SỰ THẬT BẼ BÀNG CUẢ CÂU CHUYỆN " Người Đàn Bà Trên HQ 502 "
Câu chuyện " Người Đàn Bà Trên Chiến Hạm HQ 502" và "Chuyến di tản của Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502 " đă được HQ/Thiếu Tá Phan Lạc Tiếp kể lại , và đă được post vài lần trên VL .
Tigon cũng là một trong năm ngàn người được di tản khỏi Saigon trên HQ 502 , tối ngày 29 tháng 4 , 1975 , nên vẫn để ư theo dơi câu chuyện .
Tới nay , câu chuyện không đi đến đoạn kết hạnh phúc như chính đương sự , HQ P. L. Tiếp và thân hữu mong đợi .
Trước khi nói tới kết cuộc bẽ bàng , xin phép được kể lại từ đầu , để những người chưa từng biết câu chuyện , có thể theo dơi .
[CENTER][IMG]http://i56.tinypic.com/iok8ie.jpg[/IMG][/CENTER]
Chuyến di tản của Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa, chở theo trên 5000 người, rời cầu tàu trong Hải Quân Công Xưởng đêm hôm 29 tháng 4 năm 1975 với bao nhiêu là khó khăn, hăi hùng, nguy hiểm.
Hầu như trên mười năm sau đó, đă định cư ở Mỹ an toàn, nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoàng bởi chuyến đi này.
Trong những giấc mơ kinh dị đó, tôi vẫn thấy rất rơ rừng người đặc nghịt ở trên sàn tàu. Bầu trời th́ đen thẫm, những ánh đèn xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng lên ở mấy góc trời. Kho xăng Nhà Bè trắng xoá, lấp loáng dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ Căn Cứ Hải Quân .Những tiếng nổ oà vỡ bên tai, kéo theo những tiếng rít của những trái đạn rời ṇng từ hai khẩu đại bác của Đặc Khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soi Rạp, ḅ ra cửa biển.
Sáng ngày 30 tháng tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng lô xô từng đợt. Lại những đợt máy bay từ phía Saigon túa ra. Nhũng chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu, thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong ḷng máy bay chật ứ những đàn bà, trẻ con. Mấy bà già hướng về chiến hạm, quỳ, cúi gập người, chấp hai tay mà lễ. Trong khi đó viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết : “Anh em Hải Quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi được lệnh bay ra biển để đáp xuống tàu Mỹ. Nhưng tới điểm hẹn chỉ thấy biển mông mênh, tàu Mỹ đâu không thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ c̣n 5 phút xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đ́nh tôi, mẹ tôi…” Không cầm ḷng được, Hạm Trướng Nguyễn văn Tánh và “Ban Tham Mưu” chấp nhận những khó khăn, bất trắc, đồng ư là cho trực thăng đáp xuống sân chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc những người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió qua đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải toả cấp kỳ. Mọi người phải xuống hết sân chiến xa. Sân tàu trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa…
Tới gần trưa ngày 30 tháng 4, ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang, cuống quưt. Có những tiếng khóc vỡ oà đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi
đến quyết định : Bằng mọi giá phải thoát ra khỏi lănh hải VN. Phải ra đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội ḿnh ở đó. Lệnh từ Soái Hạm HQ 3 chỉ thị cho HQ16 tới kéo HQ502 đi.
Những đêm lừ đừ ở ngoài khơi, đoàn tàu vừa đi vừa đợi nhau. Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả thang dây, lại vớt thêm người.
Đêm xuống, hải đăng Vũng Tàu loé lên từng đợt như thách thức, như mời gọi, như những vẫy tay giă từ. Bờ biển quê hương đấy mà giờ đă trở nên kinh khiếp, chia ĺa, đớn đau. Ngày đêm, qua làn sóng điện của đài Saigon, không c̣n là những giọng nói thân quen, mà là những lời kêu gọi chát chúa, đe doạ của kẻ thù : …quân, cán chính của ngụy quân Saigon mau mau ra tŕnh diện… “
Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ khê, chỗ th́ thiu chua.
Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và ha. Quốc Kỳ VNCH lần cuối được diễn ra, đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang mà rất đớn đau. Lá Quốc Kỳ nền vàng ba sọc đỏ bac. màu từ từ được kéo xuống, cùng với hàng ngàn giọng hát, ǵa, trẻ, nam, nữ cất lên, vừa hùng tráng, vừa chất chứa những nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh mông.
Lời ca dứt. Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nh́n đâu tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đầm đầm nước mắt. Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà : “Ối, con ơi, con ơi…” Trong tập bút kư viết về cuộc di tản này, tôi đă không quên ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng này. Tại sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ 502 lúc đó. Tôi không trả lời đươc. V́ khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo những ǵ mà thần trí tôi đă ghi dấu mà tự động viết ra. Viết ra như vẽ lại rất tự nhiên, không có một sự lựa chọn nào. Nhưng bây giờ th́ tôi hiểu. T́nh cờ tôi đă hiểu . Có những h́nh ảnh tuy mờ nhoà, khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ biến mất trong trí nhớ của tôi.
Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi. Tôi nhớ thật rơ. Tôi hiểu tại sao tôi lại ghi lại tiếng kêu này. Xin hăy cho tôi từ từ nhớ lại.
Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải Quân Công Xưởng, sát bên Bệnh Xá Bạch Đằng. Tôi đi đầu, hướng dẫn cả gia đ́nh trên mười người, theo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài của Hải Quân Công Xưởng. Vừa chạy vừa ngoái cổ nh́n trở lại để kiểm soát đoàn “rồng rắn” của gia đ́nh. Chỉ sợ có người bị lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn.
T́m đến cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Con tàu Thị Nại, HQ 502 nằm đó, vị trí một. Bên ngoài con tàu này c̣n ba con tàu khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu xám ngắt, hướng mũi phía hạ gịng. Người từ phía sau tràn tới. Như đă hẹn, tôi sẽ phải lên cho được con tàu này. Con tàu do bạn thân cùng khoá với tôi làm Hạm Trưởng, Hải Quân Trung Tá Nguyễn văn Tánh. Chúng tôi cũng đă hùn tiền mua thêm nhiều gạo, ḿ và những thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa.
Lúc này nước thuỷ triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người chen sát nhau như gạch trên cầu tàu, nhích tới, nhích tới. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu. Tôi biết rằng khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe gh́ trên mặt đất, không một chút khó khăn. Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới.
Những quân nhân, trai tráng th́ t́m mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đ́nh tôi tất cả mười ba người, con số t́nh cờ không vui, trong đó có hai ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi.
Chúng tôi không có cách nào khác là phải leo ngược cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu mà thôi. Tôi lên đầu tiên, bế trên tay thằng con út hai tuổi bụ sửa, nặng chĩu. Trên lưng đeo một ba-lô quần áo và các thứ cần dùng. Một tay sách cái va-ly nhỏ đựng đầy giấy tờ, bản thảo và h́nh ảnh. Rất nhiều h́nh ảnh. Cầu thang dốc và trơn, khiến tôi trượt chân. Cái va-ly trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay, nắm vội vào sợi giây cable, cái va-ly rơi ṭm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong ḷng. Tôi cúi người xuống để gh́ lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và ḅ lên sàn tàu. Không biết cánh tay ấy của ai. Ai đă cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn tàu tim tôi c̣n đập bập bùng hồi hộp. Tôi quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu. Kiểm điểm lai “quân số” gia đ́nh. Đủ cả.
Tôi quay lại cầu thang, đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào chắn, một tay ch́a ra kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đă nắm. Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần văn Tâm, (nhà văn Trần quán Niệm), anh Nguyễn hưng Quảng, anh Nguyễn đa Phúc và bao nhiêu người nữa.
Chúng tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối. Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đă chuyền, bế bao nhiêu là con trẻ ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nh́n xuống khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi không c̣n thấy cái va-ly của tôi đâu cả. Nước đă cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào. Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao-su. Cái khe này hun hút đen thẳm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ, lấp lánh ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi biết sức nước trông thế nhưng thật là mạnh mẽ.
Chân cầu tàu lù xù những vết x̣ hến, tác rưởi bám đầy. Nếu ban năy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngă xuống đây…Mới thoáng nghỉ thế, toàn thân tôi như lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út của tôi. Rời cầu thang quay gót trở lại với gia đ́nh, tôi vừa quay gót, có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên : ” Con tôi, con tôi rơi…rồi. Oái con ơi là con ơi…” Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà vào sàn tàu. Ở phía cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi, đang được người ta xúm lại chữa chạy, giựt tóc, bôi dầu. H́nh như không ai quan tâm ǵ đến số phận của đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mất tăm. Vô phương cứu t́m. Mà ai c̣n có th́
giờ đâu để ngó xuống cái khe đen thẳm đó. Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa mới xẩy ra. Đêm mỗi
lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khổ của người mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúc mỗi thêm kinh sợ.
Lên được trên tầu, t́m gặp bạn tôi, HQ Trung Tá Nguyễn văn Tánh, Hạm Trưởng, anh nhường pḥng của anh cho gia đ́nh tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo : “Tôi c̣n cái pḥng nhỏ trên Trung Tâm Hành Quân. Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả những quân nhân có mặt, t́m mọi cách để đem tàu ra khơi.
Người th́ chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả hành lang, mọi chỗ. Nhưng như anh Tánh sau này cho biết th́ “nhân viên cơ hữu trên 100 nay chỉ c̣n có 9 người…” T́nh trạng chiến hạm th́ c̣n đang sửa chữa : “Hai máy chánh ráp xong, nhưng chưa thử tại chỗ. Hai máy điện chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bơm cứu hoả chưa ráp. B́nh cứu hỏa CO2 c̣n nằm trên Hải Quân Công Xương. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy chánh lên chưa hàn lại”.
Biết bao nhiêu là trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy th́ tay lái bất khiển dụng. Giây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết những nguy hiểm của chuyến đi này.
Bao nhiêu điều, bao nhiêu h́nh ảnh vẫn đầy ắp trong trí nhớ của tôi. Nhưng h́nh như tiếng kêu vô vọng, thảng thốt của người đàn bà khốn khổ đó đă thấm nhập sâu đậm vào trí năo tôi. Lúc mờ lúc tỏ, nhưng tiếng kêu đó không bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương quan, h́nh ảnh ấy sẽ tự động hiện ra mà lư trí tôi h́nh như không thể can dự vào. Và sự việc đă được xẩy ra rất t́nh cờ mới đây, gần 30 năm xa cách.
( C̣n tiếp...)