-
[B][COLOR="#800080"]Chương 21 :TƯ PHÁP KIẾU CỘNG SẢN,TÙ PHẢI VIẾT BẢN LUẬN TỘI ĐỂ LÊN ÁN MÌNH[/COLOR][/B]
Vào năm 1978 sức khoẻ Tù suy xụp tới mức cùng cực, mọi người đang sống trong hoàn cảnh thất vọng đợi chờ ngày đến lượt ḿnh nhắm mắt xuôi tay rũ sạch nợ trần, bỗng dưng có một phái đoàn Y tế thật hùng hậu của Trung Ương từ Hà Nội tới K1 Trại Tân Lập, thực hiện việc khám sức khoẻ cho Tù để t́m nguyên nhân v́ sao sĩ số tù tử vong trong thời gian qua lên cao đến thế?
Sau kỳ kiểm tra của Đoàn Y tế, Trại phát cho Tù mỗi người một Phiếu Bưu Kiện gửi 5 Kí lô thực phẩm khô qua đường Bưu điện, và được phép viết thơ để trại chuyển về cho gia đ́nh xin tiếp tế. Ai đang bị giam trong nhà kỷ luật, hoặc đang bị phạt giảm mức ăn hàng tháng th́ không được hưởng đặc ân này. May mắn cho bọn 4 người chúng tôi (Trần văn Thăng, Phạm Tài Điệt, Nguyễn văn Phúc, và Tôi Nguyễn-Huy Hùng) đă hết hạn phạt giảm mức ăn, nên cũng được nhận Phiếu Bưu Kiện và viết thư gửi về cho gia đ́nh xin tiếp tế như mọi người trong Đội.
Cũng kể từ đấy, Trại giam không muối ngọn sắn (đọt cây khoai ḿ) làm dưa chua phát cho Tù ăn thay rau hàng ngày nữa. Trước đó, Trại giam đă dựa vào một bài báo của một Kỹ sư Nông nghiệp Giáo sư tại Đại học Cần Thơ phổ biến trên Nhật báo “Nhân Dân” của Đảng và Nhà Nước, phân tích xác định rằng: “bốn kí lô lá đọt sắn” có “chất lượng” dinh dưỡng tương đương với “một kí lô thịt ḅ”.
Cây sắn do Tù trồng để lấy củ nộp cho Trại, đọt sắn cũng do Tù đi cắt về giao cho nhà bếp, nhưng trên bản kê công khai thu chi tiền thực phẩm hàng ngày tại nhà bếp món dưa đọt sắn muối cũng được tính vào mục chi. Như vậy mỗi kí lô đọt sắn muối thành dưa cho Tù ăn được tính tiền 3 lần:
1/- tiền công lao động hàng ngày của Tù đi trồng sắn;
2/- tiền công Tù đi cắt đọt sắn đem về nộp cho nhà bếp;
3/- tiền công nhà bếp muối thành dưa chua cung cấp cho Tù ăn hàng ngày.
Thật vô lư không thế nào hiểu nổi về việc quản lư tiền thu chi này của Ban Giám Thị trại giam Tân Lập!!!
Cũng kể từ ngày này, địa chỉ Trại giam được ghi rơ ràng tên Trại với cả tên Quận tên Tỉnh nơi Trại tọa lạc, chứ không dùng ám số như hồi ở bên Trại Quân đội quản lư, và thư phải dán tem cước phí đầy đủ mới được chuyển đi.
Khoảng một tháng sau, Đội Đại tá chúng tôi có bạn được thân nhân ở Hànội làm cách nào không biết, được phép đến Trại “thăm nuôi” đem theo cả chục kí lô thực phẩm khô tiếp tế cho mà “bồi dưỡng”. Anh bạn Tù được “thăm nuôi” cho biết, người anh Vợ tốt bụng đến thăm em rể này trước năm 1954 cũng là một Hạ sĩ quan trong lực lượng vơ trang chống Cộng sản của phe Quốc gia. Anh ấy “nhẹ dạ cả tin” đă lỡ nghe lời tuyên truyền xảo quyệt của Việt Cộng ở lại Hànội không di cư vào Nam theo quy định của Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954, v́ thế anh ấy đă bị đưa đi “tập trung cải tạo” suốt từ cuối năm 1954 cho đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng xong miền Nam đất nước Việt Nam thống nhất mới được thả ra cho làm người công dân Xă hội Chủ nghiă.
Vào giữa năm 1979, báo “Nhân Dân” của Đảng và Nhà Nước loan tin, hồi đầu năm “Giặc Tầu” (Trung Cộng) đă xua quân lấn chiếm một số tỉnh biên giới nước ta, nhưng đă bị quân đội nhân dân anh hùng của chúng ta đánh cho thất bại nhục nhă ê chề phải ôm đầu máu chạy chối chết rút ra khỏi bờ cơi Việt Nam rồi…
Thảo nào khoảng mùa Hè năm 1978, tự nhiên thấy một số Tù miền Nam đang bị giam trong các Trại cải tạo ở mấy Tỉnh miền biên giới như Lào Cai, Sơn La… được di chuyển về K1-Tân Lập với chúng tôi, chắc là để tránh việc Tù miền Nam được “Giặc Tầu” giải phóng chăng?
(Mới đây vào ngày 7-8-2012, trên trang Web [url]www.chinhviet.net[/url] của Tổng hội cựu tù nhân chính trị Việt Nam tại Hoa Kỳ có đăng bài MẤT 9 TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM, MÀ NHÂN DÂN KHÔNG BIẾT. CHIẾN LŨY TRUNG CỘNG TRÊN LĂNH THỔ VIỆT NAM do tác giả Huỳnh Tâm viết tại Paris ngày 11-2-2012 phổ biến trên trang Web [url]http://hientinhvn.blogspot.com/[/url] nên bàn dân thiên hạ mới biết sự thật là, từ ngày 17-2-1979 đến ngày 20-2-1979 Trung Cộng xua 9 Quân Đoàn với 26 Tướng lănh dưới sự điều dộng của Đặng Tiểu B́nh đánh chiếm 6 Tỉnh biên giới Bắc Việt là Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh.
Một thời gian sau khi chiếm đóng chúng tự động rút đi, nhưng một số điểm chiến lược quan trọng của đất nước đă bị chúng chiếm cứ tạo dựng thành một chiến lũy mới dài suốt từ Đông sang Tây sâu trong lănh thổ Việt Nam, và ngày nay những khoảng đất từ sau chiến lũy này trở lên hướng Bắc đă trở thành đất của Trung Cộng, chẳng hạn Thác Bản Giốc thuộc tỉnh Cao Bằng, Ải Nam Quan thuộc huyện Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn, và nhiều nơi khác nữa thuộc các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Quảng Ninh…).
Ít ngày sau khi bản tin về trận chiến tại các tỉnh miền biên giới được công bố, Trung ương Đảng Cộng sản Hànội cho Phái đoàn về tổ chức học tập, nhai lại những điều đă nhồi sọ đi nhồi sọ lại từ mấy năm qua về “bản chất phản động” của Đế quốc Mỹ, của Ngụy Quân Ngụy Quyền, và những “thành công to lớn” của Cách mạng Vô sản và Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lănh đạo sáng suốt của “Liên xô vô địch” và “Bác Hồ vĩ đại”. Đặc biệt lần học tập này, đoàn Cán bộ dùng h́nh học lư giải bài toán Tiểu học về Lực, Thời gian, và Khoảng cách, để dẫn chứng cho Tù hiểu rơ hơn về ư nghiă câu nói cửa miệng mà các Cán bộ Trung ương cũng như Địa phương thường xuyên lập đi lập lại với Tù là:
“-Thời gian cải tạo mau (ngắn) hay lâu (dài), tùy thuộc vào thiện chí và tinh thần cố gắng cải tạo của chính bản thân mỗi người trong các anh tự quyết định. Cách mạng chỉ tạo môi trường cho các anh thực hiện thôi”.
Khi giới thiệu đoàn Cán bộ Trung ương, Thiếu tá Công an Nhân dân Nguyễn Thùy Trại trưởng trại Tân Lập đă khôn khéo lợi dụng dịp may hiếm có để khoa trương tài ăn nói và “lập trường trung thành cao độ” của ḿnh đối với Bác, Đảng, với hy vọng các “đồng chí đàn anh” từ Hànội đến sẽ “quan tâm chiếu cố đề bạt” cho “thăng hàm” (lên cấp bậc) nhanh hơn.
Có lẽ nhờ thế, cuối năm 1981 Thùy đă được thăng cấp Trung Tá để đưa một số chúng tôi vào Huyện Như Xuân, Tỉnh Thanh Hoá thành lập Trại Thanh Phong gần Trại Thanh Cầm trong vùng rừng núi âm u hẻo lánh giữa ḷng dẫy Trường Sơn, với dự tính của Nhà Nước là khai phá khu rừng hoang Thanh Cầm thành Vùng Kinh Tế Mới, rồi thả tù ra và đưa tất cả gia đ́nh tù tới định cư vĩnh viễn tại đây.
Trong dịp này, Thùy đă trích thơ trong chuyện Kiều của Cụ Nguyễn Du và thơ bợ đỡ đề cao Bác, Đảng, và các ông Tổ Cộng sản Liên xô của bồi bút Tố Hữu, để mạt sát tinh thần người dân miền Nam là vong bản, sợ Mỹ, phục Mỹ, bắt chước Mỹ, lệ thuộc Mỹ..., chê sự phồn vinh của nền Kinh tế miền Nam Việt Nam là “phồn vinh giả tạo”. Hắn ta đơn cử những thí dụ rất điển h́nh mộc mạc như: “-Đất nước ta thiếu ǵ tre, giang để đan rổ rá bện giây thừng, mà phải làm rổ rá giây nhợ đủ cỡ bằng chất nhựa nilông của nước ngoài. -Chúng ta thiếu ǵ đất đai để trồng bông hoa đủ loại, để lấy đất nặn nung ra bát điă, tách uống nước, b́nh cắm hoa, chum vại chứa nước, mà phải làm các thứ này bằng nhựa nilông mầu mè loè loẹt nhập khẩu từ các nước Đế quốc Tư bản...”.
Đấy là những lời phát biểu như vẹt, dựa theo các bài học nhồi sọ của Đảng và Nhà Nước đă phổ biến, cộng với tầm nh́n không xa quá sống mũi của Thùy vào muà Thu năm 1979.
C̣n tiếp...
-
Vài tháng sau vào khoảng cuối năm, trong một dịp nói chuyện khác với Tù tại Hội trường của Trại có sự hiện diện đông đủ Cán bộ trực thuộc, Thùy khoe là mới đi tham quan các Trại Cải tạo bên Liên xô và Nam Bộ Việt Nam về. Những lời Thùy phát biểu lần này khác hẳn với những ǵ hắn đă phát biểu trước đó mấy tháng.
Hắn khen “-Đường xá trong Nam Bộ rộng răi, tráng nhựa bằng phẳng, ngồi trên xe di chuyển trên Xa lộ êm như ngồi trong pḥng khách, không gập ghềnh nhồi muốn gẫy xương sống lưng như đường của chúng ta ở ngoài này (tức là ngoài Bắc)”. Hắn khen “-Nhà vệ sinh trong Trại cải tạo ở Nam Bộ sạch sẽ văn minh giống như mẫu bên Liên Xô. Người ta đại tiện vào lỗ hầm có nước giật cho phân trôi ra hầm chứa phân kín, chứ không dùng những thùng gỗ để lộ thiên như của chúng ta ở đây, lúc nào mùi hôi thối cũng theo gió xông nồng nặc cả ngày lẫn đêm làm ô nhiễm không khí, làm ổ cho ruồi bọ sinh sôi nẩy nở gây bệnh truyền nhiễm”.
Hắn khen
“-Phụ nữ ở trong Nam mặc quần áo may bằng những loại vải ni lông mềm có in hoa lá, mầu sắc hài hoà, trông thấy dịu dàng vui con mắt. C̣n Nữ giới của chúng ta ở ngoài này, quanh năm đi đâu cũng bộ quần áo cánh nâu xồng thâm đen...”.
Thật đúng là bản chất tiểu nhân “mặt ĺ mày lợm” của bọn Cán bộ Việt Cộng gian manh xảo quyệt lật lọng, “lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”, “nhổ ra rồi lại liếm vào như không”, không biết xấu hổ biết nhục là ǵ!!!
Mục đích chính của Đoàn Trung Ương đến tổ chức đợt học tập kỳ này, là để buộc Tù phải “tự giác” “thành khẩn” khai mọi chi tiết lư lịch cả 3 đời ḍng họ Nội họ Ngoại của ḿnh và của Vợ. Liệt kê tất cả mọi hoạt động của mỗi người (kể cả vợ và các con của ḿnh), phân tích và quy trách xem những hành động nào của mỗi người có hại cho Nhân dân và làm cản trở Cách mạng trong việc xây dựng Xă hội Chủ nghiă. Phải ghi ra rơ ràng ai thương ḿnh nhất, ḿnh ưa ai ghét ai nhất, tại sao?
Về phần “bản thân”, phải kể đầy đủ chi tiết mọi hoạt động từ khi mới lọt ḷng Mẹ cho đến ngày 30-4-1975, và tự quy trách những lỗi lầm của ḿnh đối với Cách mạng và Nhân dân như thế nào? đáng xử tội ǵ?
Ngoài ra, c̣n phải tố cáo rơ họ tên, tuổi và nơi ở hiện tại của những người quen ḿnh cho rằng họ đă thực hiện những việc làm mà trong các bài học tập đă phân tích cho là “phản động đối với Cách mạng và Nhân dân”.
Mỗi người phải viết tối thiểu đầy một cuốn vở học sinh 100 trang do Trại cung cấp. Trong dịp này, cũng có người “thành khẩn” đến nỗi viết đầy cả cuốn vở chưa đủ cần phải xin thêm giấy. Nhưng cũng có người viết chữ thật lớn, cố nặn óc cả tuần lễ mà chẳng t́m được ǵ nhiều để khai cho đặc hết một cuốn vở.
Sau thời gian viết “Bản tự khai, tự luận tội và tự lên án” chính ḿnh xong, là thời gian từng Đội ngồi tập chung để mỗi người phải đích thân đọc nguyên văn “Bản Tự Khai” của ḿnh cho anh em trong Đội cùng nghe. Sau khi nghe, anh em phải thay phiên nhau góp ư kiến xem viết như vậy đă “thành khẩn” đầy đủ chưa? Có điều ǵ cần phải làm sáng tỏ thêm không? Cái án mà người khai tự quy định cho ḿnh, có nhẹ quá đối với tội lỗi đă tự nhận không?...
Các Đội khác được tập trung thực hiện tại Láng ngủ của họ. Riêng Đội Đại tá chúng tôi, v́ Láng giam chật hẹp nên phải lên Hội trường để làm công việc này dưới sự giám sát của Quản giáo Đội. Các Cán bộ thuộc đoàn Trung ương và Cán bộ canh gác Tù tại Trại có thể thoải mái đứng ngoài cửa quan sát và lắng nghe, bất cứ lúc nào họ muốn.
Đến lúc này, những anh em nông nổi nhẹ dạ cả tin nhất cũng đă thấu hiểu rơ ràng cái ác tâm của Cộng sản, nên chẳng ai “thành khẩn” khai thật cũng như góp ư kiến “xây dựng” nhau khắt khe nữa.
Trong thời gian viết ai cũng đăm chiêu suy nghĩ, cố gắng sáng tác ra một tác phẩm tưởng tượng hợp t́nh hợp lư nhất, cho phù hợp với “thành kiến đại ngoan cố” và “độc đoán cố hữu” của Nhà Nước Cộng sản về “Ngụy quân Ngụy quyền” cho nó xong chuyện.
Đến lúc góp ư kiến “xây dựng”, bạn bè thân cũng ngầm thoả thuận với nhau từ trước, lần lượt “sốt sắng” thay phiên “xung phong” phát biểu ư kiến. Chẳng hạn: Lời khai rất “thành khẩn”, đă nhận rơ được lỗi lầm của ḿnh đối với Cách Mạng và Nhân Dân... theo đúng với “yêu cầu” của Đảng và Nhà Nước đă đề ra, rất xứng đáng được hưởng Chính sách Khoan hồng Nhân đạo của Đảng và Nhà Nước tha cho tội chết để cải tạo mau tiến bộ trở về đoàn tụ với gia đ́nh…
Trong thời gian học tập này, đoàn Cán bộ Trung ương muốn tỏ cho Tù thấy “lượng khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà Nước trước sau như một”, đă chỉ thị Ban Chỉ huy Trại giải toả thư của gia đ́nh gửi tới cho Tù nhận đọc.
Tôi cũng may mắn nhận được một bức thư, do cô con gái thứ viết và gửi đi từ hồi cuối năm 1977. Bức thư gởi tới điạ chỉ Liên trại 1 bên Quân đội quản lư trước kia, được chuyển tiếp sang đây chẳng biết từ lúc nào bây giờ mới được nhận để đọc. Có lẽ những tháng trước Tôi bị phạt giảm mức ăn nên Quản giáo không phát cho.
Sự kiện này cho phép kết luận rằng, mấy bức thư có kèm Phiếu Bưu kiện Tôi được viết gửi về nhà theo quy định, chưa bao giờ đến tay gia đ́nh Tôi cả. Chẳng biết là Trại giam vứt không gửi đi, hay là Chính quyền Địa phương nơi gia đ́nh Tôi cư ngụ không phát thư cho sau khi họ rạch phong b́ lấy thư đọc để kiểm tra.
Sau này khi được tha về “đoàn tụ” với gia đ́nh, Vợ Con của Tôi mới cho biết là thỉnh thoảng 3, 4, 5 tháng không chừng, nhà mới nhận được một thư của Tôi gửi về viết từ mấy tháng trước. Tất cả mọi thư do Tôi gửi về đều bị Công An Phường cắt ra đọc kiểm tra trước, rồi mới đem đến phát cho gia đ́nh.
Tại Trại giam cũng vậy, bao giờ thư gia đ́nh gửi tới cũng đều bị Quản giáo Đội cắt phong b́ lấy thư đọc kiểm tra trước rồi mới phát cho Tù. Nếu trong thư có điều ǵ không phù hợp với đường lối của Nhà Nước hoặc có điều ǵ Cán bộ thắc mắc không hiểu, không những Tù không được nhận đọc mà c̣n bị gọi lên làm việc để Cán bộ hạch hỏi đủ điều, và buộc phải viết “tờ kiểm điểm”.
Những trường hợp như vậy, Tù chưng hửng chẳng biết phải “kiểm điểm” cái ǵ? Nhưng vẫn phải tự nặn óc dựa theo những điều Cán bộ hạch hỏi, đoán xem ḿnh và thân nhân ở nhà có làm điều ǵ sai trái để mà viết “bản kiểm điểm” với lời hứa sẽ “sửa sai” và không bao giờ tái phạm nữa. Không viết th́ bị kết tội “ngoan cố”, bị kêu tới kêu lui hoài. Đă có trường hợp Tù bị giam vào Nhà Kỷ Luật cho đến khi chịu viết “tờ kiểm điểm” nộp xong, mới được xét xem có đáng được tha ra hay không. Những vụ việc như vậy, biết được là nhờ hàng ngày trước giờ gọi các Đội xuất trại lao động, những Tù bị bắt giam vào Nhà Kỷ Luật đều được Cán bộ Trực Trại đọc lệnh ghi rơ tội danh v́ sao bị tống giam cho mọi người cùng nghe.
Trước khi chấm dứt đợt học tập “Tự luận tội và lên án ḿnh”, Tù c̣n được yêu cầu bầy tỏ ḷng yêu Nước yêu Cách mạng Xă hội Chủ nghiă bằng cách viết “Tờ Thỉnh Nguyện” xin gia nhập Lực lượng Vơ trang, để ra biên giới chiến đấu chống quân “Giặc Tầu” xâm lăng đất nước Việt Nam thân yêu, nếu ai muốn.
Một số bạn trong đó có Tôi, mặc dù biết là sẽ chẳng bao giờ được chấp thuận nhưng vẫn viết và nộp “Tờ Thỉnh Nguyện” cầu may. Không biết khi viết “Tờ Thỉnh Nguyện” các bạn khác nghĩ sao? Riêng phần Tôi tính rằng, một khi được ra mặt trận dù chỉ được xử dụng làm lao công tiếp tế chiến trường không cầm súng chiến đấu, sẽ có nhiều cơ hội để trốn khỏi cái nhà tù lớn là toàn cơi nước Việt Nam Cộng sản này để có lại được Tự do cho bản thân. Hơn là cứ ở trong tù đợi cái chết lần ṃn khổ nhục đến với ḿnh theo Chính sách thâm độc tiêu diệt giai cấp đối nghịch của Cộng sản đang áp dụng. Hơn nữa, nếu được quyền chọn lựa giữa cuộc sống măn đời làm người “Tù tập trung không án” và việc dấn thân phải chết nơi chiến trường để bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ Việt Nam bởi ḥn tên mũi đạn của Trung Cộng xâm lăng, th́ hành động thứ hai có ư nghiă hơn.
Theo b́nh luận trên báo “Nhân Dân” của Nhà Nước và lời giải thích của đoàn Cán bộ Trung ương th́ “-Việc bọn “Giặc Tầu” huênh hoang là chúng xua quân chiếm một số Tỉnh biên giới Bắc Bộ, nhằm mục đích cho chúng ta (tức là Cộng sản Việt Nam) một bài học về tội dám đưa quân sang Campuchia làm nghiă vụ Quốc tế do Liên Xô chỉ đạo để hạ đàn em tay sai của chúng và đưa đàn em của Việt Cộng tay sai Liên Xô lên cằm quyền, là tuyên truyền láo khoét bịp bợm. Cuộc xâm lăng của bọn “Giặc Tầu” đă bị Quân đội Nhân dân anh hùng của chúng ta chặn đứng. Chính chúng ta mới là người cho chúng một bài học đích đáng, để chúng thấy rơ tinh thần chiến đấu can trường gan dạ của Quân Dân Việt Nam như thế nào sau khi đă đánh thắng cả 2 Đế quốc Pháp và Mỹ.”
Nhưng theo suy nghĩ của riêng Tôi, những lời rao truyền này của Trung Cộng chỉ là cái cớ nổi bề ngoài. Cái mục đích thật sự ngầm bên trong của Trung Cộng là dùng “bạo lực rằn mặt” buộc Cộng sản Việt Nam phải ngoan ngoăn nghe lời chỉ đạo của chúng, tham dự tích cực vào cuộc họp tại Genève do Liên Hiệp Quốc triệu tập theo đề nghị của Hoa Kỳ để giải quyết vấn đề Tù nhân Chính trị miền Nam Việt Nam, đă bị Cộng sản Bắc Việt đem ra Bắc giam cầm đầy đọa vô thời hạn không tuyên án suốt từ sau 30-4-1975. Một mục đích chính yếu khác của Trung Cộng là lấn chiếm thêm những trọng điểm quan trọng nơi biên giới của Việt Nam để biến thành đất của Trung Cộng, y như đă đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hoà ngoài biển Đông vào đầu năm 1974 với sự đồng thuận của Việt Cộng từ năm 1958, qua bức Công Hàm do Phạm văn Đồng theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh kư gửi Thủ Tướng Trung Cộng chính thức công nhận là đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các đảo thuộc đất nước Trung Cộng.
Sau đợt học tập này, tự nhiên thấy Cán bộ trại giam thay đổi hẳn thái độ không c̣n khắt khe đối với Tù như trước, và đặc biệt hơn nữa là việc Nhà Nước chính thức chỉ thị cho các Địa phương phải triệt để thi hành việc cấp “giấy phép di chuyển” cho thân nhân Tù tới các trại giam thăm nuôi, đem theo đồ tiếp tế (không hạn chế) mỗi 3 tháng một lần cho Tù tẩm bổ lấy lại sức khoẻ.
Nếu đem phối kiểm các sự kiện trên đây với những tin tức thâu lượm được qua các mẩu tin do thân nhân lén viết trên những mẩu báo cũ dùng gói quà gửi đến cho Tù bằng đường Bưu điện, hoặc do thân nhân đến trại thăm nuôi ghi trên những mẩu giấy vo tṛn vứt lén cho Tù nhặt lúc gặp dọc đường, cho phép kết luận rằng việc đang có hội họp tại Genève để giải quyết vấn đề thả Tù Chính trị miền Nam là có thực.
Đây chính là tia ánh sáng đầu tiên ở cuối đường hầm, hiện ra chọc thủng màn đêm thăm thẳm giữa ban ngày đang bao trùm anh em Tù miền Nam trên đất Bắc Xă hội Chủ nghiă từ mấy năm nay. Nhờ vậy, tinh thần anh em Tù lên trở lại, ư nghĩ muốn chết quách đi cho rồi trong những ngày vừa qua không c̣n lởn vởn trong suy nghĩ của một số người có tinh thần suy nhược nữa.
Các Bưu kiện do thân nhân từ miền Nam gửi ra cho Tù bồi bổ được Trại lên Tỉnh lănh về phát hàng tuần, đă tạo ra một bầu không khí háo hức mong đợi y như lao công chờ đón kỳ phát lương vậy. Ai có quà th́ mừng hí hửng, ai chưa có th́ buồn đôi phút, nhưng vẫn hy vọng là Vợ Con không quên ḿnh hoặc không bị trong hoàn cảnh cùng cực đến nỗi không có khả năng tiếp tế cho ḿnh chút đỉnh.
Nhờ có quà gia đ́nh gửi đến dồn dập, một phong trào vui nhộn bắt đầu nẩy sinh lôi cuốn nhiều người quên cả nghỉ ngơi sau những giờ lao động vất vả hàng ngày. Hầu như tất cả mọi người trong Đội chúng tôi, bất cứ lúc nào rảnh rỗi cũng lo cặm cụi ghi chép cách biến chế các món ăn do anh bạn cựu Đại úy Cảnh sát phụ trách Tổ Ḷ Rèn kể lể chỉ dẫn một cách rất thành thạo. H́nh như trước tháng 4 năm 1975, Bà Vợ anh ấy là chủ một nhà hàng bán các đồ nhậu th́ phải. Ngoài ra, anh em cũng c̣n nhờ anh ấy cố vấn nên yêu cầu gia đ́nh “biến chế” thịt heo, thịt ḅ… như thế nào để có thể dành được lâu ăn dần không bị hư hỏng.
Một hiện tượng khác thường nữa cũng lan tràn trong cả Trại là, mỗi khi anh em ở các Đội khác nhau có dịp tiếp xúc bất cứ ở đâu, cũng th́ thầm trao đổi những tin tức mới nhất ghi nhận được từ bên ngoài đưa vào về cuộc thảo luận giải quyết Tù Chính trị miền Nam giữa Hoa Kỳ và Cộng sản Việt Nam tại Genève tiến triển đến đâu? Như thế nào?...
Xem tiếp chương 22...
-
[B][COLOR="#800080"]Chương 22 : MUỐN TRAO ĐỔI LẤY ĐÔ LA CỦA MỸ,NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN CHO PHÉP GIA Đ̀NH THĂM NUÔI TIẾP TẾ NUÔI TÙ MẬP TRỞ LẠI.[/COLOR][/B]
Nhiều đợt Bưu kiện thực phẩm từ miền Nam gửi ra đă được Trại ra Tỉnh lănh về phát cho tù hàng tuần. Mỗi tháng Trại chỉ cấp cho mỗi người một Phiếu Bưu Kiện để gửi về gia đ́nh, thế mà Đội chúng tôi có vài anh kỳ nào phát Bưu kiện cũng được gọi tên lănh, có người c̣n được nhận 3, 4 Bưu kiện một lúc.
Sau 2 tháng các Bưu kiện ào ạt tới Trại, trong Đội chỉ có Tôi và khoảng 5 bạn khác nữa chưa nhận được một Bưu kiện nào. Mấy bạn quen thân thấy tôi cũng mới nhận được thư của gia đ́nh gửi đến trong đợt học tập vừa qua mà sao không có Bưu phẩm, thắc mắc đến gần thủ thỉ hỏi xem gia đ́nh có gặp trở ngại ǵ không? Tôi buồn lo lắng lấy thư của con đem ra đọc đi đọc lại cố t́m cho ra manh mối, chẳng thấy tin ǵ khác lạ ngoài cái tin 2 người con lớn sau 30-4-1975 vẫn đang được tiếp tục theo học năm thứ 3 Đại học Y khoa Minh Đức phải đi làm, cô chị làm Y sĩ ở Bệnh viện Nguyễn văn Cội vùng Củ Chi cách Saigon vài chục cây số, và cậu em th́ được Pḥng Y tế Phường cử đi chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào của Quận đang công tác tại khu Thủy lợi Lê Minh Xuân.
Mọi người đoán già đoán non an ủi rằng: “đi làm xa Saigon” “đi công tác tại khu Thủy lợi”, không chừng đây là những lời bóng gió báo tin là 2 người con của tôi đă gặp chúng mối tổ chức “đi vượt biên” được rồi. Nếu đúng th́ là điều đáng mừng, v́ nhiều bạn trong chúng tôi cũng từng được gia đ́nh gửi thư nói như vậy để báo tin con đă “vượt biên” ra khỏi Việt Nam. Chắc là vợ của tôi ở nhà bận bịu lo cho con như vậy nên chậm trễ trong việc đi gửi Bưu kiện, không có ǵ đáng lo trước sau ǵ rồi cũng có quà. Có người đề nghị cho Tôi mượn ḿ ăn liền “bồi dưỡng” đỡ, khi nhận được quà trả lại sau. Tôi từ chối không nhận v́ chẳng biết hoàn cảnh thật của vợ con ra sao, lỡ không có quà lấy ǵ để trả nợ.
Tôi kiên nhẫn chịu đựng, tiếp tục mưu sinh linh tinh cho qua cơn đói khổ. Cũng may, anh Tổ trưởng của tôi không c̣n quan tâm góp ư kiến “xây dựng” cho Tôi trong những buổi kiểm thảo ban đêm của Đội như trước nữa, v́ chính bản thân anh ấy cũng chưa nhận được Bưu kiện nào như Tôi và đang mưu sinh linh tinh c̣n bạo hơn Tôi. Qua những mẩu chuyện tâm sự của anh ấy, Tôi cảm đoán được h́nh như trước 30 tháng 4 năm 1975 anh ấy có chuyện ǵ lủng củng trong gia đ́nh giữa 2 bà vợ lớn vợ nhỏ sao đó, nên bây giờ chẳng ai lo cho. Thật tội nghiệp!
Ngày rồi lại ngày cứ lặng lẽ trôi qua, bỗng một hôm có một cơn mưa thật lớn đổ xuống suốt cả buổi nghỉ trưa đến tận giờ tập họp đi lao động chiều mới dứt. Nước úng không rút kịp tràn ngập đầy sân tập họp lơng bơng cao tới mắt cá chân, không ngồi chồm hổm trên mặt đất được, mọi người phải đứng chờ đợi lệnh xuất trại. Ánh sáng mặt trời le lói hun đốt làm cho mảng sân tập họp bốc hơi, nồng nồng mùi mốc mốc tanh tanh. Tự nhiên nghe thấy anh em Tù đồng loạt phát ra một âm thanh vui vẻ ồ.ồ.ồ!!! làm Tôi giật ḿnh chú ư nh́n về phiá Cổng trại, thấy Cán bộ phụ trách phát Bưu kiện xuất hiện đọc tên những người được nghỉ lao động ở nhà lănh quà gia đ́nh gửi tới. Có tên Tôi, nên mấy bạn quen thân reo mừng nhắc gọi sợ Tôi không nghe được.
Tôi rời hàng ra đứng ở cuối sân, chờ các Đội xuất Trại xong sẽ cùng một số Tù khác đi đến Hội trường đợi lệnh gọi lần lượt vào kư lănh Bưu kiện. Sau khi kư tên vào sổ và nhận bưu kiện xong, phải đem ngay Bưu kiện vừa mới nhận tới một bàn dài và trải tấm ni-lông che mưa của ḿnh trên mặt bàn, mở gói quà ra bầy tất cả mọi thứ lên trên rồi đứng đợi Cán bộ tới xét từng món một.
Cán bộ không đích thân tới xét mà là anh “Thi Đua” (tù H́nh Sự) làm thay. Những bịch nào chưa kịp mở banh ra sẵn sàng cho anh ấy coi, anh ấy lấy con dao nhọn dọc rách bao ni-lông rồi bới tung ra t́m t́m kiếm kiếm vật ǵ chẳng biết. Gặp bịch ḿ ăn liền vụn c̣n đỡ, chẳng may gặp bịch sữa bột hay bịch đường cát, coi như tiêu mất hết phần mười. Bột sữa và đường c̣n dính tùm lum sang các bịch khác bê bết, sẽ là mồi cho kiến đánh hơi bu đến làm tổ trong bao đựng quần áo nơi cất thực phẩm tại đầu xạp ngủ chỗ ḿnh nằm. Hộp sữa đặc có nhăn hiệu ghi bằng chữ Việt Nam rơ ràng, anh “Thi Đua” cũng lấy dao đâm thủng một đầu hộp thọc đũa vào ngoáy ngoáy t́m kiếm xem có vật ǵ lạ khác dấu ở trong không. Keo mắm ruốc xào khô với thịt bằm xả ớt, anh “Thi Đua” cũng đổ ra bới bới để kiểm tra. Nước mỡ chẩy tùm lum, mùi mắm kho thơm nồng nặc làm con tỳ con vị trong bao tử nôn nao phát ứa nước miếng nuốt không kịp...
Sau khi kiểm tra kỹ càng tất cả mọi món xong, anh “Thi đua” đến báo cáo Cán bộ là không có ǵ, Cán bộ gật đầu cho phép thu vén lại “khẩn trương” đem đi để nhường chỗ cho người khác tŕnh quà của họ. Nếu có thư gia đ́nh để trong gói quà phải nộp để Cán bộ giữ lại kiểm duyệt, vài ngày sau Quản giáo Đội mới phát cho nếu được phép nhận để đọc.
Thời gian đợi đến lượt vào kư nhận quà th́ lâu, chớ thời gian kiểm tra chẳng bao lâu. Bưu kiện chỉ có 5 kí lô: 2 hộp sữa đặc khoảng nửa kí, nửa kí đường thẻ, nửa kí đường cát vàng, 1 kí ḿ vụn loại ăn liền để trong 2 bọc, 1 kí bánh ḿ xấy khô cũng để trong 2 bọc, nửa kí bột đậu xanh hay đậu nành, keo mắm xào xả ớt nửa kí, c̣n nửa kí đồ linh tinh như thuốc đánh răng, xà bông tắm giặt, khăn mặt, tem thư, giấy viết thư, bút nguyên tử, âu dược chữa bệnh, thuốc bổ tăng cường các loại sinh tố...là hết. Chỉ những người được lănh 2, 3 Bưu kiện một lúc, lỉnh kỉnh lắm thứ mới mất nhiều thời giờ. V́ ngoài mấy thứ chính như ḿ ăn liền, bánh tổ, cốm dẹp, cơm sấy khô, biscot, c̣n nào là thịt chà bông, lạp xưởng, các hộp thịt ḅ, thịt heo, thịt gà, cá ṃi ngâm dầu hoặc sốt cà chua, kẹo, bánh ngọt, bơ, margarine, phó mát, trà ướp hoa lài hay hoa sen, cà phê, thuốc lá thơm...
Thường anh em chỉ xin gia đ́nh cung cấp cho những thứ có chất bột, chất đạm, chất béo và chất ngọt, đang là nhu cầu chính yếu cần thiết nhất cho cơ thể, c̣n thuốc lá thơm, trà, cà phê thuộc loại xa xỉ phẩm, đang ở trong tù có hay không cũng được. Nhưng đối với những bạn ghiền nặng, gia đ́nh dư giả tiền, th́ các món đó cũng là nhu cầu cần yếu không thể thiếu được. Ngoài ra các món đó c̣n là những thứ cần có để mua cảm t́nh của Quản giáo Đội, để được đối xử dễ dăi hơn các bạn bè trong việc gửi nhận thơ đều đặn hàng tháng...
Măi về sau, một vài bạn tốt bụng mới rỉ tai riêng cho nhau biết là, ở Saigon người ta in Phiếu Bưu Kiện đúng hệt như mẫu phiếu do các Trại phát cho Tù gửi về nhà, và bán công khai ngay trước sân nhà Bưu điện Saigon gần bên Nhà Thờ Đức Bà. Người ta cũng bầy bán đầy đủ những gói, những keo, những hộp thức ăn khô đủ loại được Bưu điện chấp nhận cho gửi, để thân nhân Tù mua tại chỗ cho tiện đỡ mất công làm lấy. Nếu ai mua toàn bộ đủ 5 kí lô những thứ họ bán để gửi đi, họ c̣n gói cột chắc chắn đàng hoàng, ḿnh chỉ việc ghi Tên địa chỉ người gửi và người nhận xong là họ đem vào gửi giùm đỡ phải đứng xếp hàng chờ đợi cả ngày. Dĩ nhiên khách hàng phải tỏ ra sởi lởi, chi tiền đầy đủ theo đ̣i hỏi của họ. Hẳn là họ phải có đường dây riêng làm tay trong, do Cán bộ Bưu điện Nhà Nước cầm đầu mới dám công khai hành động như vậy.
Không phải bà vợ nào cũng dư giả tiền và dám thử liều gửi lậu như vậy, v́ sợ chẳng may bị lừa hoặc bị Công an gài bẫy bắt th́ nguy. Ngoài ra c̣n e ngại sợ gửi nhiều hơn quy định không biết Trại có cho nhận không? Lỡ quà ra đến nơi Trại không cho nhận, c̣n hạch hỏi làm sao ở nhà có nhiều phiếu gửi quà như vậy? Rồi phạt không cho Tù nhận quà nữa mới là khốn nạn khó gỡ.
Sau này khi được tha về, vợ của tôi cho biết là ở nhà cũng biết chuyện ấy, nhưng v́ hoàn cảnh kiếm sống hàng ngày nuôi các Con rất chật vật, nên mỗi tháng chỉ lo chắt bóp gửi cho Tôi được 1 gói quà 5 kí lô đă là một cố gắng hết sức rồi.
C̣n tiêp...
-
Khoảng mùa Thu năm 1979, nhóm Đại tá chúng tôi được lệnh rời K1 di chuyển về K5 nơi có Ban Chỉ huy Trại Tân Lập. Đồ đạc được chất lên xe chuyên chở, c̣n người đi bộ theo sau. Cán bộ cảnh vệ đeo súng đi dẫn đầu và tập hậu áp tải để đề pḥng Tù lủi trốn vào rừng. Trên dọc đường, tại những khúc quanh không nh́n thấy được từ xa c̣n có thêm cảnh vệ ôm súng đứng phục sẵn trong sâu để canh chừng.
Dưới khe sâu dọc theo con đường đá rộng 6 mét ṿng vèo theo sườn núi thoai thoải xuống dốc từ K1 dẫn đến K5, vang vọng tiếng nước suối chảy ŕ rầm đều đều như tiếng cối xay lúa. Cây rừng cao dầy đặc 2 bên đường, những cây thấp nhỏ phải nghiêng ḿnh vươn nhô ra mặt đường trống để đón nhận ánh sáng mặt trời.
Đoàn Tù gầy ốm chỉ c̣n da bọc xương, mặt hốc hác, lầm lũi nối đuôi nhau 2 hàng dọc lê bước di chuyển bên lề phải con đường. Thỉnh thoảng đôi con chim đang c̣n ngủ trong tàn lá, nghe tiếng động của đoàn người đi ngang giật ḿnh bay vụt lên cao biến mất trong rừng già.
Chín giờ sáng mà sương mù c̣n phủ đặc rừng cây, hương thơm của hoa rừng thoang thoảng hoà lẫn với mùi mông mốc của lá mục, làm Tôi tưởng nhớ lại thuở ấu thơ theo Đoàn Hướng Đạo Sinh đi cắm trại cuối tuần t́m hiểu thiên nhiên vạn vật ở vùng rừng núi Lạng Sơn, một tỉnh địa đầu miền thượng du Bắc Việt ráp ranh với Trung Hoa, nơi có di tích lịch sử Ải Nam Quan, Chợ Đồng Đăng, Phố Kỳ Lừa, núi Nàng Tô Thị với Chùa Tam Thanh.
Mê mải nh́n cảnh vật ch́m trong màn sương đang lộ dần dưới ánh mặt Trời ban mai, suy nghĩ miên man quên cả hiện tại, chẳng may Tôi vấp chân nhằm một ḥn đá lớn lồi trên mặt đường ngă chúi về phiá trước, lăn quèo mấy ṿng trên đất làm mọi người ngạc nhiên. Tỉnh mộng, Tôi lồm ngồm đứng lên vừa đi vừa phủi quần áo dính đầy đất và lá khô vụn, nhoẻn miệng gượng cười chữa thẹn mặt mũi đỏ gay 2 tai nóng bừng bừng.
Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau khi rời K1, chúng tôi ra khỏi các khúc quanh của núi rừng, một thung lũng chừng 3 cây số bề dài 1 cây số bề rộng hiện ra trước mặt, có con sông ḷng đầy sỏi đá lớn nhỏ uốn khúc ŕ rầm chảy ngang. Xa xa bên kia sông có một phân trại (Tôi không biết đó là K mấy). Phiá bên này cách đường lớn khoảng 1 cây số, sát ngay bên bờ sông là K5, Ban chỉ huy Trại Tân Lập trụ tại đây với tấm bảng hiệu Công An Nhân Dân to tướng. Chúng tôi đă có dịp nh́n thấy khu này cả năm về trước, khi đoàn xe Quân đội đưa chúng tôi chạy ngang không dừng lại để đến K1.
Cách ngă ba đầu đường dẫn vào K5 chừng 300 mét, ngay phiá lề đường bên phải có một khu nhà lá gồm 3 căn nho nhỏ cất riêng rẽ nằm giữa miếng sân vuông chục mét mỗi cạnh, sau này mới biết là Nhà Thăm Nuôi nơi Tù và thân nhân được phép đến thăm gặp nhau.
Phiá trước khu Nhà Thăm Nuôi, ngay sát bên đường vào K5 là một nhà canh có Cán bộ ngồi kiểm soát việc ra vào Trại. Cán bộ áp tải chúng tôi đến tiếp xúc, rồi dở cần tre cản ngang đường lên cho chúng tôi đi qua. Hai bên con đường đất rộng 6 mét dài khoảng một cây số dẫn vào K5 là những thửa ruộng để trồng luá.
Trụ sở của Ban Chỉ huy Trại Tân Lập và K5 ở phiá sau chiếc cổng có bảng hiệu Công An Nhân Dân, gồm nhiều nhà mái ngói mái tôn lẫn lộn, với những đường đi nhỏ cắt dọc ngang như một xóm dân cư ngụ. Khu gia binh cho Công an có gia đ́nh ở tít phiá sau gần bờ sông.
Chúng tôi được dẫn đi đến khoảng c̣n chừng vài trăm mét trước khi tới chiếc cổng treo bảng hiệu Công An Nhân Dân, th́ rẽ sang phải theo con đường dẫn vào trại giam K5.
Bên trong Trại giam K5, thiết trí kiến trúc cũng tương tự như trại giam K1, nhưng rộng lớn và nhiều nhà giam hơn. Chung quanh cũng có tường rào bằng gạch cao 4 mét, thêm hàng kẽm gai trên đỉnh. Sườn hướng Đông của Trại nằm dọc theo sông, cách bờ chừng 100 mét.
Vào qua cổng sắt lớn là một sân tập họp vuông rộng. Cuối sân có một vườn hoa và Hội trường chứa được cả ngàn người, với một cây cổ thụ xum xuê cành lá xanh tươi quanh năm. Chung quanh gốc cây cổ thụ là nơi Tù được phép tới đó vào ngày Chủ nhật nghỉ lao động để nấu nướng, hâm xào lại các thực phẩm khô do gia đ́nh gửi tới cho ăn dần khỏi bị hư thối.
Ngay sau cổng vào, ở phiá bên trái sân tập họp là một dẫy nhà tường gạch mái tôn, đây là khu biệt giam Tù H́nh Sự. Dẫy nhà này có tường rào bằng gạch cao 3 thước bao quanh, và phân cách từng ngăn riêng không thông thương được với nhau, mỗi ngăn chứa được khoảng 30 người. Nhóm Đại tá chúng tôi bị giam vào ngăn áp chót trong dẫy nhà này. Các Linh mục và Đại đức Tuyên úy Quân đội bị giam ở ngăn kế bên chúng tôi.
Các ngăn không thông thương được với nhau ở dưới đất, nhưng bức tường trong nhà để phân cách các ngăn nơi sát mái nhà có chừa một lỗ ṭ ṿ người chui lọt, không biết để làm ǵ. Từ nền nhà lên đến mái để trống hốc, không làm trần cản hơi nóng. Ngay lỗ ṭ ṿ và dọc dài trên dàn kèo nhà sát mái tôn có căng giây kẽm gai. Sau này, bọn Tù H́nh Sự thường lẻn chui qua ban đêm lúc anh em ngủ say, lấy trộm quần áo và thực phẩm của chúng tôi để ở trên giàn sát mái nhà. Chỉ những người nằm ở sàn ngủ tầng trên cao mới bị mất trộm. Tôi bị móc mất chiếc áo len cao cổ dài tay mầu hoa cà c̣n mới tinh, do vợ tôi đan theo kiểu riêng ngoài chợ không có bán, nhất là ở ngoài Bắc th́ không thể nào có được. Nhiều bạn khác cũng mất quần áo và c̣n mất cả thực phẩm khô.
Có thể là bọn H́nh Sự đă chui qua ăn trộm nhiều lần nhưng anh em không biết, v́ không ai ngờ chúng dám cả gan làm như vậy. Anh em chỉ phát giác ra được là nhờ một hôm vào khoảng quá nửa đêm, có anh bạn đang ngủ tầng trên thấy có chất nước nhờn xền xệt rớt qua đ́nh mùng ni-lông xuống mặt làm giật ḿnh ngồi nhỏm dậy. Mở mắt nh́n thấy thoáng có bóng người, chạy chuyền trên các đà gỗ sát mái nhà về phiá cuối pḥng nơi để chiếc thùng cho Tù giải quyết vấn đề vệ sinh ban đêm. Đây là điểm ráp ranh giữa pḥng giam chúng tôi và pḥng giam bọn Tù H́nh Sự. Quan sát kỹ thêm, anh ấy thấy một vật ǵ nặng làm vơng đ́nh mùng nên chui ra lấy xuống, mới biết đó là hộp sữa đặc bị đục thủng lỗ và sữa ở trong đă cạn gần hết. Túi đựng quần áo và thực phẩm khô của anh ấy để trên giàn bị mở tung. Sáng hôm sau, sự việc được báo cáo anh Đội trưởng báo động cho anh em đề pḥng, và ŕnh để bắt quả tang nếu chúng tái diễn.
Một tuần sau, có bạn nằm tầng trên sát bên tường đi tiểu đêm vào lúc gần sáng xong, vừa trèo trở lên chỗ nằm nghe tiếng động trên giàn kèo nhà ngẩng lên thấy bóng người đang chui qua lỗ tường, anh ta vùng ra khỏi mùng chụp lấy chân kẻ trộm. Hắn dẫy mạnh chân vuột ra khỏi tay anh bạn và chui tuốt qua bên kia tường luôn, nhưng chân của hắn bị kẽm gai gây thương tích rất nặng, máu chảy ra dính đầy trên tường và trên kèo gỗ.
Đến sáng, ngay khi Cán bộ Trực Trại đến mở cửa pḥng giam cho chúng tôi ra, anh Đội trưởng vội vă báo cáo ngay sự việc đă xẩy ra lúc ban đêm. Cán bộ ghi nhận và khi sang mở khoá pḥng giam H́nh Sự bên cạnh, đă khám xét từng người trước khi bước ra khỏi cửa. Ông ấy đă bắt được người có vết thương nơi chân c̣n mới nguyên. Ông ấy giữ tất cả bọn H́nh Sự trong pḥng giam, rồi lần lượt bắt từng đứa một đem tư trang ra sân khám xét, và cho chúng tôi những ai biết là ḿnh bị trộm tới nhận diện những vật đă bị đánh cắp để lấy lại.
Qua khỏi khu biệt giam chúng tôi là một khoảng đất trống đang trồng rau, rồi đến mấy dẫy nhà vách gỗ mái tôn giam anh em Tù miền Nam. Pḥng giam dành riêng cho Ban Thi Đua nằm ở ngay nhà đầu của khu này, có thể trông được toàn cảnh vật chung quanh khu sân tập họp ra tuốt đến cổng trại giam.
Ở phiá cuối khu là nhà vệ sinh công cộng cho Tù xử dụng trong ban ngày, được xây cất bằng gạch mái lợp tôn có cửa lửng che trước mỗi ngăn ngồi đại tiện, có hàng hiên dài phiá trước để không bị hắt ướt vào mùa mưa, trong khi ngồi làm nghiă vụ nộp phân bón hàng ngày cho Trại.
Bên phiá đối diện, tức là phiá bên phải sân tập họp đứng từ cổng nh́n vào là khu Bệnh xá và Nhà bếp. Kế theo là một khu bao quanh bởi bức tường gạch cao với một lối ra vào duy nhất, gồm nhiều nhà gỗ mái tôn cũng dùng để giam Tù miền Nam. Vào cuối tháng 12 năm 1981, nhóm Đại tá chúng tôi được chuyển từ khu biệt giam H́nh Sự sang khu này ở một ngày một đêm, trước khi chúng tôi bị áp giải lên đường đi Trại Thanh Phong trong vùng rừng núi Trường Sơn thuộc huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá, miền Trung Việt Nam.
Thoạt mới tới K5, nhóm Đại tá chúng tôi được chỉ định là Đội Nông Nghiệp, có một số thứ tự riêng để gọi nhưng Tôi không nhớ.
Mùa Đông năm 1979, Bắc Việt có một đợt lạnh chết người. Theo lời các Cán bộ già cho biết th́ hiện tượng này chưa từng xẩy ra trong ṿng mấy chục năm qua trên đất Bắc Xă hội Chủ nghiă.
Để làm mùa vụ Đông Xuân, Trại có khu ruộng mạ giống ngay bên đường phiá trước Nhà Thăm Nuôi cần phải nhổ gấp cho khỏi bị chết cóng, Đội chúng tôi được huy động làm “khẩn trương”. Buổi sáng khi Đội ra tới “hiện trường lao động”, thấy ở phiá bên kia đường một con trâu trẻ mập nằm gục chết cóng ngay giữa ruộng, thế mà anh em chúng tôi vẫn phải bỏ giầy vắn quần đến đầu gối vén tay áo tới cùi chỏ, lội xuống ruộng nhổ mạ bó lại đem về ủ trong nhà kho cho mạ khỏi chết. Dưới nước, điả cũng cóng thun ṿi bám vào gốc mạ không tung tăng bơi đi t́m chân người hút máu như những lúc trời ấm áp.
Giao việc cho Đội xong, cả Quản giáo Đội lẫn Cảnh vệ đều co ro cúm rúm ṃ đến ngồi bên bếp lửa hơ tay xoa mặt hút thuốc lào, và chờ anh phụ trách nấu nước của Đội pha trà Tầu nấu ḿ cung phụng cho ăn để hâm nóng cơ thể.
Chúng tôi tự động thay phiên nhau xuống ruộng làm trong khoảng 5 phút rồi lại lên, đến bên ḷ nấu nước để hơ chân tay cho khỏi cóng. Và cứ tiếp tục như vậy trong suốt buổi lao động không cần xin ư kiến của Cán bộ. Ông ta nh́n thấy cũng lẳng lặng đồng t́nh không nói năng ǵ.
Thật là một đầy đọa vô cùng dă man, may mà không ai trong chúng tôi chết cóng tại chỗ, nhưng ngày hôm sau hầu như cả Đội bị cảm hàn, ho, sổ mũi, khản đặc nói không ra tiếng. Nhiều người bị sốt cao đau cổ họng phải xin đi khám bệnh, nhưng ngặt một nỗi là hàng ngày Trại chỉ cho phép mỗi Đội ghi tên 2 người đi khám bệnh, nên anh em phải tùy trường hợp nặng nhẹ mà nhường nhau.
Cũng rất may thời gian này âu dược do gia đ́nh gửi trong các Bưu kiện không c̣n bị tịch thu như trước nữa, nên ai nấy dùng thuốc riêng điều trị cả chục ngày mới qua khỏi. Riêng anh Tổ trưởng của tôi (Đại tá Nguyễn văn Của, trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng B́nh Dương) bệnh không thuyên giảm, mỗi ngày anh em phải nhường cho ghi tên đi khám bệnh, và anh ấy được nghỉ lao động ở trong Trại cả tuần lễ vẫn không hết. Sau cùng anh ấy được vào nằm điều trị tại Bệnh xá một thời gian tương đối lâu.
Một hôm vào sáng Chủ nhật cả Trại nghỉ lao động, anh ấy ghé về Láng ở của Đội thăm anh em, hớn hở khoe rằng ở Bệnh xá được ăn cơm trắng thay v́ ăn sắn. Thấy sắc diện anh ấy cũng khá hơn trước, bạn bè ai cũng mừng chúc anh ấy mau lành để sớm trở về với Đội. Mục đích chính anh ấy về thăm anh em là để xin âu dược Streptomicine trị bệnh, v́ bệnh xá không có. Nhưng thật đáng tiếc là anh em trong Đội cũng không ai có, kể cả mấy người giầu quà nhất. Anh ấy buồn bă ỉu x́u trở lại Bệnh xá trong lo lắng. Hai ngày sau một tin đau ḷng đă đến với anh em chúng tôi, anh Của chết v́ sưng phổi làm ngộp thở, cứu không được.
Sau vụ làm mùa Đông Xuân, Đội chúng tôi được điều động đi phát cỏ khu đất cao dọc bên bờ sông để trồng khoai rong giềng (trong Nam gọi là củ bột ḿ tinh). Các công tác tiếp theo là dọn cỏ ruộng miá, rồi đi đốn miá chất lên xe nộp cho Ḷ ép lấy nước nấu “mật đường” để cất rượu trắng cho Trại bán.
Trong số 5, 6 người chưa có quà của thân nhân, hoặc mới chỉ nhận được một gói như tôi vẫn phải lén cải thiện linh tinh. Chẳng may vào một buổi sáng trời mây ảm đạm âm u, anh Đại tá Trần Kim Hoa (trước 30-4-1975 làm tại Văn Pḥng của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) bị Cán bộ cảnh vệ bắt gặp đang ngồi trong giữa ruộng ăn lén một khúc miá. Cảnh vệ nạt nộ dẫn anh ấy ra giữa đường đi trong ruộng miá đến nơi anh em đang ngồi nghỉ giải lao, bắt phải ngồi ăn và nuốt hết cả bă lẫn nước khúc miá đă lấy trộm của Xă hội Chủ nghiă và Nhân dân trong khi lao động. Thật tàn bạo hết chỗ nói.
Anh Hoa ngồi ́ ra đó nhất định không làm theo lời buộc vô lư của Cảnh vệ, tuổi c̣n non choẹt cỡ con của chúng tôi. Anh Cảnh vệ tức tối hăm he dùng đủ mọi thứ tiếng tục tằn để sỉ nhục chung cả chúng tôi chớ không riêng một ḿnh anh Hoa. Nào là: “-Đồ bán nước, cặn bă của Xă hội. Cha mẹ chúng bay không biết dậy dỗ, để chúng bay đi làm Ngụy tay sai cho Đế quốc. Chúng bay ăn ǵ mà ngu thế...”. Trong khi đó Quản giáo Đội chúng tôi chẳng nói ǵ bỏ đi chỗ khác, h́nh như không muốn dính vào vụ căi cọ giữa Cảnh vệ hung hăng phi lư đối với Tù.
Mọi người lo cho anh Hoa có thể bị kỷ luật v́ việc này, nhưng rồi chẳng thấy ǵ và sự việc được êm ả qua đi trong quên lăng của mọi người.
Ngày hôm sau, Đội chúng tôi được đưa vào làm tại ḷ ép miá. Một số anh em ngồi gióc vỏ cây miá trước khi cho vào trục ép. Một số khác luân phiên nhau đẩy cần quay trục ép miá thay cho trâu.
Rút kinh nghiệm vụ anh Hoa, anh em ai thấy cần cải thiện chất ngọt th́ xin Cán bộ cho nhặt những khúc gốc và ngọn miá vứt dưới hố rác bên ḷ nấu mật, đem ra sông rửa sạch trong giờ đi rửa chân tay trước khi trở về trại nghỉ, rồi ăn ngay bên bờ sông hoặc dấu vào bị đem về trại ăn sau vào buổi tối.
Từ Tết Canh Thân (1980) trở đi, Tù được ăn độn hàng ngày theo “tiêu chuẩn” 75 phần trăm “sắn duôi” và 25 phần trăm cơm trắng.
C̣n tiếp...
-
Theo thông lệ hàng năm cứ tới khoảng tháng 4 (tháng giáp hạt) là mùa Hè không trồng được lúa phải trồng hoa mầu phụ như đậu, cà, bắp, nên thời gian này Tù thường phải ăn “sắn nút chai”. Nhưng không biết v́ sao, năm nay Trại bắt đầu được cung cấp hạt Bo Bo và bột Ḿ do nước ngoài viện trợ cho Tù ăn thay “sắn nút chai”. Phải chăng đây là kết quả Hội nghị tại Genève, do Liên Hiệp Quốc triệu tập theo yêu cầu của Hoa Kỳ để giải quyết vấn đề nhân đạo đối với Tù chính trị miền Nam ?
Cán bộ Quản giáo Đội Nhà Bếp ở đây cũng chỉ dẫn cho Tù cách nhồi bột Ḿ với nước, đóng theo khuôn gỗ tṛn, luộc chín phát cho Tù y như bên Trại Quân đội trước kia. Chắc đây là “kỹ thuật đồng bộ” Nhà Nước Xă hội Chủ nghiă nghiên cứu và truyền dạy cho Quân Cán cả nước cùng theo.
“Tiêu chuẩn” phần ăn hàng ngày vẫn ít ỏi, không trang trải đủ nhu cầu cần yếu của cơ thể. Nạn đói vẫn tiếp tục hành hạ những người như Tôi và một vài Bạn không được gia đ́nh tiếp tế sung túc đầy đủ như đa số các bạn khác, nên ngoài việc cải thiện linh tinh lén lút thường xuyên hàng ngày c̣n phải lấy một vài vật dụng riêng như khăn rửa mặt mới nhận được từ gói quà hoặc thuốc lào trại phát hàng tháng... để trao đổi cho bọn H́nh Sự lấy Bánh Ḿ Luộc hoặc Bo Bo để ăn. Dĩ nhiên chỉ có mấy đứa “H́nh Sự Đầu Nậu” trong tù mối lái móc ngoặc với anh em để làm việc này chớ không phải tất cả bọn tù H́nh Sự.
“Tiêu chuẩn” ăn hàng tháng của bọn H́nh Sự được quy định là 11 kí lô, ít hơn phần ăn của Tù Chính trị miền Nam là 12 kí lô, thế mà ngày nào chúng cũng có dư phần ăn để đem trao đổi vào buổi sáng trong thời gian mọi người chờ đợi ra sân tập họp đi lao động. Chắc là bọn H́nh Sự phục dịch ngoài Bếp Cán bộ cả ngày, đến khuya mới trở vào Trại đă ăn cắp đem về cung cấp cho bọn “Đầu Nậu” trao đổi.
Tôi thấy anh bạn nằm bên cạnh (Đại tá Nguyễn ngọc Thanh trước 30-4-1975 làm tại Phủ Tổng Thống) cũng có đổi hoài, nên hỏi thăm và nhờ anh ấy chỉ mối để đổi chiếc khăn mặt mới lấy chiếc bánh ḿ luộc. Ngay sau khi trao đổi, Tôi lanh lẹ lỉnh vào Láng ngủ dấu chiếc bánh ḿ xuống dưới đống các bao tải đựng quà anh em cất trong kho, nơi gần khu có thùng vệ sinh ban đêm. Vừa xong th́ ngoài cửa có tiếng anh Đội trưởng (Đại tá Lê Đ́nh Luân, Đơn vị 101 thuộc Pḥng 2 Bộ Tổng Tham Mưu) gọi Tôi, và cho biết là Cán bộ Trực Trại kêu Tôi phải tŕnh diện ngay tại Văn pḥng Ban Thi Đua.
Mọi người nh́n Tôi lo lắng, v́ thấy cậu H́nh Sự đổi bánh cho Tôi bị bắt dẫn lên Văn pḥng Thi Đua, vừa đi vừa bị đánh túi bụi. Riêng Tôi th́ đă chuẩn bị sẵn cách ứng phó, nên tỉnh khô lặng lẽ đi tŕnh diện. Vừa bước chân vào văn pḥng Thi Đua, Cán bộ Trực chỉ mặt Tôi nạt lớn:
“-Thằng này nó vừa đưa cho anh cái ǵ?”
Tôi nhanh nhẹn trả lời ngay là:
“-Không có, Nó thấy tôi cầm chiếc khăn mặt lông định lót thêm dưới mũ đội cho ấm đầu, Nó năn nỉ xin để cuộn cổ cho ấm v́ lạnh quá. Tôi vừa mới được gia đ́nh gửi quà cho 2, 3 cái nên cũng dư, thấy nó tội nghiệp cũng muốn cho nhưng đang c̣n lưỡng lự v́ sợ vi phạm Quy luật Trại giam chưa quyết định. Nó liều giật đại rồi chạy tuốt vô khu ở của nó, chớ có đổi chác ǵ đâu. Không tin Cán bộ khám người tôi và đồ đạc nơi ngủ của tôi xem có ǵ không, nếu có th́ Tôi sẽ chịu “kỷ luật”.
Vừa nói Tôi vừa thọc tay vào túi quần móc ra nửa miếng bánh ḿ luộc và phân bua:
“-Đây là phần “tiêu chuẩn” sáng của tôi, mới lănh xong hăy c̣n nguyên chưa kịp ăn”.
Cán bộ Trực Trại đấm đá thằng H́nh Sự túi bụi và hỏi nó:
“-Có đúng vậy không?”
May mắn làm sao, nó gật đầu và quỳ xuống đất chắp tay vập đầu lạy Cán bộ lia lịa năn nỉ xin tha. Ông ta dơ cao chân đạp vào ngực nó ngă ngửa ra phiá sau, vừa đúng lúc hồi kẻng tập họp xuất trại đi lao động nổi lên. Lập tức ông ấy quay lại xiả mạnh tay vào ngực tôi và nói:
“-Anh liệu hồn, thôi đi đi.”
Thật là xui xẻo hú hồn hú viá, người ta đổi hoài chẳng sao ḿnh mới thử lần đầu tiên đă mắc kẹt ngay. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối Tôi liều lĩnh lén lút tiếp xúc trao đổi với tụi H́nh Sự. Chuyện không may đă xẩy đến với Tôi, nhưng may mắn không việc ǵ v́ Tôi đă chuẩn bị đề pḥng từ trước.
Vào cuối mùa Hè ở vùng này thường có những đợt mưa rào, nước trên Trời trút xuống xối xả như thác đổ. Mỗi ngày có đến 2, 3 cơn mưa lâu cỡ vài tiếng đồng hồ mới dứt. Có những đợt mưa kéo dài 3, 4 ngày và sau mỗi cơn mưa mặt trời trở lại nắng gắt oi ả hơn, không một ngọn gió nóng nực kinh khủng. Tiếp theo những cơn mưa rừng chừng vài tiếng đồng hồ, bao giờ cũng là một tai họa khủng khiếp do thác lũ nước nguồn dồn xuống bứng cây cuốn theo phá hoại hoa mầu, nâng mực nước sông lên cao tràn ngập mênh mông. Nước lũ cứ cuồn cuộn vài ngày đêm như vậy mới lần lần thoát hết. Tất cả những ǵ con người đă khổ công reo trồng vun bón ở các dải đất gần hai bên bờ sông chưa tới ngày thâu hoạch, bị nước lũ cuốn trôi theo ḍng xuống đồng bằng ra biển cả ráo trọi, chỉ c̣n lại một lớp phù xa đỏ ngầu ngập lút đầu gối.
Oái oăm thay, cũng chính vào cái mùa mưa lũ này các bà vợ Tù từ miền Nam cũng lẻ tẻ được phép đến Trại “thăm nuôi”, cung cấp tiếp tế thực phẩm cho Chồng “bồi dưỡng” lấy lại sức khoẻ.
Thời gian Vợ Chồng gặp nhau chỉ được có 15 phút, chuyện gia đ́nh con cái ra sao trao đổi c̣n chưa đầy đủ, thời giờ đâu mà tả cảnh khổ cực dọc đường cho các Ông nghe. Tuy nhiên, cũng có những anh Đội trưởng, Đội phó, Tổ trưởng, và Nấu Nước ngoài “hiện trường lao động” cho Đội, được Quản giáo Đội “chiếu cố” đề nghị Trưởng trại cho thăm 2 tiếng đồng hồ buổi trưa. Có người c̣n được ở lại bên vợ 24 giờ đồng hồ tại Nhà Thăm Nuôi không có sự hiện diện kiểm soát của Cán bộ ban đêm, nên Vợ Chồng tha hồ tâm sự nhỏ to đủ mọi chuyện.
Cũng nhờ thế những tin tức về các cuộc họp tại Genève, liên quan đến các phương thức giải quyết vấn đề Tù miền Nam luôn luôn được cập nhật và là đề tài x́ xầm hàng ngày giữa anh em Tù miền Nam trong cả Trại. Đây là những liều thuốc bổ hữu hiệu nhất để chữa căn bệnh thất vọng của anh em đă phải chịu đựng trong suốt mấy năm qua trên đất miền Bắc Xă hội Chủ nghiă.
Xem tiếp chương 23...
-
[B]Chương 23 : NẾP SỐNG VÀ PHONG CÁCH CON NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM[/B]
Mấy ngày cuối năm Âm lịch Kỷ Mùi (1979) Đội chúng tôi được đưa ra quét dọn rác rưởi cỏ dại vét mương rănh quanh khu gia binh và chung quanh các cơ sở của Ban Chỉ huy trại Tân Lập, để Cán bộ và gia đ́nh đón Xuân Canh Thân (1980) cho được sạch sẽ đẹp mắt.
Nhân dịp làm cỏ trong khu trồng rau của Cán bộ nơi gần bờ sông, Tôi đưa mắt quan sát bốn phiá không thấy bóng Cán bộ, liền ngồi thụp xuống bên luống rau bứt trái bí nhỏ dấu vào bị. Anh bạn Đại tá Chu văn Sáng (An ninh Quân đội) đứng gần trông thấy, nh́n Tôi nháy mắt rồi từ từ lỉnh xa ra chỗ khác. Tôi đă mượn vắng mặt Cán bộ một trái bí rợ c̣n non (ngoài Bắc gọi là bí ngô) to cỡ 2 nắm tay chụm lại, đem về pḥng giam ăn sống với “sắn duôi” và nước muối. Úi chao! nó ngon ngọt mát ruột biết chừng nào!
Một lần khác, anh Sáng cũng rẫy cỏ vun luống rau của Cán bộ gần bên Tôi, thấy bầy gà con cỡ nắm tay cứ sấn vào quanh lưỡi cuốc để giành những con giun, anh ấy hỏi có dám bập gà con không? Tôi trả lời gà phải lột lông phiền hà lại không ăn sống như bí được, nên đành sinh phúc cho chúng để tránh tội sát sanh, nhưng ếch, nhái, lột da dễ dàng ngâm nước muối ăn sống được sẽ không bao giờ tha mạng chúng, mà c̣n phải làm phước giúp cho chúng sớm thoàt nghiệp sinh vật về cơi Niết Bàn.
Hồi c̣n ở bên K1, anh Sáng được chia chỗ nằm ngay bên cạnh Tôi, nhờ vậy có nhiều dịp tâm sự hàn huyên nên Tôi nhận biết được anh ấy là người dễ mến không độc ngầm. Sang K5 này, anh em lại được “biên chế” vào chung một Tổ nên Tôi mới dám cải thiện linh tinh ngay trước mặt anh ấy.
Hồi c̣n ở bên K1, nhân dịp Tết Mậu Ngọ (1978) Ban Chỉ huy Phân trại có tổ chức các cuộc thi vui Xuân cho Tù tham gia tranh giải thưởng. Anh Sáng ghi tên đấu bóng bàn, v́ trước kia anh ấy từng là đấu thủ có hạng trong đoàn tuyển thủ của Việt Nam Cộng Hoà sang Nhật Bản dự tranh giải bóng bàn Quốc tế vùng Á Châu, nhờ có ngón thủ tuyệt vời bền bỉ anh ấy đă thắng và đoạt chức Vô địch, nên hy vọng trong Trại Tù này không ai hơn nổi, và chắc chắn giải thưởng hạng Nhất 10 trái trứng gà sẽ lọt vào tay anh ấy dễ dàng. Tôi đă khuyên không nên tham dự, “tre già măng mọc” cơ thể đang suy nhược lại không tập luyện e lỡ thua th́ cái Danh Vị Vô địch Á Châu một thời sẽ bị tiêu vong oan uổng. Anh ấy nhất định không nghe và nói:
“-Giữa lúc “củi châu gạo quế” này, 10 trái trứng là cả một gia tài quư báu cho sức khoẻ. Hơn nữa, đây là dịp được tham gia cải thiện hợp pháp sao ḿnh lại bỏ qua không thử thời vận?”
Kết quả đúng như Tôi đă tiên liệu. Vào chung kết, anh Sáng thua một bạn trẻ c̣n khoẻ mạnh có lối chơi tấn công thật vũ băo, phần thủ của bạn ấy cũng không phải hạng thường, nên bạn ấy đă giành mất giải Nhất, anh Sáng được hạng Nh́ lănh 5 trái trứng gà. Sau buổi tranh đua về Láng, anh Sáng nh́n Tôi mỉm cười nói:
“-Vous (Bạn) nói đúng.”
và đưa tặng Tôi một trái trứng để chia sẻ tâm t́nh bằng hữu. Tôi không nhận v́ mới được Bưu kiện của gia đ́nh gửi tới.
Tết Canh Thân (1980) tại K5 (Phân trại Trung ương) nơi có Ban Chỉ huy Trại Tân Lập, việc tổ chức mừng đón Xuân có vẻ nhộn nhịp quy mô hơn Tết Kỷ Mùi (1979) ở Phân trại K1. Chung quanh sân tập họp suốt từ cổng vào tới cửa Hội trường, những cây Mai giả, Đào giả bông và lá làm bằng giấy mầu được trang trí xen kẽ với những dây treo lồng đèn và cờ bươm bướm mầu xanh vàng đỏ rất nghệ thuật đẹp mắt. Quang cảnh rực rỡ y như “Bồng lai Tiên cảnh” trên Thượng giới chuẩn bị mừng Chúa Xuân, mà các Văn Thi sĩ giầu óc tưởng tượng thường mô tả.
Đúng giao thừa có đốt pháo đón Tân Niên. Vài phút sau, thấy Cán bộ Trực Trại và “Thi đua” đến mở cửa pḥng giam của chung tôi, Trưởng Trại Tân Lập (Thiếu tá Công An Nhân Dân Nguyễn Thùy) có Giám thị Trưởng Phân trại K5 tháp tùng vào chúc Tết anh em Đại tá chúng tôi năm mới được sức khoẻ tốt để học tập mau tiến bộ. Ông Thùy c̣n khen chúng tôi trong năm qua đă có tinh thần học tập cải tạo tốt, và khuyên nên tiếp tục cố gắng hơn nữa để sớm được Nhà Nước xét cho về “đoàn tụ” với gia đ́nh.
Chúc Tết xong, ông ấy hỏi:
“-Anh em có ai biết anh Nguyễn Bá Cẩn Cựu Chủ tịch Hạ viện Quốc hội thuộc chế độ cũ tại miền Nam không?”
Rồi khoe là:
“- Mấy năm về trước, anh Cẩn cũng học tập cải tạo tại đây và đă được tha về đoàn tụ với gia đ́nh trước khi các anh đến đây. Từ ngày được tha đến nay, năm nào anh Cẩn cũng vẫn nhớ gửi thư chúc Tết và không bao giờ quên ngỏ lời biết ơn sự đối xử rất “t́nh người” của Ban Giám thị, cũng như khoe rằng trong cuộc sống mới tại địa phương được Chính quyền Cách mạng và đồng bào thương yêu đùm bọc.”
Anh Đội trưởng (Đại tá Lê đ́nh Luân, Đơn Vị 101 thuộc P.2 Bộ Tổng Tham Mưu) đại diện anh em chúng tôi ngỏ lời cám ơn và chúc Tết đáp lễ Ban Giám Thị. Anh ấy cũng thay mặt anh em cả Đội, hứa sẽ luôn luôn cố gắng học tập “lao động cải tạo” hăng hái hơn năm cũ để sớm được hưởng lượng khoan hồng của Đảng, Nhà Nước và Ban Giám thị Trại tha cho về “đoàn tụ” với gia đ́nh, hội nhập vào cuộc sống mới trong ḷng Dân tộc Xă hội Chủ nghiă.
Để tỏ thái độ “t́nh người Xă hội Chủ nghiă” của Ban Giám thị đại diện Đảng và Nhà Nước, ông Thùy kêu Cán bộ tháp tùng đem thuốc lào, thuốc lá, và trà ướp sói, sản phẩm của tỉnh Vĩnh Phú “ĺ x́” cho anh em chúng tôi chia nhau mừng đón Xuân. Ai cũng biết là tiền dùng để mua các quà này là trích từ “tiêu chuẩn” Nhà Nước cấp cho Tù ăn Tết, và oái oăm hơn nữa là nguồn gốc tiền này lại do Tù bị buộc phải lao động sản xuất làm ra để nộp cho Nhà Nước. Thật là “của người phúc ta”.
Sáng mồng Một Tết, tất cả Tù và các Quản giáo thuộc Phân trại K5 phải tập trung lên Hội trường để nghe lời chúc Tết của Ban Giám thị Trại trưởng (thường gọi tắt là “BAN”). Có múa Lân đốt pháo đón rước “BAN” từ ngoài cổng vào Hội trường. Khi “BAN” vào tới Hội trường, mọi người phải đứng lên vỗ tay đón chào cho đến khi “BAN” an vị xong bên bàn Chủ tọa trên sân khấu, mọi người mới được phép ngồi bệt xuống đất đợi nghe “huấn từ vàng ngọc” của “BAN”.
“BAN” chúc Tết và phác họa những điểm chính yếu Trại cần phải thực hiện trong năm mới theo lệnh của Nhà Nước. Sau đó, đến lượt đại diện Tù lên đọc lời chúc Tết “BAN”. Tiếp theo, trưởng Ban Thi Đua của Phân trại tŕnh bầy Dự án Kế hoạch năm mới cho mọi người “nắm vững” để mà ra sức “thi đua”. Sau cùng, các Đội trưởng đại diện cho từng khối: Nông nghiệp, Lâm sản, Ḷ gạch, Rau xanh, Xây dựng, Mộc và Đan lát lên đọc “bản cam kết quyết tâm thi đua” hoàn thành trăm phần trăm “chỉ tiêu giao phó đúng hạn kỳ”.
Chấm dứt buổi lễ chúc Tết đầu năm, “BAN” và Cán bộ rời Hội trường, Tù giải tán ra sân tập họp dự các cuộc vui tranh giải thưởng. Tôi không nhớ có những tṛ vui ǵ v́ không quan tâm tham dự, bỏ về pḥng giam nằm ngủ cho quên nỗi nhớ Con thương Vợ, chắc giờ này đang rất buồn khổ v́ 3 cái Tết đă qua đi gia đ́nh thiếu bóng người Cha người Chồng thân thương.
Buổi tối có tổ chức tŕnh diễn Văn nghệ tại Hội trường, cho cả Tù, Cán bộ và gia đ́nh Cán bộ cùng xem. Những người tham gia Đội múa Lân và Đội Văn nghệ được Cán bộ tuyển dụng trong nhóm anh em Tù miền Nam tập dượt thực hiện. Một số thuộc gốc Chiến tranh Chính trị, trong đó có cả Linh Mục và Đại Đức Tuyên úy Quân đội.
Chương tŕnh Văn nghệ rất dồi dào đầy đủ. Nào là đơn ca, tốp ca, nhạc cảnh, và đặc biệt có tŕnh diễn một vở tuồng được các Cán bộ rất thích, trầm trồ ca ngợi. Tôi không nhớ chắc tên, h́nh như tuồng Dương Vân Nga. Các nghệ sĩ có trang phục tŕnh diễn tươm tất y như một đoàn hát lưu động miền quê. Vai Nữ được mấy bạn người mảnh mai thủ vai, hoá trang trông thật xinh đẹp, duyên dáng yểu điệu, làm mọi người vô cùng ngạc nhiên thích thú. Chẳng biết trang phục và nhạc cụ kiếm ở đâu ra? Chắc Ban Giám thị đi thuê của đoàn Văn Công Nhà Nước nào đó.
Ba ngày Tết qua đi, đợt “thi đua sản xuất” đầu năm được “phát động ra quân” rầm rộ, có Lân, có pháo mở đường. Đội chúng tôi đi tăng cường trồng đậu cho một Đội Nông Nghiệp khác, cách Trại chừng hơn cây số về hướng Bắc của thung lũng.
Trên đường ra “hiện trường lao động”, chúng tôi thấy nơi giữa đồng trống xa xa gần bờ sông, một đám đông khoảng dăm chục người cả đàn ông lẫn đàn bà đang túm năm tụm ba, kẻ đứng người ngồi, đi đi lại lại, nói năng ồn ào. Chúng tôi vừa đi vừa quay mặt quan sát ngạc nhiên, không biết đám ma hay đám mít tinh. Quản giáo Đội thấy vậy lên tiếng giải thích:
“-Phiên họp chợ định kỳ của dân địa phương đó.”
C̣n tiếp...
-
Đất ruộng qua suốt mùa Đông mưa phùn, ẩm ướt mềm xền xệt, có chỗ úng vũng đầy nước, trong lúc lên luống mỗi nhát cuốc là một lần bùn văng tùm lum lên người. Anh Trần văn Thăng (Đại tá An ninh Quân đội) vui miệng ca nho nhỏ bài hát có câu “...nhà.a. nông, chân lấm ta.ay bùn...”, chẳng may Quản giáo Đội đi ngang nghe được, gọi lên bắt đứng giữa sân trước Nhà Lô “làm việc” thật lâu. Ông ta lên giọng hạch hỏi phê phán nặng nề v́ tội chưa ư thức được “lao động là vinh quang”, c̣n “ngại khó ngại dơ”, “nặng óc tư sản, ngồi mát ăn bát vàng” ...
Ít ngày sau, Đội chúng tôi lại đổi công tác đi xắn đất vét ao chứa phân bên truồng “heo (lợn) cải thiện” của Cán bộ cho xâu thêm, để trại thả cá theo chương tŕnh “VAC” của Nhà Nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi c̣n sinh tiền, học được của các Đồng chí Cách mạng đàn anh bên Trung Hoa đem về áp dụng. Nếu Tôi nhớ không lầm, theo lời giải thích của Cán bộ hướng dẫn học tập lao dộng th́ “VAC” là ám hiệu viết tắt của 3 chữ:
Vườn rau, Ao cá, và Con lợn (chuồng lợn).
Buổi sáng hôm đó trời âm u, thời tiết cũng c̣n ngăm ngăm lạnh, anh em chúng tôi chia nhau thành 4 toán làm việc cùng một lúc. Hai toán lội xuống ao, đứng xắn đất thành từng khối vuông bằng lưỡi xẻng. Hai toán đứng làm dây chuyền, bê chuyển những tảng đất đă xắn ra từ ḷng ao lên bờ. Đất nhăo đen x́ xền xệt trộn lẫn phân heo lâu ngày hôi thối muốn ngộp thở, vẫn phải cắn răng mà cố gắng làm cho mau xong.
Vào khoảng giữa buổi lao động bỗng dưng có một trận mưa thật lớn đổ xuống, mọi người chạy lên ẩn trú dưới mái chuồng heo để tránh mưa, bị Cảnh vệ nạt nộ:
“-Ai cho các anh nghỉ? xuống tiếp tục làm ngay!”
Mọi người c̣n đang ngần ngừ, Cảnh vệ lên đạn súng và hét tiếp:
“-Chúng mày định chống đối phải không?”.
Anh em đành lục tục trở ra tắm mưa tiếp tục công việc.
Trong khi mọi người nín lặng làm việc giữa tiếng mưa rơi rào rào trên mái tôn, anh Nguyễn văn Phúc (Đại tá Chiến tranh Chính trị) vừa bê chuyển đất vừa ngâm nga mấy câu thơ của Tố Hữu, nói đến vấn đề t́nh người sao đó, Tôi không nghe rơ được từng tiếng thơ ngâm, thế mà Quản giáo Đội đứng núp mưa gần đó nghe được, nhưng ông ta tỉnh khô để cho mọi người tiếp tục lao động trong mưa, chừng mươi phút sau mới cho phép vào trú mưa. Trong khi ngồi nghỉ trên sàn chuồng heo, cả Đội bị Quản giáo “phê b́nh giáo dục” một trận nặng nề. Anh Phúc phải hết lời tŕnh bầy chứng minh rằng đấy là những vần thơ của Đại Thi Hào Tố Hữu đang là Bộ trưởng Giáo dục của Chính quyền Cách mạng tại Hànội, mới thoát khỏi tai vạ.
Khoảng từ tháng 9 trở đi bắt đầu tàn Thu sang Đông, các Bà Vợ ở miền Nam được giấy phép ra “thăm nuôi” Tù tấp nập hơn, hầu như ngày nào cũng có. Mấy bạn lâu nay nhận được nhiều Bưu kiện hơn anh em trong Đội, cũng lại là những người có may mắn được “thăm nuôi” trước nhất. Các Bà đem theo cả 3, 4 chục kí lô đồ tiếp tế đủ thứ, để trong rương, trong các bao tải đầy nhóc. Trại phải cho Tù mượn xe “cải tiến” để chở đồ từ Nhà Thăm Nuôi vào Trại, v́ gánh không xuể.
Đội chúng tôi có một bạn, quà nhận qua đường Bưu điện tháng nào cũng 4, 5 Bưu kiện, lúc Vợ tới thăm tiếp tế thêm cũng rất nhiều, nhắm chừng một người ăn cả năm mới hết. Anh em đă đặt cho biệt hiệu “phú ông”. Mỗi lần đổi pḥng giam hay di chuyển đi trại khác, “phú ông” phải nhờ tới 2, 3 anh em phụ khuân mới xuể. Dĩ nhiên những người chấp nhận phụ giúp luôn luôn được “phú ông” đền ơn bằng những bữa ăn xứng đáng. Nhưng có một chuyện làm anh em x́ xào, chắc “phú ông” cảm nhận được, nên sau này khi vào tới Trại Thanh Phong, Thanh Hoá, “phú ông” đă tích cực sửa sai. Để lấy lại cảm t́nh của anh em, sáng Chủ nhật nào “phú ông” cũng nhờ mấy tay đàn em nấu nướng các món ăn, mời thay phiên chừng 7, 8 anh em trong Đội đến đăi rất linh đ́nh.
Số là khi bà Xă đến thăm lần đầu tiên, ngoài rất nhiều quà khô, bà Xă c̣n nấu cho “phú ông” một rá cơm trắng đầy ắp với gà luộc nguyên con, đủ cho mười người ăn một bữa no nê, một ḿnh “phú ông” ăn phải cả tuần lễ mới hết. Nhưng “phú ông” chỉ tặng cho 3, 4 người quen thật thân, mỗi người 1 chén cơm, c̣n để dành một ḿnh ăn lần mỗi ngày 3 bữa cho đến hết.
Kẹt nỗi thời tiết gặp mùa nắng mưa lẫn lộn, không khí lúc oi lúc ẩm, trong tù không có tủ lạnh để tồn trữ thực phẩm tươi nên chỉ hai ngày sau phân nửa rá cơm c̣n lại bị thiu chua không ăn được, “phú ông” tiếc của đem phơi khô cũng chẳng thành, mốc meo vàng đỏ mọc đầy xông mùi chua như mẻ, đành phải đổ bỏ. Phải chi ngay hôm mới thăm nuôi vào, chia cho những bạn chưa được gia đ́nh tiếp tế đang thiếu thốn, mỗi người một chén “miếng khi đói bằng gói khi no”, tiếng thơm hào hiệp sẽ vang lừng chẳng bao giờ phai trong trí nhớ của anh em.
Một tuần lễ sau, anh em lại thấy “phú ông” đem phơi một lô năm bẩy chiếc bánh ḿ tươi dài 4 tấc sản xuất tại Hànội, cũng bị mốc meo xanh lốm đốm không ăn được. Cho cũng chẳng ai dám lấy, v́ sợ ăn vào tiêu chẩy thêm họa vào thân. “Phú ông” đành vứt vào thùng rác cho Trại đem đi ủ với phân người để bón ruộng, cho luá cho rau thêm xanh tốt thâu hoạch cao.
Hầu như tuần nào Đội chúng tôi cũng có người được thân nhân từ miền Nam hoặc từ Hànội đến “thăm nuôi”. Những bạn nằm 2 bên cạnh và một vài bạn thân khác, mỗi lần có “thăm nuôi” đều cho Tôi đồ ăn tươi. Người cho nắm cơm nếp với miếng thịt gà luộc. Người cho mẩu bánh ḿ cặp ít miếng thịt kho. Người cho chén cơm trắng với chút muối mè đậu phộng. Có người cho miếng bánh tổ (một loại bánh ở trong Nam, làm bằng bột nếp trộn đường nấu chín đổ khuôn phơi khô ăn dần)...
Phần Tôi, tự biết hoàn cảnh gia đ́nh khó khăn Vợ đau yếu phải lo nuôi tám Con c̣n nhỏ dại, không mong ǵ có ai thăm nuôi, ngay việc nhận Bưu kiện hàng tháng cũng thất thường tháng có tháng không. Bạn bè cho không nhận sợ mất ḷng, c̣n nhận e rằng ḿnh sẽ không có để trả nợ, nên Tôi luôn luôn tŕnh bầy sự thật hoàn cảnh của ḿnh để từ chối không nhận. Nhưng ai cũng cố t́nh ép phải lấy, và nói:
“-Trong hoàn cảnh này không nên nghĩ đến chuyện “ḥn đất ném đi, ḥn ch́ ném lại”.
Sau này nếu chúng ḿnh c̣n sống, gặp nhau bạn bè tha hồ mà “chén chú, chén anh” lo ǵ.”
Lâu lâu hai ba tháng không chừng, Tôi mới nhận được thư của gia đ́nh, lo lắng không biết thực trạng hoàn cảnh Vợ Con ra sao. Tôi có địa chỉ của bà Chị Vợ ở ngoài Bắc, nhờ hồi đầu năm 1977 tại Hoàng Liên Sơn, trong một thư kèm trong Bưu kiện tiếp tế quần áo, Vợ tôi báo cho biết bà Chị có vào Saigon kiếm thăm gia đ́nh, Chị ấy cho biết địa chỉ để pḥng trường hợp Tôi được tha về ghé thăm nếu thuận tiện. Thư Vợ tôi có viết thêm đôi lời dặn là trong thời gian đang cải tạo đừng biên thư làm phiền Chị ấy. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, cùng bất đắc dĩ Tôi đành phải gửi thư cầu cứu bà Chị Vợ, nhờ liên lạc t́m hiểu giùm t́nh h́nh hiện tại của Vợ Con. Chị ấy có chồng người Trung Hoa mở tiệm trồng răng vàng tại Hải Pḥng.
Thư Tôi gửi đi được khoảng một tháng sau nhận được hồi âm của bà Chị Vợ tốt bụng. Bà Chị trách Tôi sao không liên lạc sớm hơn để Bà giúp đỡ, và tại sao không gửi Phiếu Bưu Kiện về đều hàng tháng cho Vợ tôi gửi quà. Đồng thời Chị ấy cũng báo cho biết, Vợ tôi đang xin giấy phép ra thăm nuôi nhưng chưa được. Ngoài ra, bà Chị cũng cho biết đă ra Bưu điện Hải pḥng xin gửi Bưu kiện tiếp tế cho Tôi, nhưng người ta không cho v́ không có Phiếu Bưu Kiện của Trại giam cấp.
Thật oan nghiệt, tháng nào Tôi chẳng nộp thư và Phiếu Bưu Kiện do Trại cấp để Quản giáo Đội kiểm tra chuyển gửi về nhà cho Vợ. Mỗi tháng chỉ được cấp có một Phiếu Bưu Kiện, làm sao có dư mà gửi để bà Chị tiếp tế phụ cho. Tin tức này chứng tỏ rơ ràng, thư Tôi gửi cho gia đ́nh hàng tháng theo quy định của Trại không được chuyển đi, hoặc có thể là Chính quyền địa phương nơi gia đ́nh Tôi cư ngụ kiểm tra thư xong đă vứt đi không phát. Chứ chẳng lẽ nào Bưu điện tồi đến nỗi để mất thư hoài sao? Các bạn khác trong cùng Đội đâu có gặp khó khăn như Tôi, ai gửi thư về nhà cũng nhận được hồi âm đều đặn, có người hàng tháng c̣n nhận được 2, 3 thư của gia đ́nh gửi tới.
Mùa Đông năm nay tới sớm hơn mọi năm, ṛng ră ngày tháng khổ xác khổ tâm cứ tiếp tục theo nhau qua đi trong giá lạnh của mưa phùn gió bấc. Bỗng một hôm, đang đứng dưới làn mưa bụi nhẹ nhàng buổi sáng chờ lệnh xuất trại lao động, Cán bộ Trực Trại đọc tên những người được nghỉ lao động ra gặp “thăm nuôi”, có tên Tôi, mừng hết chỗ nói, bàng hoàng tưởng như ḿnh đang mơ ngủ. Bước ra khỏi hàng về pḥng giam, cất túi đồ nghề đi lao động, thay bộ quần áo lành lặn tươm tất đúng như Trại quy định cho những người được “thăm nuôi” phải tuân hành. Chờ mọi Đội xuất trại hết, Tôi hân hoan ra sân đến cạnh cổng tŕnh diện Cán bộ giắt đi “thăm nuôi” cùng lượt với 5 bạn Tù thuộc các Đội khác.
Trên đường ra Nhà Thăm Nuôi, đầu óc Tôi trống rỗng. Thực t́nh, Tôi không bao giờ nghĩ là Vợ dám liều để mặc các Con nhỏ ở nhà không người lớn chăm sóc mà đi “thăm nuôi” ḿnh, nên không chuẩn bị tinh thần mong đợi như các bạn khác. Tôi hoang mang, không biết phải sử xự ra sao cho đúng quy luật Trại giam lúc gặp Vợ sau bao ngày xa cách? Chẳng biết sẽ được gặp nhau như thế nào? Được phép nói những chuyện ǵ?
Tới điểm canh cách nhà thăm nuôi chừng trăm mét, thấy một số bà từ trong sân tiến ra để nh́n đón chồng. Tôi đảo mắt t́m hoài chẳng thấy bóng dáng Vợ ḿnh đâu. Đang ngạc nhiên suy nghĩ, nghe có tiếng gọi:
“-Chú Hùng! Chú Hùng! Chị đây, Chị và cháu đi thăm Chú đây!”
Quay mặt về phiá có tiếng gọi, Tôi thấy một Bà đă lớn tuổi dáng người thấp và hơi mập, đang khua tay vẫy, Tôi chăm chú nh́n ngờ ngợ măi mới nhận ra được bà Chị Vợ. Sau 25 năm không gặp bà Chị đă già đi nhiều, nhưng giáng vóc và khuôn mặt không thay đổi, nhờ thế mới nhận được. Bà Chị xáp lại giắt tay Tôi vừa đi vừa nói:
“-Chú gầy ốm quá, chắc phải xút tới phân nửa người chớ không ít. Hồi cuối năm 1975 Chị có vào Saigon thăm Cô ấy và các cháu, thấy ảnh Chú mập mạp tốt tướng lắm. Bây giờ th́ ốm tong ốm teo, thật tội nghiệp, may mà khuôn mặt không thay đổi, Chị mới nhận được ra Chú đấy!”
Có tiếng Cán bộ quát:
“-Mấy chị kia dang ra, nếu không sẽ không cho “thăm nuôi” bây giờ. Chờ vào pḥng sẽ nói chuyện.”
Các Bà tách khỏi chúng tôi, đúng lúc mọi người vừa đi tới trước sân Pḥng Thăm Nuôi. Anh em Tù đứng thành một hàng ngang, một bạn Tù được Cán bộ chỉ định từ trước khi ra khỏi Trại, dơng dạc cất tiếng hô lớn như kiểu nhà binh:
“-Nghiêm, báo cáo Cán bộ 6 người K5 xin thăm nuôi.
c̣n tiếp...
-
Cán bộ gật đầu cho mọi người vào Pḥng Thăm Nuôi. Tù vào trước ngồi hàng ghế bên phải chiếc bàn dài suốt căn pḥng, bề ngang rộng 1 mét. Thân nhân vào sau ngồi hàng ghế bên đối diện. Cán bộ ngồi tại ghế ngay đầu bàn đọc Điều lệ Nội quy “thăm nuôi”, và quy định thời gian thăm là 15 phút. Hai bên bắt đầu nói chuyện. Cán bộ tiếp tục ngồi tại chỗ quan sát, lóng nghe xem Tù và thân nhân nói những ǵ.
Tôi bị gọi đích danh, chỉ định ngồi ngay sát đầu bàn chỗ gần bên Cán bộ. Thật là kẹt, 2 Chị Em chẳng dám trao đổi ǵ nhiều về chuyện thật của gia đ́nh.
Trước mặt Cán bộ, bà Chị luôn mồm khuyên:
“-Chú phải cố gắng học tập cho tốt, đừng dại dột nghe người ta xúi bẩy làm những điều sai trái, Nhà Nước sẽ sớm khoan hồng cho về với Vợ Con.”
Rồi Bà kể lể:
“-Hồi cuối năm 1975 vào thăm Cô ấy và các cháu, Chị đă thấy mộ phần của Mẹ (nhạc mẫu của Tôi), và những phim ảnh sinh hoạt gia đ́nh của Cô Chú. Nhờ đó Chị biết được lúc Mẹ c̣n sống cũng như sau khi qua đời, Cô Chú đă làm tṛn bổn phận phụng dưỡng Mẹ rất chu đáo. Nếu Mẹ ở ngoài này gần các Chị, chắc chẳng được như vậy đâu. Biết Chú ở đây rồi, Chị sẽ theo định kỳ Nhà Nước cho phép, đến tiếp tế cho Chú tiện hơn là Cô ấy ở trong Nam, đường xá xa xôi mỗi lần đi lại vất vả khó khăn. Việc nhà Chú đừng lo, Chị sẽ lưu tâm giúp đỡ cho. Lần thăm nuôi này Chị không biết Trại cho phép tiếp tế cho Cải tạo nhiều thực phẩm như vậy, nên Chị đem cho Chú rất ít chỉ có 2 kí bánh ḿ khô, 1 kí đường cát, 4 cái bánh chưng nhà gói lấy, và mới nài các Bà ở trong Nam ra bớt cho được 1 kí ḿ ăn liền để Chú dùng đỡ. Chị đă thưa với Anh Cán bộ đây rồi, một tuần lễ nữa Chị sẽ cho Cháu mang đến tiếp tế thêm cho Chú, những thứ Chú cần để “bồi dưỡng” cho mau lấy lại sức mà cải tạo cho tốt.”
Đến lúc hết giờ thăm, thân nhân và Tù ra trước sân giao nhận quà tiếp tế, bà Chị đứng sát bên Tôi nói nhỏ:
“-Lẽ ra chúng nó không cho Chị gặp Chú đâu, nhưng Chị đă đút tiền nên nó mới cho đấy. Lúc xin giấy phép di chuyển ở Hải Pḥng cũng gặp khó khăn v́ không thuộc diện thăm nuôi, nhưng Chị đă phải nại lư do Cha Mẹ đă chết hết, Cô ấy ở xa lại đang bệnh hoạn nên Chị phải thay thế. Chị đưa bức thư xin giúp đỡ của Chú ra và đút lót món tiền kha khá hơn b́nh thường, chúng nó mới cấp giấy phép cho đi thăm đấy. Chị ở ngoài này mấy chục năm rồi, biết rơ cần phải làm ǵ mỗi khi muốn được Chính quyền chiếu cố giúp cho ḿnh được việc.”
Nhận quà xong, Tù chất đồ lên xe “cải tiến” rời Nhà Thăm Nuôi trở về Hội trường của Trại. Sau khi Cán bộ khám xét quà mới nhận xong, Tôi xách chiếc bị cói đựng cả gia tài tiếp tế khoảng 6, 7 kí lô về pḥng giam. Anh Trực Pḥng nh́n thấy, tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng không nói ǵ. Tôi hiểu ư thong thả phân bua, Vợ xin giấy phép hoài mà chưa được nên nhờ bà Chị Vợ ở ngoài Bắc này đến thăm t́m hiểu đường đi nước bước trước. Ngoài Bắc này, chúng ḿnh đă từng thấy thân nhân đi thăm Tù, có bao giờ mang ǵ nhiều đâu.
Sau giờ điểm danh Tù vào pḥng buổi tối xong, Tôi lấy 2 chiếc bánh chưng ra cắt làm 8 miếng, đem biếu anh Đội trưởng, 2 bạn nằm kế bên, mấy bạn đă từng cho Tôi ăn quà “thăm nuôi” của họ trước đây, anh nấu nước ngoài “hiện trường lao động”, và anh Trực Pḥng. C̣n lại 2 chiếc để dành ăn dần mỗi ngày nửa chiếc.
Mười ngày sau, vào một buổi trưa vừa nhập trại sau khi đi lao động sáng trở về, Tôi được gọi lên Văn pḥng Thi Đua làm việc. Tôi giật ḿnh chẳng biết có chuyện ǵ lành hay giữ, nhưng vẫn phải tức tốc đi ngay. Khi tới nơi, anh “Thi Đua” hỏi tên rồi chỉ cho Tôi chiếc rương làm bằng tôn (thường dùng để đựng quần áo) và đưa chià khoá bảo mở ra kiểm tra xem có đủ các món như trong bức thư liệt kê không, rồi đem về. Đổi lo sang mừng, đây là rương quà bà Chị Vợ đă nói với Tôi trước mặt Cán bộ trong Pḥng Thăm Nuôi hôm trước.
Trong khi Tôi kiểm đồ đạc để trong rương, anh “Thi Đua” hỏi:
“-PtX là ai vậy?»,
Tôi trả lời Chị Vợ của Tôi ở ngoài Bắc này. Anh ta nói tiếp với giọng ngạc nhiên:
“-Làm sao mà ở ngoài này lại có người Chị Vợ tốt bụng đến thế? Anh là người tốt phúc lắm đấy!”
Kiểm xong, Tôi ngỏ lời cám ơn và không quên biếu anh “Thi Đua » một phong bánh khảo Hải Dương, rồi gồng hai tay khệ nệ bê chiếc rương thực phẩm ra khỏi Văn pḥng Thi Đua. May sao vừa ra tới đường, gặp anh bạn nằm cạnh cùng pḥng giam đang lảng vảng gần đó ŕnh xem chuyện ǵ xẩy đến với Tôi, chạy đến tiếp tay khiêng. Nếu không, một ḿnh không thế nào tiếp tục bê đi nổi, phải kéo chiếc rương lết trên mặt đất cả trăm mét mới về tới pḥng giam. Kể từ lúc này Tôi cảm thấy yên tâm, không c̣n lo bị chết đói trong Tù v́ suy nhược thiếu dinh dưỡng nữa, đồng thời cũng tự nhủ thầm từ nay sẽ nhất định không cải thiện linh tinh nữa.
Kiếp sống Tù, cứ tiếp tục trôi theo nhịp xoay của Trái Đất với niềm hy vọng lớn lao vào các cuộc thương thuyết đang diễn tiến thuận lợi tại Genève, giữa Hoa Kỳ và phe Cộng sản Việt Nam.
Đầu tháng 12, khoảng hơn 3 tuần lễ sau ngày bà Chị Vợ đến «thăm nuôi», Tôi lại được gọi tên đi « thăm nuôi », thật là một bất ngờ thích thú, Tôi đoán chắc là Vợ ở trong Nam ra thăm. Các bạn cùng Đội rất ngạc nhiên không hiểu sao mới được thăm chưa đầy một tháng, nay lại được phép thăm nữa.
Như thường lệ, sau khi tất cả các Đội xuất trại đi lao động khoảng mươi phút, anh em được “thăm nuôi » tập trung bên cạnh cổng, theo Cán bộ ra khỏi trại để gặp thân nhân. Vừa tới sân Nhà Thăm Nuôi, Tôi bỗng nghe một tiếng reo thật lớn:
« -Bố ! ».
Rồi từ trong nhóm các Bà đứng chờ Chồng, cô Con gái lớn của Tôi chạy ùa ra vồn vă ôm Tôi hôn rối rít. Tôi phải nói nhỏ, coi chừng người ta phạt không cho thăm bây giờ đấy con ạ, Cô ấy mới buông Tôi ra và lẩn vào trong đám các Bà, đang ngạc nhiên nh́n cảnh tượng bộc lộ t́nh thương rất là Âu Tây của Con gái đối với Bố giữa chỗ đông người ngay trước mặt Cán bộ trại tù.
Vào trong Pḥng Thăm Nuôi, thấy có 2 anh thanh niên cỡ tuổi đôi mươi, một đứng một ngồi bên con gái, Tôi hỏi xem là ai. Con tôi trả lời:
“-2 Anh con Bác ..x.., hôm trước theo Bác đến thăm Bố, nên hôm nay dẫn đường cho con đi.»
Hôm bà Chị Vợ đến thăm, các cậu ấy đi theo nhưng không vào trong pḥng thăm, cũng không thấy xuất hiện để bà Chị giới thiệu lúc ra sân nhận quà trước khi trở vào Trại, nên Tôi không biết mặt.
Hai cậu với giọng lơ lớ Tầu lai nói:
«Chúng cháu chào Chú. Bố chúng cháu cũng đ̣i đi thăm Chú, nhưng v́ là người Trung Hoa nên Mẹ chúng cháu không cho. Nhưng thế nào rồi Bố chúng cháu cũng sẽ đến thăm Chú.”
Tôi ngỏ lời cám ơn các Cháu đă dẫn Con Tôi đến đây, và yêu cầu chuyển lời chào của Tôi đến ông anh cột chèo tốt bụng, chưa bao giờ biết mặt. Tôi hỏi tiếp xem các cậu ấy học ngành nghề ǵ? công việc làm ăn ra sao? Một cậu nhanh miệng trả lời:
“-Ḿnh là Công dân hạng nh́ ấy mà Chú, lo làm ăn chớ th́ giờ đâu mà học với hành. Chúng cháu ở nhà học nghề làm răng của Bố truyền lại, cũng đủ sống cần ǵ phải đi đâu học cho nó thêm mệt và tốn tiền.»
Tôi quay sang hỏi Con gái, về sức khoẻ của Vợ tôi, về việc học hành của mọi người ra sao? Việc học Y khoa của cô ấy và người em trai kế đến đâu rồi? có hy vọng ǵ không? bao giờ ra trường? Qua những câu trả lời ṿng vo nhỏ nhẹ, Tôi hiểu được là:
-Con gái Tôi phải đi làm ở Bệnh viện, với tư cách Y sĩ phụ tá cho các Bác sĩ, để học nghề chớ không học ở trong trường Đại học nữa. Chưa biết bao giờ cô ấy sẽ được trở lại trường, để tiếp tục học như các bạn khác mà lấy bằng.
-Hiện cô ấy đang làm việc tại Nhà thương Đồn Đất Saigon (sau 30-4-1975 người ta đổi tên là Bệnh viện Nhi đồng 2), xin được nghỉ phép 2 tuần lễ đi «thăm nuôi » Bố đang cải tạo ở ngoài Bắc. Nhờ thế mới can thiệp với Chính quyền Địa phương cho phép Mẹ đi theo, sau nhiều tháng Mẹ tự xin phép không được chấp thuận.
-Hai Mẹ Con ra Hànội, nhờ Bác ..y.. (bà Chị thứ của Vợ tôi) dẫn đi thăm Tôi. Nhưng Bà thoái thác bận công tác Chính quyền không giúp được, đành phải xuống Hải Pḥng nhờ Bác ..x.. (bà Chị lớn) giúp đỡ. Hôm nay Vợ tôi không đi thăm được, v́ sau cuộc hành tŕnh vất vả mấy ngày đêm liền bằng Xe Hoả, xuống tới Hải Pḥng bị bệnh nặng ho ra máu, phải đưa vào Bệnh viện cấp cứu, vẫn đang c̣n nằm điều trị chưa khỏi.
Bây giờ Tôi mới hiểu, tại sao hôm bà Chị ..x.. đến thăm Tôi lại nói: « -Trước khi đi thăm Chú, Chị có ghé vợ chồng Cô ..y.. ở Hànội, hỏi xem có gửi ǵ cho Chú không? Cô ấy đă khuyên Chị không nên dính vào, nhưng Chị vẫn cứ đi. Cô ấy c̣n dặn Chị nói với Chú đừng gửi thư về nhà Cô ấy. »
Bà Chị Vợ tên ..y.. và Chồng theo Cách mạng từ năm 1945, trở về tiếp thu Hànội hồi tháng 7 năm 1954 theo Hiệp định Genève. Lúc gặp Mẹ Vợ tôi, Chị ấy đă khuyên Bà di tản vào Saigon sống với Vợ Chồng chúng tôi để an hưởng tuổi già, không nên ở lại miền Bắc. V́ Bà Mẹ có rất nhiều ruộng cho Tá điền canh tác tại Nhà Quê. Cũng nhờ vợ chồng Chị ..y.. thúc đẩy bà Mẹ di cư vào miền Nam sống với chúng tôi, nên Chị ấy đă thoát được cái tội bất hiếu đối với Mẹ. Không như Trường Chinh Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản VN, bị Thế nhân nguyền rủa đời đời, v́ đă đích thân về Quê đấu tố xử tử Cha ruột của ḿnh là Địa chủ, trong đợt Cải Cách Ruộng Đất khoảng thời gian từ 1953-1956 tại miền Bắc. Trước khi rời Hànội xuống Hải Pḥng đáp máy bay vào Saigon, sống bên chúng tôi hồi cuối tháng 12 năm 1954, Bà Mẹ Vợ tôi đă cho anh chị ..y.. căn nhà ngói rất rộng, trong khu phố Chợ Khâm Thiên.
-Về phần các Con khác của Tôi ở Saigon th́, mấy người học hết Trung học không được vào Đại học, phải đi làm thợ trong các Tổ sản xuất mành trúc của gia đ́nh Cán bộ Cách mạng làm Chủ nhiệm. Mấy người c̣n nhỏ hơn vẫn tiếp tục học Tiểu học.
Trong lúc nói chuyện, Con gái Tôi quan sát thấy cổ tay trái của Tôi có vết xẹo, chắc Cô ấy nghi Tôi bị c̣ng tay tra tấn nên hỏi:
« -Cổ tay Bố làm sao vậy, hồi ở nhà làm ǵ có cái xẹo đó? »
Tôi trả lời, do tai nạn lao động từ hồi c̣n ở Hoàng Liên Sơn.
Cô ấy không thấy chiếc nhẫn cưới xưa nay chưa bao giờ Tôi bỏ ra khỏi ngón tay, tưởng là Tôi đă bán đi để chi tiêu, nên lẳng lặng tháo chiếc nhẫn vàng Y một chỉ đang đeo đưa cho Tôi và bảo:
« -Bố cằm lấy để pḥng khi cần, bán đi lấy tiền mà dùng.»
Tôi xua tay không nhận và giải thích cho cô ấy biết, trong trại chẳng có ǵ để mua, hơn nữa Trại không cho phép giữ qúy kim trên người, các thứ nhẫn, đồng hồ, dây truyền bằng vàng đeo tượng Phật, Tôi dem theo khi đi cải tạo phải nộp cho Trại giữ hết, khi nào được tha Trại mới trả lại.
Tôi nhắc nhở Con gái, cố gắng giúp Mẹ lo cho các Em và nhắn nói lại với Vợ tôi khi nào được ra khỏi Nhà Thương Hải Pḥng, nên trở về Saigon đừng t́m cách đến đây lỡ bệnh trở lại chẳng may có mệnh hệ nào th́ tội cho cả mọi người. Tôi đang nói ngon trớn, Cán bộ báo hết giờ thăm nuôi ra nhận quà để trở về trại. Mọi người ra sân nhận quà chất lên xe «cải tiến». Cán bộ luôn mồm hối thúc «-Khẩn trương ! Khẩn trương !». Cha Con Chú Cháu vội vă chia tay nhau trong bùi ngùi, lưu luyến.
Quà của Tôi kỳ này gồm 2 bao tải và 1 thùng thiếc. Sau khi kiểm tra tại Hội trường, mới biết trong thùng thiếc và 1 bao tải đựng Ḿ ăn liền vụn, sữa bột, cốm khô, đường cát, thịt chà bông, bột đậu xanh, mấy gói nước mắm khô, hộp margarine, sà pḥng, thuốc đánh răng, một số Âu dược. Đặc biệt có 1 bao thuốc lá ngoại để mua cảm t́nh Quản giáo Đội như mọi người thường làm. C̣n bao tải kia, đựng một quài chuối già (ngoài Bắc gọi là chuối tiêu) có được 15 nải đang chín nửa chừng.
Buổi tối sau khi vào pḥng giam, Tôi biếu tất cả các bạn trong Đội mỗi người một trái chuối chín. Riêng phần Tôi, mỗi ngày ăn 4 trái: sáng 2, trưa 1, và tối 1. Độ 3 ngày sau đúng vào Chủ nhật, những nải c̣n lại chín rộ một lượt, Tôi biếu thêm cho anh em trong Đội mỗi người 1 trái nữa, c̣n lại bao nhiêu Tôi bóc vỏ thả vào soong nước đường, đun cho cạn khô làm mứt dành ăn dần. Kết quả rất tốt, đây là cách biến chế do anh bạn Đại úy Cảnh sát chỉ dẫn cho anh em ghi chép từ hồi c̣n ở chung Đội bên K1, trong những ngày Chủ nhật nghỉ lao động chẳng biết làm ǵ ngoài việc thủng thẳng hút những bi thuốc lào Trại phát cho hàng tháng để say lơ mơ mà quên đói.
c̣n tiếp...
-
Có nhiều quà tiếp tế bồi bổ lấy lại sức khoẻ, quả là một thần dược cho tinh thần. Tôi vững tâm nhịn nhục lao động, tiếp tục cuộc hành tŕnh gian khổ đang sắp tới cuối đường hầm với tràn đầy hy vọng sẽ thấy lại ánh sáng văn minh hít thở không khí Tự do đă mất di từ mấy năm nay, nếu Trời thương không cho Thần Chết chấm tên vào sổ Thiên Tào.
Người ta thường nói « Họa vô đơn chí, Phúc bất trùng lai», vậy mà không biết tại sao trong cuối năm con Dê (Kỷ Mùi) này Tôi được gặp Phúc nhiều hơn hai lần. Chả bù với năm con Ngựa (Mậu Ngọ) bệnh hoạn kiệt sức gần chết, c̣n bị phạt giảm mức ăn vốn đă chẳng đủ cung ứng cho nhu cầu hàng ngày của cơ thể.
Vào một buổi sáng mưa phùn lất phất lạnh cóng, khoảng 3 tuần lễ sau khi Con gái đến «thăm nuôi», Tôi lại được gọi ra «thăm nuôi» nữa. Lần này Tôi thấy nôn nao trong ḷng, đoán chắc là Vợ tới thăm và thế nào cũng có bà Chị ..x.. dẫn đi. Lúc ra xếp hàng tập họp để Cán bộ kiểm tên trước khi đưa ra khỏi Trại, anh «Thi Đua» cắc cớ lên tiếng hỏi Tôi:
« -Anh này làm sao mà trong ṿng 2 tháng, thăm nuôi tới 3 lần?»
Qua tin tức thân nhân đă nói nhỏ trong 2 lần thăm trước, Tôi biết chắc là nhờ những tấm giấy bạc Cụ Hồ lót tay mới được phép ra thăm nên không sợ, lớn tiếng trả lời:
-Làm sao Tôi biết, Cán bộ gọi đi «thăm nuôi» th́ Tôi đi, anh có thắc mắc ra hỏi Cán bộ. Anh ấy im lặng lỉnh đi chỗ khác, v́ biết rằng câu hạch hỏi tọc mạch đó làm phật ḷng Cán bộ phụ trách «thăm nuôi» sẽ có hại cho bản thân anh ấy sau này.
Đến sân Nhà Thăm Nuôi, anh em Tù xếp hàng báo cáo xong, một bên là các Bà, một bên là Tù cải tạo, bắt đầu theo nhau đi vào pḥng thăm. Tôi đảo mắt t́m hoài chẳng thấy Vợ đâu. Đang đứng ngơ ngác tiếp tục kiếm th́ thấy bà Chị ..x.. từ bếp đi ra, tay dắt Vợ tôi miệng hối thúc:
«-Mau lên, Cô vào nói chuyện với Chú ấy đi, để Chị lo tiếp nồi nếp và con gà luộc cho.»
Vào “Pḥng Thăm Nuôi”, Vợ Chồng mỗi người ngồi một bên chiếc bàn, nh́n nhau mắt rưng rưng lệ nghẹn ngào chẳng nói được ǵ. Tôi thấy đau nhói nơi tim, khi thấy Vợ ốm yếu gầy ṃn xanh xao, khác hẳn ngày Tôi chia tay đi tŕnh diện Cải tạo. Sau đôi phút xúc động b́nh tĩnh trở lại, Tôi bắt đầu hỏi chuyện về nơi ăn chốn ở có gặp khó khăn ǵ không? về việc học hành của các con, về công việc làm ăn sinh sống hàng ngày ra sao? Để trả lời, thay v́ dài gịng văn tự như bà Chị, Vợ của Tôi chỉ nói rất gọn và ngắn. Gặp câu nào nhắm không dám nói sự thật trước mặt Cán bộ, th́ nhỏ nhẹ bằng câu:
«-Việc nhà ông đừng lo, cứ yên tâm mà học tập, giữ ǵn sức khoẻ cho tốt là được rồi.»
Hiểu ư, để biết tin tức về cậu Con trai lớn du học bên Hoa Kỳ từ năm 1971 ra sao, cũng như những người ở nhà có ai vượt biên được không, Tôi đă phải đặt những câu hỏi ngụy trang. Chẳng hạn:
-Thằng Hai đi công tác vùng Kinh tế mới bên Mỹ Tho, từ hồi Tôi c̣n ở nhà, bây giờ ra sao? Nó có liên lạc về nhà không?
-Mấy đứa ở nhà có đứa nào đi vùng Kinh tế theo nó không?
Trong khi đang nói chuyện, bà Chị ..x.. đem một điă xôi có chiếc đùi gà vào đưa cho Tôi, và nói:
«-Chú vừa ăn vừa nói chuyện. Chị biết Chú thích ăn cơm nếp thịt gà nên Chị nấu một nồi lớn. Sợ đem vào Trại không giữ được mà ăn, nên đem lên bây giờ cho Chú ăn. Hôm nay thấy Chú có da có thịt hồng hào khá hơn lần gặp trước, Chị rất mừng. Từ nay cứ yên tâm, sau này nếu Cô ấy không ra được, đă có Chị ngoài này đến tiếp tế cho.»
Tôi lắc đầu trả lời:
-Bây giờ không ăn được, Chị cứ gói tất cả cho Em đem vào trong Trại ăn dần, không sao đâu. Anh Em trong Nam ra ở chung với nhau, không ai hà hiếp giành cướp mất đâu, Chị đừng lo.
Hết giờ thăm nuôi, ra sân nhận quà xếp lên xe xong, Tôi dặn Vợ là từ nay không phải ra thăm nữa, cứ cố gắng gửi Bưu kiện hàng tháng là đủ rồi. Những quà tiếp tế qua 3 kỳ thăm này, Tôi có thế tằn tiện dùng từ 4 đến 5 tháng mới hết. Bà Chị lại gần nói nhỏ:
«-Lần trước đến thăm Chú, Chị thấy có người đến thăm chồng được ở lại qua đêm. Lần này Chị cũng định cho anh Cán bộ tiền xin cho Chú được ở thăm lâu hơn, nhưng không được. Anh ấy nói phải có Quản giáo Đội chấp thuận theo đơn xin của Chú mới được, hoá nên chuyện không thành. Tội nghiệp, xin giấy di chuyển khó khăn, lại phải lặn lội vất vả cả hơn ngàn cây số, thế mà Vợ Chồng chỉ được thấy mặt nhau có mươi lăm phút. Cũng chẳng được phép ngồi kế bên nhau mà nói chuyện nữa. Thật hẹp ḥi khó khăn quá chừng.»
Bà Chị đang nói th́ có tiếng Cán bộ hối lên đường «khẩn trương». Vợ Chồng chúng tôi ôm hôn tạm biệt nhau, trong quang cảnh mưa phùn dầy đặc, mờ mịt nhẹ nhàng rơi không ngớt theo luồng gió Bấc, phủ trùm vạn vật thung lũng K5, Trại Tân Lập.
Tối hôm đó trong pḥng giam, Tôi lấy 2 cái đùi gà, 2 chiếc âu cánh gà, và xé 2 cái lườn gà ra nhiều miếng, rồi đong cơm nếp thành từng chén một, đem biếu anh Đội trưởng, 2 người bạn nằm kế bên, và 3, 4 bạn đă từng cho Tôi quà «thăm nuôi» của họ. Chỗ cơm nếp và những phần c̣n lại của con gà, Tôi ngồi chén một bữa thật no nê khoái khẩu. Lúc ngừng ăn, nh́n lại thấy chỉ c̣n chút ít, vừa đủ cho bữa điểm tâm sáng hôm sau.
Xem tiếp ...
-
[B]Chương 27 :KẾT QUẢ CÁCH MẠNG XĂ HỘI của Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam[/B]
Mùa mưa lũ năm 1980 tại Thanh Phong đă làm gián đoạn lưu thông giữa Trại và bên ngoài nhiều lần, mỗi lần lâu từ một tuần lễ đến 10 ngày. Ban Hậu Cần không nhận được tiếp tế đều hoà đúng kỳ hạn, nên trong những dịp này cả Trại cùng chịu thiếu đói như nhau. Cán bộ K2 phải ăn ngày 2 bữa cháo độn khoai tây. Anh em Tù chỉ được phát thực phẩm mỗi ngày một lần vào buổi sáng trước khi đi lao động. Mỗi phần ăn dành cho cả ngày được khoảng chục củ khoai tây luộc to bằng trái trứng gà.
Đa số anh em Tù nhờ có Bưu kiện tiếp tế của gia đ́nh gửi hàng tháng để tích trữ, nên vẫn đầy đủ ngày 3 bữa no nê. Chỉ tội cho các bạn không có tiếp tế thiếu đói nặng phải cải thiện linh tinh, nhưng không thấy Cán bộ làm khó dễ. Quản giáo Đội cũng thông cảm, trong mỗi buổi lao động thường cho 2 người lén lội qua sông đào trộm sắn non của Trại đem về nấu cho Quản giáo và Cảnh vệ ăn no tại chỗ, anh em Tù trong Đội cũng được chia phần “bồi dưỡng” chút đỉnh, nên vui vẻ cả làng không ai báo cáo ai. Những người có dư giả nhường phần “bồi dưỡng” của ḿnh cho các bạn thiếu thốn, để bầy tỏ t́nh tương thân tương ái “miếng khi đói bằng gói khi no”.
Sau nhiều cơn hoạn nạn thiên tai, Cán bộ và Tù đă có dịp cùng nhau chia sẻ ngọt bùi thiếu đói, nên t́nh cảm cư xử với nhau đổi khác hẳn. Cũng nhờ thế, không khí chuẩn bị mừng đón Tết Tân Dậu 1981 có vẻ rôm rả đầm ấm hơn năm trước. Cán bộ mạnh dạng xin Tù cho quần áo Trại phát không dùng, đem đi đổi lấy thịt chó về vui nhậu trong 3 ngày Tết.
Ngược lại, Tù cũng nhờ Cán bộ đem quần áo đi đổi giùm lấy gạo nếp đậu xanh và trứng gà, để tăng cường các món ăn đầu năm của ḿnh thêm phần phong phú. Việc này thực hiện được, nhờ quần áo Nhà Nước phát cho Tù 6 tháng một bộ không may pha lộn 2 mầu xanh trắng như hồi c̣n ở Trại Tân Lập, không đóng dấu ám hiệu Trại giam trước khi phát, vải nhuộm toàn một mầu xanh chàm đồng bào Thái ở gần Trại có thể dùng được không trở ngại ǵ.
Trong 2 Đội Rau Xanh, có 1 Đội gồm toàn các Tuyên úy Quân đội, Đại tá và anh em gốc Chiến tranh Chính trị, được đặt tên là Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ. Đội này, ngoài việc trồng rau c̣n phải dàn dựng tập dượt các chương tŕnh Văn Nghệ. Buổi thử lửa tŕnh diễn đầu tiên vào dịp mừng Lễ Độc Lập 2 tháng 9 thành công rất mỹ măn, nên vào ngày mồng 3 Tết Tân Dậu 1981 Phân trại K2 tổ chức “xuất quân Thi Đua đầu năm” với một chương tŕnh Văn Nghệ lưu động, thúc đẩy tinh thần anh em lao động rất hào hứng. Có múa Lân, có toán Nhạc nhẹ và Ca sĩ lần lượt đến từng khu vực lao động tŕnh diễn giúp vui cho anh em hăng hái xông pha phát bụi rậm cỏ tranh cỏ bông lau, c̣ng lưng cuốc đào đất bỏ hom trồng khoai ḿ trên sườn núi hai bên quăng đường dài 4 cây số bên kia sông hướng đi tới Xóm Hoán Bù.
Có những bài hát của miền Nam sau 30-4-1975 bị cấm v́ Cộng sản Việt Nam coi là Nhạc Vàng phản động, nhưng thấy Ban Văn Nghệ vẫn hoà tấu không lời ca cho anh em thưởng thức. Anh em thích thú hoan hô nhiệt liệt và rất ngạc nhiên không biết v́ sao Ban Văn Nghệ giám liều lĩnh đến thế. Trong giờ nghỉ lao động ở trong trại, Tôi t́m gặp Linh Mục Tuyên úy Đội trưởng Rau Xanh kiêm Văn Nghệ để hỏi, Ngài cho biết:
“-Mọi tiết mục trong chương tŕnh đều phải tŕnh Cán Bộ Quản Giáo duyệt trước, ḿnh nói là nhạc Liên Xô và nhạc Cu Ba, họ hân hoan gật đầu ngay. Họ đâu có biết khỉ khô Ất Giáp ǵ nhiều về ca nhạc ngoài mấy bài hát do Đảng và Nhà Nước nhồi vào sọ hàng ngày. C̣n anh em chúng ḿnh chắc chắn không ai đi tố cáo nên chẳng có ǵ để mà sợ.”
Để tới “hiện trường lao động thi đua đầu năm” Con Gà Mới (Tân Dậu), mọi người phải đi theo con đường từ khu trại giam qua Đội Gạch bên đồi mía, xuống chân đồi băng qua sông chỗ khúc cạn ngập ngang đầu gối. Ḍng nước lúc nào cũng chẩy rất xiết, ḷng sông đầy sỏi đá rêu bao trơn trợt, anh em phải nắm tay nhau kẻ trước người sau ḍ đi từng bước một. Tội nghiệp cho các Bạn đến phiên trực phải vác các bó cuốc ra hiện trường cho Anh Em dùng, thật vất vả. Nếu lỡ trợt chân bị nước cuốn băng đi cả chục mét, khi gượng đứng lên được th́ bị ướt sũng từ đầu đến chân chẳng khác nào tắm gội không cởi bỏ quần áo.
Mỗi Đội được giao khoán phát quang đào hố bỏ hom trồng khoai ḿ (sắn) trên một khoảng đất bề dài 1 cây số, sâu vào 2 bên lề chừng 200 mét dọc theo con đường đi Xóm Hoán Bù. Đội nào làm xong trước nhất được thưởng mỗi người 1 kí lô sắn “bồi dưỡng”. Dĩ nhiên Đội các bạn trẻ bao giờ cũng dành phần thắng lợi, Đội chúng tôi già yếu chỉ cố gắng làm cho không bị chỉ trích chây lười là tốt rồi.
Nhưng cũng may trong kỳ “thi đua” này Trại đặt ra một biệt lệ, phát “giải thưởng bồi dưỡng” 5 cây mía cho cá nhân nào được Đội trưởng ghi nhận là “lao động năng nổ vượt chỉ tiêu” trong ngày. Đội trưởng, Đội phó và Thư kư Đội chúng tôi bàn luận với nhau rồi cho anh em biết là, mỗi ngày sẽ tŕnh danh sách 5 người “lao động xuất sắc” để thay phiên nhau lănh thưởng về chia đều cho cả Đội. Anh em phải kín đáo âm thầm tiếp tay cho các “anh hùng lao động” này hoàn thành “vượt chỉ tiêu” tối thiểu từ 5 đến 7 hố sắn nhiều hơn những người khác. Anh em vui vẻ “nhất trí”, nhờ vậy ngày nào toàn thể Đội chúng tôi cũng có mía “bồi dưỡng”.
Một hôm khi đang phát bụi rậm trong buổi lao động sáng, Tổ chúng tôi gặp phải một tổ ong vàng bay toả ra đốt túi bụi, anh em bỏ chạy tán loạn la ôi ối. Cán bộ Quản giáo thấy vậy chạy đến vơ nắm cỏ tranh bện làm một nùi đuốc, đốt lên đem đến chỗ bụi rậm hun xua ong bay tản đi chỗ khác, rồi vạch t́m lấy tổ ong đưa cho chúng tôi.
Chúng tôi xé tổ ong chia nhau mỗi người một mảnh, lấy một ít xáp và ong nhộng chà lên những chỗ bị ong chích để giải độc. Chỗ c̣n lại, gồm cả ong nhộng và mật bỏ vào miệng ăn tươi rất bùi béo ngọt. Từ đó về sau mỗi khi đi phá bụi rậm, anh em lại mong được gặp tổ ong càng lớn càng tốt để có nhiều mật tươi ăn cho nó bổ.
Cũng may, chúng tôi gặp phải tổ ong cỏ hay ong đất ǵ đó, mầu vàng như nghệ thân ngực to bằng hột đậu xanh khúc bụng to dài hơn hột đậu đen một chút, thế mà chúng đốt đă nhức nhối đau rát y như bị phỏng lửa chịu không nổi. Nếu gặp nhằm tổ ong Ṿ Vẽ (ḿnh vằn đen vàng) nọc độc của nó làm cho bị nóng sốt mê man xưng phù, nếu không có thuốc giải cứu kịp thời có thể vong mạng như chơi. Thật là hú viá!
Trong rừng núi Trường Sơn thời gian giao mùa hết Đông sang Xuân, sáng sớm đi làm sương đêm đọng đầy trên cỏ đụng vào lạnh cóng, trưa nắng chói chang lao động mau mệt vă mồ hôi khô cổ họng, xế chiều vừa tới giờ nghỉ lao động mặt trời đă vội vă lỉnh xuống phía sau các đỉnh núi cao rừng rậm khí lạnh toả ra rất nhanh. Cả buổi lao động lam lũ, bụi đất bụi cỏ bám đầy từ đầu đến chân, người đẫm mồ hôi, không tắm th́ dơ bẩn ngứa ngáy sinh ghẻ lợ, c̣n tắm th́ phải cởi quần áo lội xuống nước lạnh rùng ḿnh rất dễ bị nhuốm bệnh cảm sổ mũi nhức đầu mệt mỏi bải hoải, nhưng nếu không bị sốt cao độ chẳng bao giờ được nghỉ lao động. Đằng nào cũng khổ, nhưng nhu cầu giữ vệ sinh là ưu tiên số một nên phải liều xuống tắm để cho cơ thể tự thích ứng lần, cuối cùng rồi quen dày dạn chẳng sao.
Một hôm giữa buổi lao động chiều chúng tôi đang ngồi bên lề đường nghỉ giải lao, có 3 người đàn bà Kinh đứng tuổi mặc váy đen áo cánh nâu chít khăn đen mỏ quạ đă bạc mầu đi ngang. Bỗng có một người đang đi ngồi thụp xuống ôm đầu nhăn nhó mặt mày xanh lợt, anh Đại tá Trần văn Thăng (gốc An ninh Quân đội) tới gần hỏi:
“-Bà làm sao vậy?”
Bà ấy trả lời:
“-Tự nhiên Em thấy choáng váng chóng mặt nhức đầu quá!”.
Anh Thăng lấy hộp sáp dầu Cù Là hiệu Macshu của Singapore (Dân chúng miền Nam ưa dùng) đưa cho Bà ấy bôi vào 2 bên thái dương trán và sau gáy để trị trúng gió. Sau khi bôi được chừng vài phút, Bà ấy tỉnh hẳn ra mặt mày hồng hào trở lại, cám ơn rối rít rồi đứng lên đi tiếp cho kịp 2 Bà bạn kia.
Một lúc sau, một trong 3 người đàn bà quay trở lại chìa tay xin chút thuốc trị trúng gió. Anh Thăng nói:
“-Hồi năy đă cho Bà rồi!”.
Bà ta lư nhí nói:
“-Thưa, lúc năy anh cho Chị kia chớ không phải Em”.
Anh Thăng lấy hộp sáp Cù là mở nắp thấy c̣n rất ít dính đáy hộp, bèn đưa luôn cho Bà ta và nói:
“-Chỉ c̣n có chút đỉnh thôi, Bà cầm lấy luôn để mà chia nhau xài”.
Bà ta ngước mắt ngạc nhiên lắc đầu nói:
“-Không dám, xin anh một tư dùng thử cho biết mùi thôi”.
Sợ nói chuyện lâu với thường dân Cán bộ lại buộc tội vi phạm Nội Quy trại th́ phiền, anh Thăng nói nhanh:
“-Tôi cho Bà luôn đấy, thôi đi đi kẻo Cán bộ rầy rà thêm phiền phức”.
[COLOR="#FF0000"]Mắt Bà ấy sáng rực lên gật đầu lia lịa cám ơn rối rít, cầm hộp xáp Cù là chạy vội đi khỏi chỗ chúng [/COLOR]tôi.
[COLOR="#800080"]Cảnh tượng này khiến tất cả anh em chúng tôi vô cùng xót xa thương cho số phận người dân sống trong Thiên đường Xă hội Chủ nghĩa bấy lâu nay tại miền Bắc Việt Nam.[/COLOR]
C̣n tiếp...