Thêm hình ảnh về trại Galang -Indonesia
[CENTER][IMG]http://i41.tinypic.com/mm3qec.jpg[/IMG]
[IMG]http://i44.tinypic.com/zufr60.jpg[/IMG]
[IMG]http://i44.tinypic.com/1z1fc7b.jpg[/IMG]
[IMG]http://i41.tinypic.com/5l2ici.jpg[/IMG][/CENTER]
" Buồn Lâu Bi Đát " Trai Bi Đông / Malaysia
[CENTER][IMG]http://i40.tinypic.com/6hlxlu.jpg[/IMG]
[IMG]http://i44.tinypic.com/34hdj83.jpg[/IMG]
[IMG]http://i41.tinypic.com/358qhqv.jpg[/IMG]
[IMG]http://i44.tinypic.com/jt14dc.jpg[/IMG][/CENTER]
Trại tị nạn Palawan - Phillippines.
[CENTER][IMG]http://i41.tinypic.com/m7ci1i.jpg[/IMG]
[IMG]http://i41.tinypic.com/o0xull.jpg[/IMG]
[IMG]http://i39.tinypic.com/bje3h5.jpg[/IMG][/CENTER]
Quang cảnh 1 trại tị nạn CS ở Thailand.
[CENTER][IMG]http://i42.tinypic.com/2nhnqt2.jpg[/IMG]
[IMG]http://i44.tinypic.com/2vvkoc7.jpg[/IMG][/CENTER]
Tác giả của loạt bài này ghi là " Còn tiếp" , nhưng chừng nào họ TIẾP thì không biết .
Vậy mời các ban tiếp nối bằng những tấm hình trại Tị Nạn mà các bạn đang có
Tigon
HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT ( Pulau Bidong )
[CENTER][IMG]http://i40.tinypic.com/2aq62f.jpg[/IMG]
[B][SIZE=1]Palau Bidong [/SIZE][/B][/CENTER]
LTS: Bài sau đây là một phần trong cuốn sách “Pulau Bidong miền đất lạ” của Võ Kỳ Điền. Đây là hồi ký của một thuyền nhân Việt Nam đã được dừng chân ở hải đảo này. Cuốn sách dày 420 trang được in và xuất bản lần thứ nhất từ năm 1992 do nhà xuất bản Xuân Thu phát hành.
Chúng tôi xin được phép trích một đoạn ngắn trong chương 12 “Hải Đảo Buồn Lâu Bi Đát” của cuốn hồi ký này để góp thêm tài liệu cho công việc lên án sự triệt hạ Tượng Đài kỷ niệm Thuyền Nhân mà chính quyền Mã Lai, do áp lực của CSVN, đã phá hủy.
Danh từ “Hải Đảo Buồn Lâu Bi Đát” mà thuyền nhân ở Pulau Bidong đọc trại đã hàm xúc những buồn đau mà những Thuyền Nhân VN phải chịu đựng. Rất mong tác giả và nhà xuất bản lượng thứ cho việc trích dẫn này.
Trong hồi ký “Pulau Bidong Miền Đất Lạ”, tác giả Võ Kỳ Điền mô tả lại chuyến vượt biên của ông và sau những gian nan, khổ cực trên biển, tác giả đã tới được bờ phía Đông của Tây Mã Lai, vùng Marang thuộc Pulau Trengganu, một tỉnh mà đảo Pulau Bidong thống thuộc. Sau một thời gian, tác giả được chuyển đến Pulau Bidong, nơi đây cơ quan HCR của Liên Hiệp Quốc đã cùng chính phủ Mã Lai Á tổ chức thành nơi tiếp cư cho tổ chức HCR của Liên Hiệp Quốc. Mọi thuyền nhân được chuyển đến đây để chờ được thanh lọc và được phỏng vấn để đến nước thứ ba. Cảnh sống tại Pulau Bidong của thuyền nhân VN trên đảo này đã được tác giả thuật lại một phần qua lối viết tự sự.
Quí độc giả có thể tìm được một phần hình ảnh vui buồn, hy vọng, thất vọng của những người Việt đã chấp nhận tất cả, kể cả mạng sống, để có được Tự Do.
***
Tôi còn đứng ỳ ra trên boong. Đảo Dừa chỉ còn là một khối xám nhạt ở chân trời.
Trời thì cao xa thăm thẳm giáp mí với sóng nước gờn gợn xanh ngắt một màu. Nắng sáng rực rỡ loang loáng trên mặt biển xanh.
Ba chiếc ghe Mã lướt sóng phăng phăng chiếc sau nối đuôi chiếc trước chạy một dọc thẳng hàng.
Không còn gì hết, tôi thẫn thờ ngồi xuống một bên be ghe. Nắng nóng như thiêu như đốt, ghe lại không có mái che nên chỉ trong chốc lát, nghe như muốn bốc khói. Phải kiếm một tờ báo, một cuốn vở học trò để che cho đỡ nóng.
Ghe còn rất mới. Sớ gỗ còn tươi nước sơn. Đinh vít chưa có dấu rỉ sét. Trên boong và trong khoang đều rất sạch sẻ, đồ đạc xếp ngăn nắp chỉnh tề. Có điều rất ngộ là Mã Lai là xứ nóng mà từ tài công đến thủy thủ đều mặc âu phục, quần dài và áo tay dài cài khuy. Họ nói được những tiếng Anh thông thường.
Những đợt sóng lớn chồm lên, nước văng tung tóe, ghe lắc lư mạnh. Chiêu ói đầu tiên, mắt xanh xám, rồi như bắt chước nhau, thằng Dân gì đó, Sơn ói liên tu bất tận. Phía bên kia, vợ Quách Linh Hoạt cũng ụa liên hồi, mấy đứa nhỏ ngồi bu xung quanh mặt mày bơ ngơ báo ngáo. Duyên cũng bắt đầu váng vất, nàng bèn bồng Bi lên phòng lái ngồi chung với mấy người già yếu. Trên đó có mái che và trải chiếu. Bi nằm ngủ ngon lành…
Ghe đi dọc theo bờ biển Mã Lai. Nhìn lên bờ về hướng trái thấy núi non xanh đen trùng điệp nối tiếp nhau không dứt, bát ngát mênh mông. Đúng là xứ của núi cao rừng sâu. Ghe có lúc đi gần bờ, tôi rán nhìn thấy được những cao ốc, dinh thự của một thành phố lớn y như một thành phố Âu Mỹ lẩn khuất trong những rặng cây xanh.
Có phải đây là Kuala Trengganu mà người ta thường nhắc tới? Những trụ điện cao thế băng ngang qua đồi núi, lẩn khuất len lỏi trong rừng sâu…
Ghe vẫn nổ máy giòn giã tiếp tục cuộc hành trình dằng dặc.
Một anh thủy thủ buồn tình lấy dây câu ra câu cá. Đó là một miếng ván nhỏ hơi dài hình chữ nhựt dùng để quấn dây. Lưỡi câu lớn có cột một chùm lông gà trắng. Dây câu được tuôn ra hằng trăm thước bề dài, kéo lướt trên sóng.
Vì ghe chạy quá nhanh nên nó không chìm xuống được. Tôi nhìn cái nhóm lông gà trắng lẫn trong bọt sóng mong có một con cá rượt theo đớp mồi. Sợi dây câu lớn bằng cọng bún, chắc dành để câu cá lớn, giữa biển khơi đâu có cá nhỏ…
Ngồi chờ hoài không thấy cá, anh chán nản để dây câu móc vào be ghe, đứng lên mở nắp hầm dưới khoang lấy ra những xắp màn ny lông day màu xanh nước biển, quảng cáo với chúng tôi, “Ở Bidong cần loại này để che nóc lều, qua đó mua mắc lắm, bây giờ anh bán rẻ cho.” Mời mọc hoài cũng chẳng ai mua.
Cá cũng không cắn câu mà hàng cũng không ai mua, thua buồn anh ngồi xuống lấy thuốc ra hút.
Lúc đó từ trong khoang bước ra một người dân sự độ bốn mươi tuổi, có mang súng cồm cộm bên hông. Cũng giống như bất cứ anh công an nào, anh ta nói úp úp mở mờ mình không phải là công an. Anh ăn mặc chải chuốt, nón trên đầu, giày dưới chân, khăn vắt túi, dây nịt khoen vàng, viết vắt ở túi, viết cầm tay ghi ghi, chép chép.
Đúng là một nhân vật quan trọng. Ghi chép hồi lâu chừng cũng chán, anh ta móc túi lấy ra một cọc tiền Mã Lai dầy cộm, đếm đi đếm lại. Tụi tôi trố mắt ra nhìn. Mấy ngón tay anh lanh lẹ hết sức, lật lờ giấy bạc kêu xoành xoạch. Tay này mà chia bài gian lận thì ai nhìn cho kịp...
Xong màn biểu diễn, anh gạ tụi tôi có đồng hồ bán anh mua. Chiêu đương cần tiền vội cởi ngay cái đồng hồ cũ đang đeo. Mới có một tháng đi biển, cái đồng hồ tuy còn chạy nhưng xác xơ. Hơi nước đóng mờ trên mặt kiếng, nước mặn ăn loang lổ vỏ ngoài.
Vài ba người Tàu cũng đưa ra vài cái. Anh công an coi tới coi lui rồi chê. Anh đòi các hiệu nổi tiếng như Oméga, Seiko, Orient... Chiêu tưởng là không bán được tính đeo lại nào ngờ nó lại chịu mua, trả giá mười đồng. Tất cả những cái khác nó đều mua hết...
Ghe đi được ba tiếng đồng hồ thì Bidong hiện ra trước mặt.
Giữa biển cả sóng gió chập chùng một hòn đảo nhỏ xanh rì nổi lên chơ vơ, hiu quạnh. Có một đảo nhỏ bên cạnh nép kế bên như con rùa con bò kế bên con rùa mẹ. Pulau Bidong lớn hơn đảo nhỏ này nhiều nhưng so với Kapas thì Bidong nhỏ xíu. Từ đây nhìn vào bờ không còn thấy những rặng núi xanh xanh, dầu chỉ là lờ mờ. Chỉ còn trời và nước. Nó xa cách đất liền, trơ trọi giữa biển khơi. Cũng giống y Côn Đảo của Việt Nam mình!
Mọi người xúm nhau mà ngó. Bidong đây rồi. Cái nơi tìm kiếm trên cả tháng nay.
Nắng lúc năm giờ chiều vẫn còn chói chang. Niềm hân hoan của mọi người trên ghe cũng cũng như ánh nắng lung linh trên sóng. Gần một tháng ở đảo vắng xa cách hoàn toàn thế giới bên ngoài, bay giờ được gặp gỡ nhiều người, biết được nhiều việc, tiếp xúc được nhiều nơi... chắc là thú vị lắm. Phong cảch rõ dần, rõ dần.
Đảo là một khối hình tròn, giữa có núi đất. Rừng cây chỗ dậm, chỗ lợt. Những thân cây vì ở quá xa nhìn thấy nhỏ xíu đứng song song nhau trong khối lá xanh rì. Những chỗ lợt là những bãi trống loang lổ vì bị cháy rừng hay bị đốn phá bừa bãi… Có những đám khói xám trắng bốc lên ở đỉnh núi. Ở dưới chân núi, sát mé biển cũng một rừng dừa. Những thân dừa suông đuột vàng lên dưới nắng.
Thiệt, cái xứ Mã Lai chỗ nào cũng toàn là dừa. Một cầu tàu nhỏ bằng cây chạy dài ra ngoài mé nước. Sơn níu lấy tay tôi:
- Anh coi kìa, chỗ nào cũng có lều...
Còn tiếp...