Thuận Thiên Di Sử-Cuốn Hạ (3) Hồi 21 :
Thuận Thiên Di Sử -Cuốn Hạ (3)
Hồi 21 :
Mưu Sâu, Chí Cả
Nguyên Vũ Nhất-Trụ đấu chưởng với Thiệu-Thái. Y dồn độc công hại chàng. Nhưng thiền công của chàng quá cao, thành ra chất độc chạy ngược trở lại người y. Nhật-Hồ lão nhân dùng tâm pháp trong Hồng-thiết kinh tạm giải cái đau cho y. Nhưng lão chỉ biết hoá giải chất độc do Hồng-thiết công, chứ không biết hoá giải chất độc do Thiền-công truyền sang. Vì vậy sau đó mấy khắc cơn bệnh tái phát. Thiệu-Thái đã điểm vào mấy huyệt bằng Thiền-công tạm phong bế cho y khỏi đau.
Bây giờ y bị Tự-Mai khai huyệt, cái đau đớn trở lại. Chịu được một lát, mồ hôi vã ra như tắm, y bật lên tiếng rên. Nhưng y vẫn ngậm miệng. Một lát chịu không nỗi, y lăn lộn mấy vòng rồi kêu lên:
- Tôi ... xin... nói..ói...ói.
- Mi giam vương phi Khai-thiên vương cùng phu nhân Thiên-trường đại hiệp ở đâu?
- Ở Ngọc-thụy. Lầu Ngọc-lan.
Mỹ-Linh run lên:
- Ngọc-thụy ở đâu?
- Trên bãi sông Hồng, trụ sở của Hồng-thiết giáo Thăng-long.
Câu trả lời của Vũ Nhất-Trụ làm Tạ-Sơn suy nghĩ về những biến cố trước đây. Nếu đúng như lời Nhất-Trụ khai, Hồng-thiết giáo quả có nhiều cơ sở mật ngay trong lòng Thăng-long. Bởi chủ nhân lầu Ngọc-lan cũng kiêm chủ nhân của tửu lầu Động-đình, nơi ăn chơi bậc nhất đế đô Đại-Việt.
Ngọc-thụy nằm trên một mỏm sông, nơi giao hội sông Hồng và sông Đuống. Giữa bãi Ngọc-thụy có một ngôi dinh thự kiến trúc từ thời vua Đinh. Chủ nhân là thân vương tên Đinh Điền. Khi Lê Hoàn tư thông với thái hậu Dương Vân-Nga. Đinh Điền cùng Nguyễn Bặc đem quân đánh. Giữa lúc trận chiến nghiêng về phía Đinh, Nguyễn thì hai người bị thái hậu giả gọi vào cung tưởng thưởng, rồi thình lình sai võ sĩ giết chết. Sau đó con cháu Đinh Điền bán dinh thự lại cho một phú gia. Phú gia trồng trong vườn toàn thứ Ngọc-lan, nên đổi thành Ngọc-lan đình. Chủ Ngọc-lan đình hiện thời làm chủ cả tửu lầu Động-đình.
Thời Lý kinh thành Thăng-long có bốn đại tửu lầu. Một tên Lạc-viên lâu ở phía Bắc hồ Tây, nay thuộc xã Phú-thượng. Một ở phía Nam hồ tên Nguyệt-quang lầu, nay thuộc xã Đông-thái. Một tên Long-biên anh hùng quán ở bờ sông Hồng nay thuộc xã Thanh-lương. Tử lầu thứ tư đặt trên con thuyền cực kỳ lớn, mang tên Động-đình tửu lâu. Thuyền có ba tầng. Tầng trên cùng có năm mươi bàn. Ở giữa đặt một cái đài bằng gỗ cao hơn trượng, để cho ca nhi lên đó đứng hát. Xung quanh đài, một cái quầy, bầy rượu, cây trái. Tầng dưới một nửa dùng làm nhà bếp, một nửa chia thành nhiều phòng để du khách mua hoa thưởng lãm. Tầng dưới cùng, dùng làm nhà kho, nơi lọc nước, chứa nứơc. Thông thường Tửu-lầu đậu ở bãi Ngọc-thụy. Nhưng cũng có khi di chuyển dọc theo sông. Cả hai cơ sở, do một văn nhân tên Trịnh Hồ làm chủ. Năm nay Trịnh Hồ, tuổi đã trên bẩy mươi lăm. Dáng người lão hơi mập, tóc chỉ mới đốm bạc. Lão không biết võ công, nhưng lại giao du với tất cả các võ phái. Chính phái như Tiêu-sơn, Đông-a, Mê-linh, Sài-sơn, Tản-viên, Tây-vu tuy có chỗ không đồng ý với nhau. Nhưng cùng giống nhau ở chỗ, họ đều là khách của tửu lầu Động-đình. Ngay cả những bang hội, phái võ nhỏ, hay bọn đầu trộm đuôi cướp, lão cũng thân quen hết. Lão lại rất hào phóng. Võ lâm anh hùng hắc bạch, thiếu tiền, ghé thăm lão, thế nào lão cũng tặng cho số bạc lớn. Vì vậy tiếng tăm lão lừng lẫy.
Đối với các thân vương, quan lại trong triều, gần như lão quen biết hết. Lão nuôi một lúc hơn trăm con gái thực xinh đẹp. Lão cho các cô mang tên Lan. Lan Thanh, Lan Hồng, Lan Phương, Lan Thúy... Vì vậy khách tiêu dao đặt cho các cô mỹ danh bách lan. Các nàng Lan rất kiêu kỳ. Không phải ai cũng được tiếp. Các nàng chỉ tiếp ba loại người. Thứ nhất phải có chức tước. Văn từ chức thiếu bảo. Võ từ chức thần tướng. Thứ nhì, phải thuộc giới tao nhân mặc khách, hào hoa phong nhã. Thứ ba phải có điạ vị trong võ lâm. Hễ không được tiếp thì thôi. Còn được tiếp, lại không phải trả tiền. Kể cả tiền cơm rượu.
Nhất-Trụ quay lại nói với Khai-quốc vương:
- Vương gia! Nếu vương gia không tưởng đến công lao của lão phu cũng tưởng đến Tây-cung quí phi... Ối... Ối...
Khai-quốc vương biết nếu mình can thiệp, khoan thứ cho Vũ Nhất-Trụ hôm nay, e không bao giờ Tạ Sơn dám thẳng tay với bọn phản nghịch. Vương nói với Nhất-Trụ:
- Cô gia muốn khoan miễn cho tiên sinh. Nhưng ngặt vì đây thuộc thẩm quyền của Tạ chỉ huy sứ.
Tạ Sơn là sư đệ của Khai-quốc vương, chàng hiểu sư huynh hơn ai hết. Sư huynh nói vậy như muốn bảo chàng đừng có nể vì. Chàng đưa mắt nhìn sư phụ, chỉ thấy người lơ đãng nhìn mây trắng trôi trên bầu trời xanh ngắt.
Vương nói với Mỹ-Linh:
- Phàm làm việc nước, không được vị tình riêng. Con gái nhớ không? Chú cho con câu này:
Thương anh tôi để trong lòng,
Việc quan tôi cứ phép công tôi làm.
Mỹ-Linh được chú cho thêm uy quyền, nàng cương quyết hơn:
- Quốc cữu còn giam ai nữa không?
- Còn, nhiều lắm, thần không nhớ rõ hết tên. Xin cứ đến Ngọc-lan đình mà tìm.
Thuận Thiên Di Sử- Hồi 22 :Thiên Niên Hà Thủ Ô
Thuận Thiên Di Sử----
Hồi 22 :
Thiên Niên Hà Thủ Ô
Nó vội thổi tắt ngọn đèn trên tay thiều nữ. Tiếng chân hai người tới cửa gỗ, rồi im bặt. Trong ánh sáng mờ ảo, thấy bóng dáng hai người, nó suýt bật cười, thì ra Mỹ-Linh với Tự-Mai. Nó tóm lược mọi truyện kể cho hai người nghe, tay chỉ xuống hầm:
- Ngoài đó có gì lạ không?
- Không.
Mỹ-An nói sẽ:
- Thôi chúng ta lên khỏi hầm.
Mỹ-An dặn:
- Cô cậu phải nhớ nhé, khi các đại lão hội họp, dù chúng ta cũng không được lai vãng. Chỉ lúc có lệnh mới được ra. Cô cậu tên gì?
Tự-Mai chỉ giới thiệu:
- Anh này tên Ngọc-Hiền. Tôi tên Ngọc-Đức. Còn chị này tên Ngọc-Phúc.
Ngoài sân vọng vào nhiều tiếng nói lao xao. Trong đó có tiếng rất quen. Mỹ-Linh ớn da gà, vì chính tiếng nói của Hoàng Văn. Một tiếng nói nữa, nàng nhận ra của Lê Ba. Mỹ-Linh nói nho nhỏ cho Tự-Mai nghe:
- Phải cẩn thận, tên Hoàng Văn biết mặt chị. Chị phải lánh mặt y, vì y làm quản gia phủ Khai-thiên vương.
Có tiếng Phạm Trạch gọi vọng vào:
- Mỹ-An đâu, ra tiếp khách nào.
Mỹ-An vội chạy ra. Ngoài Hoàng Văn, Lê Ba còn hai người đàn bà tuổi rất trẻ, xinh tươi. Phạm-Trạch chỉ vào thiếu phụ dáng người tha thướt:
- Đây là phu nhân của tam sư huynh Lê Ba. Tên Xuyên-Thủy.
Y lại chỉ vào một thiếu nữ hơi đậm đà:
- Đây phu nhân của tứ sư huynh Hoàng Văn. Tên Thuận-Ngôn. Em thay anh mời hai vị vào nhà uống nước, ăn bánh thưởng trăng.
Mỹ-An chào hai thiếu phụ. Trong lòng nàng nổi lên một lớp sóng:
- Không biết hai người này lý lịch ra sao? Họ thuộc Hồng-thiết giáo tình nguyện nguyện dâng hiến cho hai con quỉ hay cũng bị bắt như mình?
Mỹ-An mời hai người vào nhà. Mỹ-Linh, Tự-Mai, Tôn-Đản vội cúi đầu hành lễ. Vợ Lê-Ba nhìn Mỹ-Linh, nhăn mặt:
- Cô này là giáo chúng hay tỳ nữ?
Mỹ-An đáp:
- Tỳ nữ.
Xuyên-Thủy nói nhỏ:
- Em phải cẩn thận đấy. Với nhan sắc của em như thế này, e rằng mấy con quỉ không tha đâu.
Nghe Xuyên-Thủy nói, Mỹ-Linh biết nàng bị bắt làm cây thuốc, chứ không phải giáo chúng tình nguyện. Vì giáo chúng, chẳng bao giờ dám gọi trưởng lão bằng tiếng con quỷ.
Mỹ-An pha trà, lấy ra tám hộp bánh mứt mời khách. Mỹ-Linh là công chúa, nàng đã được thưởng thức tất cả mọi thứ bánh ngon, cho nên nhìn qua, nàng biết những thứ bánh Trung-thu này trân quí không kém gì trong Hoàng-cung.
Trong sân lại thêm Đỗ Xích-Thập với Hoàng Liên. Lê Ba hỏi:
- Cửu đệ thực tệ. Y tổ chức buổi họp hôm nay, mà giờ này y chưa tới. Không biết có gì trở ngại không?
Có tiếng nói vọng lại:
- Đệ tới đây rồi. Sao tam sư huynh khó khăn với đệ thế?
Tự-Mai nhìn Phạm Hổ:
- Cứ như Vũ Nhất-Trụ khai, tên này giả danh Trịnh Hồ, chủ nhân Ngọc-lan đình đây. Nếu bắt được tên này, sẽ biết chỗ giam mẫu thân ta.
Phạm Hổ vẫy tay, chín thiếu nữ quần áo mầu hồng nhạt, tha thướt, đầu đội mâm, đậy lồng bàn tiến vào sân. Như quen thuộc, chúng theo cây cầu, ra ngôi nhà thủy tạ. Sau khi để các mâm cỗ xuống, họ chia nhau người thắp đèn, người bầy cỗ. Phút chốc cỗ bầy ra làm chín cái bàn khác nhau.
Phạm Hổ đứng lên nói:
- Hồi xưa, mỗi lần bầy tiệc Trung-thu, có mười một bàn. Một bàn dành cho sư phụ, mười bàn dành cho anh em chúng ta. Nay sư phụ với ngũù sư huynh qui tiên, chỉ còn chín anh em ta. Nghĩ cũng buồn.
Y tính toán:
- Tại sao đại sư huynh với nhị sư huynh chưa tới?
Lê Ba thản nhiên:
- Không chừng có gì trở ngại chăng?
Nghe Lê Ba nói, Mỹ-Linh rùng mình về sự sảo quyệt của bọn Hồng-thiết giáo. Rõ ràng tên Lê Ba chôn sống Vũ Nhất-Trụ, y cũng biết rõ Đặng Trường bị bắt, thế mà y làm như không biết gì.
Hoàng Liên cất tiếng the thé:
- Tôi nghe nhị sư huynh bị lộ hình tích. Phái Đông-a bắt giao cho Khu-mật-viện. Không biết Khu-mật-viện giam ở đâu?
Lê Ba cười:
- Khu-mật viện là nơi làm việc cũ của đại sư huynh. Đại sư huynh chỉ dơ tay một cái, sẽ cứu đươc nhị sư huynh ngay.
Cả bọn ngồi uống trà nói truyện. Một lát sau, Hoàng Văn lên tiếng:
- Chiếu giáo qui của sư phu, đại sư huynh, nhị sư huynh đến trễ, chúng ta cứ khai hội. Tam sư huynh có vai vế cao nhất, xin mời lên chủ vị.
Lê Ba ngồi vào ghế đầu bàn.
Phạm Hổ đứng lên :
- Mời các vị nhập tiệc.
Bẩy người ngồi vào bẩy bàn, còn hai bàn dành cho Nhất-Trụ với Đặng Trường vẫn để trống.
Phạm Hổ cười nói:
- Trong chúng ta đây ai cũng mang theo thuốc cả. Đêm Trung-thu đẹp thế này, chúng ta mời thuốc cùng dự tiệc, nên chăng?
Hoàng Liên rít lên:
- Tiểu muội không mang thuốc theo. Sư huynh kiếm cho muội đi.
Phạm Hổ vui vẻ:
- Gì chứ thuốc cho muội thì dễ quá.
Y cầm dùi gỗ đánh vào cái chiêng một tiếng. Lát sau, từ bên phía Ngọc-lan đình có bốn thanh niên tuổi khoảng hai mươi đi ra. Người nào trông cũng khoẻ mạnh, đẹp đẽ. Bốn người đứng trước Phạm Hổ chờ lệnh.
Phạm Hổ bảo Hoàng-Liên:
- Bốn cây thuốc này, sư muội lựa cây nào?
Hoàng Liên đưa mắt quét qua bốn thanh niên một luợt, rồi mụ kéo một tên ngồi vào lòng. Mụ ôm thanh niên đó, hôn vào miệng. Thanh niên cũng hai tay ôm lấy cổ mụ. Hôn nhau chán, mụ nói:
- Đa tạ sư huynh, muội chọn cây thuốc này.
Phạm Hổ vẫy tay cho ba thanh niên kia lui. Thanh niên ở lại, ngồi bên cạnh Hoàng Liên. Một tay quàng cổ mụ. Một tay sờ soạng vào nhũ hoa, coi như trước mặt không có ai.