên
 Minh đúng chơn thức cổ kim để dùng
 Chơn thức hợp với chơn tâm
 Vạn sự biến hiện trong thân rơ ràng
 Kết hợp lư số, thiên văn
 Mới hay cái biết vượt ngoài thời gian
 V́ vậy đă học người xưa
 Nên phân biệt rơ tự tâm thầy, ḿnh
 Đi t́m cho được thức chơn
 Ấy là cánh học của người tṛ ngoan.
 
 
- 
	
	
	
		Danh 
		Thế gian tự lập chư danh
 Do sự đúng tốt của thời tạo nên
 Thời thế thay đổi dịch thường
 Danh cũng theo đó đổi cho đúng thời
 Nếu danh chẳng đổi theo thời
 Là do tham trụ bám danh làm giầu
 Tham danh tham trụ tham tàn
 Cũng do tham ấy làm dân oán hờn
 Chịu đau khổ chịu uất hèn
 Do tham trà đạp do tham dập vùi
 Đến khi vắt kiệt tham cùng
 Ḷng dân theo đó mà vùng đứng lên
 Ấy ngày vật đổi sao dời
 Thế gian thêm một chữ danh với thời