Trích trong " Từ Phạm văn Đồng đến Thành Đô hai công ham bán nước.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, không c̣n ai che chỡ, giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lại lần nữa t́m về nương náu dưới chiếc bóng của đàn anh Trung Quốc. [B]Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh[/B] và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lư Bằng thực chất là lễ cam kết một loại “công hàm Phạm Văn Đồng” khác. Cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ phân tích một cách chi tiết các diễn tiến dẫn tới sự kiện Thành Đô trong hồi kư của ông ta. Không ai, ngoài Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh, biết chính xác nội dung hội nghị bí mật Thành Đô nhưng qua thái độ nhu nhược và phản ứng yếu hèn của giới lănh đạo CSVN trước các hành động chiếm đảo, bắn tàu, cắt dây cáp, giết người tàn nhẫn của hải quân Trung Quốc và mới đây bắt bớ hàng loạt người Việt gióng lên tiếng nói bất b́nh, cho thấy nội dung bán nước trong “công hàm Thành Đô” hẳn c̣n trầm trọng và chi tiết hơn cả “công hàm Phạm Văn Đồng”.
Trong lễ kư kết thỏa hiệp chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài Bắc Kinh, Giang Trạch Dân không quên nhắc nhở đến các cam kết cũ và xác định phương pháp mới trong quan hệ Việt Trung như c̣n ghi lại trong Diễn Đàn Kinh Tế Việt Trung: “Hoan nghênh các đồng chí Việt Nam sang Trung Quốc hội đàm với chúng tôi. Các đồng chí là những người thuộc thế hệ lănh đạo lăo thành của Việt Nam, cũng là những người bạn lăo thành quen biết của những người thuộc thế hệ lănh đạo lăo thành của Trung Quốc; điều đáng tiếc là đă mười mấy năm chưa được gặp nhau. Tôi và đồng chí Lư Bằng một hai năm gần đây tiếp nhận công tác của bậc tiền bối lăo thành. Thật đúng là ‘trên sông Trường Giang, ngọn sóng sau đẩy ngọn sóng trước, trên đời lớp người mới thay lớp người cũ’. Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai nước do những người lănh đạo thuộc thế hệ lăo thành xây dựng nên.”
Tại sao lănh đạo Trung Quốc chấp nhận sự quy phục của lănh đạo CSVN? Bởi v́, (1) là thế hệ chứng kiến sự tranh giành quyền lực giữa các lớp đàn anh, Giang Trạch Dân biết tham vọng quyền lực đă ḥa trong mạch sống, hơi thở, máu thịt của Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và giới lănh đạo CSVN, (2) không giống như thời Liên Xô chưa sụp đổ, lần này đảng CSVN không c̣n một con đường thoát nào khác, nhưng ba điểm sau quan trong hơn, (3) Việt Nam là hành lang chiến lược trong vùng Nam Á, (4) vào thời điểm 1990. đối tượng cạnh tranh của Trung Quốc không c̣n là Việt Nam mà là Mỹ, Đức, Nhật và (5) mục tiêu bành trướng của Trung Quốc cũng không phải chỉ là Hoàng Sa Trường Sa mà là cả vùng Thái B́nh Dương.
Đọc hồi kư của Trần Quang Cơ để thấy mặc dù nhân loại sắp bước vào một thiên niên kỷ mới, nhận thức về chính trị và bang giao quốc tế của các lănh đạo Cộng Sản Việt Nam vẫn c̣n ngây thơ đến tội nghiệp làm sao. Năm 1990, khi Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu như những cánh bèo tan tác ngoài cửa biển mà các lănh đạo Cộng Sản Việt Nam vẫn c̣n nghĩ đến việc liên kết với Trung Quốc chống đế quốc Mỹ: “Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên c̣n nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu” và “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xă hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu đế quốc xoá bỏ chủ nghĩa xă hội, phải cùng chống đế quốc.”
Cũng vào thời điểm này, Đặng Tiểu B́nh đă viếng thăm và kư các thỏa hiệp kinh tế chính trị với các quốc gia tư bản như Mỹ (1979), Anh (1984) cũng như mở rộng hợp tác kinh tế với Đức vừa thống nhất và cựu thù Nhật Bản nhưng các lănh đạo CSVN c̣n mơ mộng Trung Quốc sẽ thay mặt Liên Xô giương cao ngọn cờ quốc tế vô sản. Đặng Tiểu B́nh không có mặt trong hội nghị bí mật Thành Đô dù phía Trung Quốc đă hứa một phần v́ y chưa nguôi cơn giận chiến tranh biên giới nhưng phần khác cũng v́ Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh không xứng đáng là đối tượng thảo luận trong tầm nh́n của y về tương lai Trung Quốc và thế giới, nói chi là số phận Việt Nam. [B]Sau “công hàm Thành Đô” và tái lập quan hệ giữa hai đảng vào ngày 7 tháng 11 năm 1991, các lănh đạo CSVN thay phiên nhau triều cống Trung Quốc. Lê Đức Anh sang Trung Quốc 28 tháng Giêng năm 1991, Đỗ Mười và Vơ Văn Kiệt sang Trung Quốc 5 tháng 11 năm 1991 và gần như hàng năm các lănh đạo CSVN luân phiên nhau sang Trung Quốc để lập lại lời hứa phục tùng.[/B]
Hội nghị sát nhập VN vào China.
Hội Nghị Sát Nhập Việt Nam vào China : Tỉnh hay Khu Tự Trị ?
[B](Ninh Cơ ghi lại. Trích tài liệu chép lại từ băng ghi âm cuộc họp mật giữa đại diện Tổng Cục T́nh Báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam để lưu trữ, được bảo quản theo chế độ tuyệt mật).[/B]Cái ǵ chờ đợi cũng đă đến, khi tổ chức Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời liên quan đến Việt nam. [B]Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng BT Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt nam [/B]và ông Giang Trạch Dân Tổng BT và ông Lư Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành đô.
Thưa các đồng chí.
Trong mấy ngày qua, ta đă cùng nhau thảo luận nhiều vấn đề, đạt được đồng thuận về căn bản, tuy không khỏi có sự tranh biện về tiểu tiết. Khép lại, ta có thể hài ḷng khẳng định hội nghị đă thắng lợi và thắng lợi lớn. Xin các đồng chí hoan hỉ cạn chén.
Trong lời phát biểu *kết thúc hội nghị, Giang Trạch Dân nhấn mạnh : « Những ǵ được đưa ra bàn ở hội nghị chung quy chỉ là những điều đă được đề cập nhiều lần từ nhiều năm trong những cuộc gặp gỡ các cấp tham mưu và cả cao cấp ». Với tư cách Chính Uỷ được đề cử ra chủ tŕ hội nghị tôi xin tóm tắt vài điều cần thiết.
Trước hết, hội nghị nhất trí cao về quan điểm không có và không hề có chuyện China thôn tính Việt Nam. China không có nhu cầu thôn tính nước nào. Các nước lân bang đều nghèo. Họ cần đến China hơn là China cần đến họ. Những cái họ có đều ở dạng tiềm năng dưới đất hoặc ngoài biển. Không có China giúp đỡ th́ chẳng khai thác được. Trong giai đoạn phải dồn toàn lực cho phát triển kinh tế, mà Đặng Tiểu B́nh lănh tụ đă vạch ra, mọi sự đèo bồng đều vô nghĩa. Chúng kiềm hăm bước tiến vĩ đại của China vĩ đại. Thế mà ở Việt Nam lại có những luồng dư luận như thế đấy. Nào là China bá quyền, nào là China bành trướng. Thối lắm, thưa các đồng chí, không ngửi được.
Bọn dân chủ ở Việt Nam đă hô hoán rầm rĩ rằng cuộc vạch lại biên cương giữa China và Việt Nam là tranh chấp biên giới. Trong khi đàm phán, tất nhiên có những điều hai bên phải nhân nhượng nhau. Có chỗ lồi ra, có chỗ lơm vào, ở bên này hay bên kia. Nhưng, đó là kết quả của những thương thảo ṣng phẳng, thuận mua vừa bán. Các đồng chí Việt Nam thấy chúng tôi nói thế, lại chỉ thanh minh mới chán. Như, Lê Thứ Trưởng (tức là ông Lê Công Phụng) trả lời phỏng vấn : « Thác Bản Giốc ta cứ tưởng là của ta, bạn cũng không bảo là của bạn.
Đo ra mới biết là của ta chỉ có một phần ba. V́ t́nh hữu nghị với ta, bạn cho ta hưởng một nửa ». Nói thế là tốt. Nhưng vẫn cứ là thanh minh. Việc ǵ mà phải là thanh minh cơ chứ ; Với bọn phản động chuyên gây rối à ; Cứ thẳng tay trấn áp, bịt cái miệng chó của chúng lại. Cứ lừng chừng, thiếu kiên quyết. Cứ hữu khuynh nhân nhượng. Nhân nhượng là chết đấy. Phải quét cho bằng sạch, không thương xót bọn dân chủ. Không cho chúng được đàng chân lên đàng đầu. Vùi chúng xuống đất đen, không cho chúng ngóc đầu dậy. Nhưng, cái đó sẽ không c̣n là vấn đề trong tương lai.
Việc tiêu diệt bọn dân chủ ḍi bọ sẽ không c̣n là việc của riêng các đồng chí Việt Nam. Nó sẽ là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta. Thưa các đồng chí. Hội nghị đă thành công là nhờ nó gạt được ra những chuyện lặt vặt vô bổ, đang là đề tài thời sự, để tập trung vào đại sự : bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai. Tương lai có thể chưa tới ngay, nhưng lại có thể rất gần. V́ thế, ta phải có viễn kiến và phải có sự chuẩn bị. Hợp kết China Việt Nam có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển của tổ quốc. Với tư cách tham mưu cho cấp cao hai bên, trong hội nghị này chúng ta bàn thẳng vào những phương án phát thảo những bước tiến hành cụ thể, những công việc cụ thể trong công tác chuẩn bị. Nào, xin cạn chén một lần nữa, mừng thắng lợi của hội nghị lịch sử này.
Trong t́nh thế hiện nay, Việt Nam không c̣n lựa chọn nào khác, không c̣n con đường nào khác hơn là trở về với tổ quốc China vĩ đại. Đi với Mỹ chăng ? Th́ các đồng chí chạy đi đâu ? Trở về với tổ quốc th́ các đồng chí mới tiếp tục tồn tại như những ông chủ duy nhất trước hiểm hoạ của bọn ḍi bọ đang tích cực phản công nhằm tống cổ các đồng chí ra khỏi chỗ ngồi của ḿnh. Hăy tưởng tượng một ngày nào đó, các đồng chí không được ngồi ở bàn giấy trong công thự, mà phải đi lang thang ngoài đường kiếm việc làm. Thật khủng khiếp. V́ thế, chúng ta phải chiến đấu hết ḿnh cho sự tồn tại của chúng ta, cho con cháu chúng ta, tương lai của chúng ta, của con cháu chúng ta. Quyết không để lọt vào tay kẻ khác. Lũ dân chủ ḍi bọ ấy có cả ở China.
Tôi thừa nhận điều đó. Nhưng chúng tôi thẳng thắn trấn áp chúng thắng lợi. Nhưng ở Việt Nam t́nh trạng có khác. Chúng hung hăn hơn, ĺ lợm hơn, là do các đồng chí thiếu kiên quyết. [B]Nếu ở China có một Thiên An Môn, th́ tại sao Việt Nam không có một cái tương tự ; Tôi xin bảo đảm với các đồng chí rằng, China sẽ tận t́nh chi viện cho các đồng chí, một khi có sự biến đe doạ quyền lợi của đồng chí, để bảo vệ các đồng chí. China không thiếu xe tăng dĩ chí trong vài Thiên An Môn [/B]... Các đồng chí cứ hỏi Nông đồng chí (tức ông Nông Đức Mạnh) xem Hồ đồng chí (tức là Hồ Cẩm Đào) đă hứa hẹn ǵ trong cuộc gặp gỡ cấp cao vừa rồi. Nhưng đó là trong t́nh huống hiện nay. Trong tương lai th́ hai nước đă là một, th́ sẽ không phải như vậy.
Việc Việt Nam trởvề với tổ quốc China vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm th́ muộn. Mà sớm th́ hơn muộn. Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận huyện của China, là một nhánh của cây đại thụ China. China và Việt Nam là một. Đó là chân lư đời đời. Đó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là ông HCM) trong lễ tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản China. Hồ đồng chí tôn kính c̣n dạy : « China, Việt Nam như môi với răng. Môi hở th́ răng lạnh ». Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể. Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Đức Mạnh) từng tự hào nhận ḿnh là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gỡ các đại biểu trong Quốc Vụ Viện. Mà dân tộc Choang là ǵ ; Là một bộ phận của đại gia đ́nh các dân tộc China.
Trong thời đại hiệnnay th́ thế giới được tái phân chia sau đệ nhị thế chiến, th́ Hoa Kỳ đă mất sự độc tôn trong sự trỗi dậy bất ngờ của tổ quốc chúng ta, th́ sự sát nhập trở lại của Việt Nam và toàn bán đảo Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu. Thế nhưng chúng ta đều đă thấy, đă biết những biểu hiện lừng chừng, giao động lúc này lúc khác, trong ban lănh đạo đảng cộng sản Việt Nam muốn người dựa lưng vào China, người dựa hơn con hổ giấy Hoa Kỳ. Bây giờ đă khác. Sự lựa chọn chỉ c̣n có một. Và ở đây, các đồng chí Việt Nam tỏ ra có lựa chọn đúng. Ngày nay, China vĩ đại phải dành lại vị trí đă có của ḿnh. Có Việt Nam nhập vào, China đă vĩ đại lại càng thêm vĩ đại.
Thế giới hôm nay chỉ c̣n lại hai siêu cường. Đó là China và Hoa Kỳ. Con hổ giấy Hoa Kỳ. Những việc mà bây giờ chúng ta phải làm. Tôi xin nhấn mạnh lại lần nữa. Không phải bây giờ mới làm, nhưng làm chưa đúng, làm chưa đủ, th́ nay cần phải đẩy mạnh hơn nữa. Phải triển khai rộng hơn nữa là đè bẹp và tiêu diệt luận điệu tinh thần dân tộc vẫn c̣n tồn tại dai dẳng trong bọn kiên tŕ lập trường độc lập dân tộc. Đặc biệt trong đám trí thức và vài phần tử công thần chủ nghĩa trong tướng lĩnh. Cần phải tiêu diệt cả về tinh thần, cả về vật chất.
Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công này là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Đức Anh) người rất biết nh́n xa trông rộng. Tuy nhiên, lẫn vào đấy cũng vẫn có vài phần tử lừng chừng, giao động, chủ yếu do kém hiểu biết. Các đồng chí cần đả thông, bồi dưỡng thêm cho họ về lập trường, quan điểm và trường đảng các cấp. Mấy anh già sắp chết hay nói ngang th́ phải đe nẹt cho chúng biết rằng, một khi đă bị coi là chống đảng th́ chúng sẽ bị tước hết mọi tiêu chuẩn cao đang được hưởng, tất chúng sẽ im mồm. Đám trí thức lèo tèo mới là đáng ngại.
Tuy chẳng có trong tay cái ǵ, nhưng chúng có khả năng kích động tinh thần nhân dân để cản trở sự hợp nhất. Nhưng không lo. Mao chủ tịch đă dạy : « Trí thức khởi xướng được, nhưng không làm được. Chúng chỉ lép bép lỗ miệng. Thấy súng lên đạn là chúng rùng rùng bỏ chạy ». Đáng ngại là ở chỗ ấy, chỗ khởi xướng. Nhưng không đáng sợ cũng ở chỗ ấy. Ở chỗ bản tính trí thức, hăy lên đạn, hăy hô bắn thật to, đâu sẽ vào đấy. Lực lượng chủ yếu của chúng ta trong việc trấn áp bọn dân tộc chủ nghĩa là hai cánh quân. Về vật chất là công an, về tinh thần là truyền thông.
Công an sẽ được cungcấp mọi trang bị hiện đại nhất để đè bẹp mọi mưu toan đối kháng. Nhưng phải chú ư đến điểm này : Không được lạm dụng các phương tiện hiện đại. Chiếu cố những biện pháp truyền thống ít gây ồn ào, tránh những phản ứng quốc tế bất lợi. Truyền thông phải xừ dụng mọi phương tiện sẵn có. Tăng cường viết và nói hằng ngày hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập. Họ sẽ được hưởng mọi phúc lợi của người dân China hơn hẳn phúc lợi đang có. Họ sẽ không c̣n chuyện lủng củng vướng mắc về biên giới. Ngư dân được tha hồ đánh cá trên Biển Đông này cũng là của họ mà không c̣n phải lo lắng : v́ xâm phạm lănh hải, bị hải quân China trừng phạt. Người dân khi xuất ngoại sẽ được cầm hộ chiếu của một nước lớn mà thế giới phải kiêng nể.
Tuy nhiên, tôi đặc biệtlưu ư các đồng chí là phải tiến hành kín đáo, để mọi việc chuẩn bị diễn ra như b́nh thường, không nhận thấy được. Trong khi chưa được hợp nhất, trung ương chính phủ, cũng như các tỉnh chính phủ, tuyệt đối không lộ ư đồ. Thỉnh thoảng cũng phải cho phát ngôn nhân trung ương chính phủ nói dăm ba câu phản đối về chủ quyền Tây Sa và Nam Sa. Và cho phép các báo đăng vài bài chiếu lệ về biên giới và hải đảo với mọi « sự cố » xảy ra trên biển như vừa rồi. Cứ tiếp tục ám chỉ một nước ngoài nào đó, hoặc một tàu lạ nào đó, không rơ quốc tịch là được. Đừng quên xem thường các nhà báo. Họ là công bộc trung thành của ta. Thiếu họ không được. Hiện nay đang nổi lên sự phản đối China khai thác Bauxite ở miền Trung, ồn ào lắm, có vẻ hung hăng lắm. Nhưng là bề ngoài thôi. Chứ bề ở trong, bọn phản đối cũng thừa biết mọi sự đă an bày. Tiền đă trao th́ cháo phải được múc. Bộ Chính Trị quyết không bỏ kế hoạch này.
Nhất là đồng chíNông Đức Mạnh. Là chuyện sinh tử của đồng chí Nông Đức Mạnh nên đồng chí ấy rất cương quyết. Trong chuyện Bauxite, tôi thấy bên cạnh cái xấu lại có cái tốt đấy. Các đồng chí ạ ! Phải công bằng mà lập luận, một khi Việt Nam đă nhập vào China th́ vùng Tây Nguyên của Việt Nam là của chung nước ta. Chưa chừng, trên sẽ thay đổi kế hoạch. Ta không khai thác ở đấy nữa, mà chuyển sang khai thác, thực hiện ở Châu Phi. Bauxite của ta, ta để đấy dùng sau. Cũng như ta đâu có vội khai thác cả tỷ tấn Bauxite ở Quảng Tây. Nói để các đồng chí phấn khởi. Về thực chất, qua con đường ngoại thương, đầu tư, ta nắm Châu Phi trong nhiều năm nay rồi. Ta đă mua hết các chính quyền ở đấy. Cái đó gọi là quyền lực mềm. China đến sau Phương Tây và Hoa Kỳ, vậy mà chỉ trong ṿng 1 thập niên, ta đă quét sạch chúng khỏi đấy.
Ta c̣n chuyển dânḿnh sang Châu Phi, làm thành những vùng đất China trên lục địa đen kia nữa. Người China bây giờ có quyền nói : « Mặt trời không bao giờ lặn trên đất đai của tổ quốc ». Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương cho đến địa phương để họ thấy rằng sau hợp nhất, mọi vị trí quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chính sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô h́nh hành chánh chung của toàn quốc. Việc này rất quan trọng. Xin các đồng chí chớ coi thường. Lănh đạo từ trung ương cho đến địa phương có thông th́ dân mới thông. Nhân dân đă được giáo dục chu đáo trong nhiều năm, tinh thần tuyệt đối phục tùng lănh đạo. Nhưng nếu họ thấy cấp trên của họ giao động, tư tưởng bất thông th́ chính họ cũng sẽ giao động theo, trở thành mồi ngon cho những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. Thưa các đồng chí.
C̣n lại việc cuối cùnglà mô h́nh quản trị Việt Nam trong tổ quốc thống nhất. Tỉnh hay khu tự trị ? Chuyện này xin các đồng chí về nghĩ thêm, bàn thêm. Tỉnh th́ cũng như Quảng Đông, Quảng Tây. Về diện tích hơn kém không nhiều. Khu tự trị kiểu như khu tự trị Choang trong tỉnh Quảng Tây th́ lại quá nhỏ về vai vế. Nông đồng chí vốn rất e ngại sự chống đối trong nội bộ. Mà làm khu tự trị với ư nghĩa lớn hơn th́ lại vướng chuyện Tây Tạng. Bọn chó Đạt Lai Lạt Ma cũng đang xin tự trị đấy, mà trung ương không thuận. C̣n mấy đồng chí Việt Nam nêu ư kiến, hay là tổ chức China thành liên bang, Việt Nam sẽ là một nước hay một bang trong liên bang ấy. Ư kiến này không mới.
Nó đă từng được nêu lên. Nhưng các đồng chí thử nghĩ xem. Nếu như thế th́ thống nhất làm sao được với bọn Tây Tạng, bọn Nội Mông, bọn Măn Châu, bọn Hồi Bột. Chính chúng nó đang muốn cái đó để xưng độc lập, hoặc tự trị trong liên bang. Trên nguyên tắc th́ đúng, là cái ǵ cũng được. Danh chính th́ ngôn thuận. Nhưng nội dung bất biến. Vùng nào cũng chỉ là một bộ phận lănh thổ của China. Có điều những danh hiệu độc lập, tự trị là cái rễ bị lồng vào đấy cái tinh thần dân tộc, mầm mống cho sự phận liệt. Không được. Quyết không được.
Thưa các đồng chí.Vấn đề h́nh thức nhưng lại có tầm quan trọng. Xin các đồng chí phát huy tự do tư tưởng ...
Ninh Cơ ghi lại.
Chiến luỹ Trung quốc trên đất VN.
Một số lượng lớn người Việt Nam đẩy qua biên giới Trung Quốc. trong thời gian này thường dân vô tội chết v́ chiến tranh khá nhiều. Trung Quốc lợi dụng người dân Việt Nam tràn qua biên giới đẩy mạnh chiến trường “phản công tự vệ” lêntầng chiến lược. Ngày 18/04/1979 Trung Quốc chính thức đưa người Việt Nam vào chương tŕnh “người Việt tị nạn” biên giới.
Tôi lắng nghe Nhất Biến nói nhiều điều chiến tranh tại biên giới, h́nh dung trong con người này có những uẩn khúc nào đó, và hỏi:
─ Thưa anh Nhất Biến, anh đă từng đi khắp 3 ṿng chiến lũy của Trung Quốc, tại chiến trường trong lănh thổ Việt Nam, vậy Bắc Kinh mở cuộc chiến tranh biên giới trên danh nghĩa “phản công tự vệ”, có phải Việt Nam chiếm biên giới của Trung Quốc trước ngày 17/02/1979, bởi vậy Trung Quốc mới tự vệ, theo suy nghĩ của anh thế nào?
─ H́ h́… bọn Bắc Kinh quá lếu láo, thử hỏi trước và sau ngày 17/02/1979, Việt Nam có chiếm một phân ly đất nào biên giới của Trung Quốc đâu, hai nữa những Quân đoàn Việt Nam đang tham chiến tại Campuchia, chỉđể lại hậu cứ một Trung đoàn, như Quân đoàn 1 Cao Bằng, Lạng Sơn biên giới phía Đông. Quân đoàn 2 Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang biên giới phía Tây, Quân đoàn 3 Quảng Ninh biên giới Đông và vinh Bắc bộ. Một biên giới rộng lớn cửa mở, thế mà Đặng Tiểu B́nh la lớn tiếng “phản công tự vệ”. Đặng Tiểu B́nh chỉ bịp được người điên, hai đảng CSVN và TQ bịp được hai dân tộc VN-TQ chứ nào bịp được Quốc tế.
Tôi rất tiếc rằng Việt Nam bị mất quá nhiều sông, núi, đất liền biên giới kể cả người đă chết lẫn người đang sống, tôi tin chắc chắng Viên Dung đă đi trên chiến lũy này th́ phải gặp vô số mồ tập thể của người Việt ḿnh, đảng CSVN vô thừa nhận người lính hy sinh bảo vệ biên giới v́ Tổ quốc. Nếu có dịp Viên Dung vào chiến lũy ṿng 2 và 3 th́ sẽ thấy chiến tranh quá bất nhân với con người, địch ta chết cùng một mồ! C̣n bọn đảng trưởng CSVN và TQ hẹn nhau cụng ly, như Hennessy, Rémy Martin (V.S.O.P và X.O), Chivas Regal 12, 18, 21, Martell X.O, Jack Daniel’s, Clebmorangie, Absolute… chúc mừng nhau mạnh khoẻ, nhởn nhơ, miệng cười nhe răng như bầy cáo. Nói chung hai đảng CSVN và Trung Quốc đă thỏa thuận ngầm từ trước chiến tranh 1979, và Việt Nam phản đối chiếu lệ, một cách tránh né che mặt nhân dân Việt Nam mà thôi, chúng ta là một trong toàn thể nhân dân bị cuốn vào tṛ chơi của chúng .
Trong cuộc chiến này, Việt Nam mất nhiều tài nguyên thiên nhiên đang nằm dưới ḷng đất chưa khai thác, và danh lam thắng cảnh một thiên đàng tại thế. Nào bạn nh́n ḱa, cảnh đẹp của sông Hồng Hà trước mặt, có dịp hăy chiêm ngưỡng đi ?
Và bạn nh́n về hướng Tây Nam, bạn thấy quê hương ḿnh đẹp ngần ấy, ngoài ra vẻ đẹp của ruộng bậc thang miền cao nguyên Bắc phần, c̣n chứa đựng cả một sức sống của dân tộc, thế mà để mất vào tay thằng Bắc Kinh, tội này có thể nói “tru di tam tộc” cũng chưa hả ḷng lịch sử.
Chúng ta chỉ mới nói trong cuộc chiến ngày 17/02/1979 là đă hết cuộc đời rồi, chưa nói đến cuộc chiến khốc liệc nhất tại biên giới Việt Nam và Trung Quốc vào những năm 1984, cho đến nay ( 1987) chiến tranh vẫn c̣n tiếp tục không ngừng nghỉ, nhân dân Việt Nam chỉ biết cuộc chiến ngày 17/02/1979. Ngoài ra không hề biết ǵ về cuộc chiến tại biên giới vào năm 1984, có phải toàn dân Việt Nam không muốn biết hay là nhà nước của đảng CSVN không cho nhân dân biết! Trong cuộc chiến 1984, Việt Nam và Trung Quốc đều hao tài, mất người tại chiến lũy ṿng 2 và 3, phía Trung Quốc đổi bằng máu, xương thịt của toàn quân, tất cả tướng lănh đồng tham chiến và mọi nỗ lực khác trút vào chiến trường. Theo t́nh h́nh hiện nay Trung Quốc đă cầm chắc, trên tay thẻ chủ quyền chiến lũy ṿng 1, 2 và 3, lănh thổ quê Cha của tôi, chết dưới tay đảng CSVN, bạn có biết không?
Tôi nghe Nhất Biến nói như vậy, ít nhiều bùi ngùi không biết động lực nào đưa đến sự phẫn uất mà chưa tiện dịp nói ra, liền hỏi:
─ Thưa anh Nhất Biến, anh có thể cho biết giữa hai cuộc chiến, mà anh vừa đề cặp, nó khác biệt thế nào để anh phải quan tâm đến như vậy?
─ Nếu có dịp tôi sẽ tŕnh bày từng chi tiết một, không để lại một bí mật nào, c̣n hôm nay, tôi xin hài hước một chút ḷng cho vui, v́ chúng ta đă 13 năm vô t́nh gặp lại trên chiến lũy biên giới ṿng 1 này, đối với tôi đây là ngày hội ngộ có ư nghĩa t́nh bạn.
Chúng ta cũng nên để ḷng vào một bi kịch, tên tuồng (Ta, Tàu, Hoa). Ta (dân ta) khi Trung Quốc mở cuộc chiến tranh biên giới người dân 6 tỉnh chạy tán loạn, trước một nghịch cảnh xă hội vô tổ chức, nói đúng hơn là nhà nước Việt Nam không thừa nhận dân Ta, để mặt Ta chết không công bố con số thương vong của dân quân, và vô thừa nhận mồ tập thể, nhà nước như cha mẹ mà không thương con, hóa ra CSVN thua Trâu-Ḅ. Tàu (Ba Tàu) sống tại Việt Nam hơn 400 năm, Ba Tàu ḥa nhập cuộc sống đă lâu đời đương nhiên là 100% người Việt, Tổ quốc của ông cha họ là Việt Nam, thế mà cũng bị liên lụy chiến dịch bài Hoa của đảng CSVN, xua đuổi họ ra khỏi nơi chào đời và sinh cư, họ phải xa ĺa Tổ Quốc thân yêu một cách căm phẫn, nay họ chết trên danh nghĩa vô Tổ quốc. Tài sản sự nghiệp của Ta, Tàu, đồng loạt trút hết vào túi đảng CSVN.
[B]Hoa (Hoa kiều) hai tiếng nghe qua rất thân thương, nhưng bản chất làm kiếp Hoa đỏ, phải nói Hoa kiều là lực lượng hậu phương mạnh của tiền tuyến MTGPMN và Trung Cộng, sau ngày 30/04/1975, Hoa kiều trở thành hồn ma bóng quế, lang thang vất vưỡng khắp biên giới ṿng 1, cuối cùng Hoa kiều tiếp nhận được một mỹ danh tuyệt đẹp (người Việt tị nan) cũng như bao người Việt khác. Đời đă thế chưa đủ, Trung Quốc chơi tiếp một bạt tai vào mặt Hoa kiều qua cuộc trấn lột tài sản đem theo trên lưng, biến họ trở thành trắng tay ra kẻ bần cùng và đày đọa Hoa kiều sóng trong những công trường rừng sâu![/B]Mànhạ xuống, kết cuộc hai đảng CSVN-TQ chiến thắng hai dân tộc VN-TQ. CS lạm dụng hai từ ngữ Nhân dân để ngồi trên đầu, thế mà nhân dân vẫn chưa chịu hiểu thấu dă tâm CS, chưa chịu mở mắt to để thấy người CS vô cảm, nhẫn tâm hơn, người CS chỉ biết họ trên hết, không có t́nh dân tộc hay Tổ quốc, vừa rồi những lănh đạo đảng CSVN, hiệp nghị về biên giới với đảng CSTQ, lănh đạo đảng CSVN, lớn tiếng tuyên bố: “Tổ quốc Việt Nam là cái mẹ ǵ”.
Làng tị nạn VN tại biên giới Việt- Trung.
Sau tám năm (19/2/1979 ─ 21/8/1987 ). Chiến tranh Việt Nam‒Trung Quốc khởi sự từ đó cho đến thời điểm này vẫn c̣n tiếp diễn trên những cao điểm, tiếng súng qua lại giữa Việt Nam và Trung Quốc không hề hứa hẹn thời gian đ́nh chiến, bởi nhà nước Trung Quốc lấy quyết định dùng giải pháp súng đạn làm tiêu chuẩn cho ân oán nợ chiến tranh.
[B]Trung Quốc ở thời nào cũng thế, mỗi khi có chiến tranh thường đem dân làm mộc-nhân và dùng lính làm biển người, do đó đă có những làng tị nạn Việt Nam mọc lên tại biên giới phiá Nam thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc. [/B]Tuy chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc chưa yên, thế mà chúng tôi mạo hiểm, lần đầu tiên đến địa điểm đă ước hẹn trước, sáng hôm ấy ngoài trời lành lạnh sương mù, đứng tại đầu lănh thổ Việt Nam, năm xưa thuộc tỉnh Lạng Sơn của tổ quốc thân yêu. Cũng ở địa điểm quanh đây vào ngày 21/2/1979 xuưt nữa chúng tôi bỏ mạng, vùi thây dưới ḷng sông Kỳ Cùng, bởi súng đạn của Trung Quốc càn quét sâu 40km vào tận lănh thổ Việt Nam. Gây ra biết bao cảnh điêu tàn, thảm khốc, không thể nào điểm danh từng xác chết của người dân bản làng và dân quân sống tại biên giới Việt Nam, họ chết nhiều kiểu cách khác nhau, nào là trong trong rừng, khe núi, dưới suối, trôi bồng bềnh trên ḍng song Các, song B́nh Nhi và đầu nguồn sông Hồng. Truyền thông Quốc tế gọi đây là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 3.
Thượng lưu sông Kỳ Cùng, người dân Trung Quốc gọi Sông Các
( Ảnh: GS. La Minh )
[url]http://ethongluan.org/images/stories/images/lang_tinan_vietnam1.jpg[/url]
Mảnh đất này, trước đây là của Việt Nam, ngày này thuộc về lănh thổ của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Chúng tôi đứng trên núi cao cách làng tị nạn Việt Nam 7 cây số, nh́n về xứ sở, quê hương ẩn hiện qua sương mù, kư ức hồi tưởng nơi chào đời mà lần đầu tiên tự miệng biết gọi hai tiếng Mẹ‒Cha. Tuy đứng trên đất tổ mà lại thuộc xứ người làm sao không khỏi bồi hồi, xót xa, ḷng xao xuyến và tự hỏi: Quê hương ḿnh đang suy nghĩ ǵ về phần đất đă bị mất vào tay Trung Quốc hay có ư định nào trở ḿnh không. Một câu hỏi trong ư thức hay vô t́nh sỉ nhục tôi, cũng có thể sỉ nhục lớn đối với chế độ đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đương thời!
Trên núi cao đèo Rắn thuộc tỉnh Vân Nam, nh́n về
hướng đất nước tôi bên kia sông B́nh Nhi (Ảnh: GS. La Minh)
[url]http://ethongluan.org/images/stories/images/lang_tinan_vietnam2.jpg[/url]
[B]Những năm trước 1987, nhà nước Trung Quốc quảng cáo đă chiếm lĩnh được của Việt Nam những phần đất biên giới có tầm cở chiến lược quốc gia, bộ máy truyền thông của Trung Quốc dồn dập lưu diễn tại Miến Điện, Kazakhstan, Nga, Mông Cổ và biên giới Trung- Bắc Hàn, họ đồng một luận giải theo ngôn ngữ đại Hán. "Chư hầu Việt Nam hiến dâng biên giới, Trung Quốc không từ chối". Nay họ phối trí lại cơ sở hạ tần cấp Huyện, Xă tại biên giới hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Trung Quốc làm một công tŕnh hợp pháp về lănh thổ biên giới, lúc ấy Việt Nam âm thầm không lên tiếng, mặc nhiên công nhận dâng hiến đất liền biên giới cho Trung Quốc, cho nên Quốc tế không có lư do nào để chỉ trích Trung Quốc hay can thiệp cho Việt Nam. Theo báo chí và truyền thông Quốc tế cũng loan tải "1979 Việt Nam hiến dâng phần đất liền biên giới, hàng ngàn dặm cho Trung Quốc".[/B]Trung Quốc c̣n tuyên bố ngoại giao: "Đất liền biến giới phía Nam rộng thênh thang, có được hàng ngàn dặm nhờ Việt Nam mở rộng phong cách mới".
Trước năm 1987 Trung Quốc có những hành vi bất lương, như báo chí Trung Quốc tung ra nhiều loạt các báo cáo chủ quyền về đường biên giới, lập danh sách đặt lại tên cho những dăy núi lớn, nhỏ không bỏ sót một quả đồi nào, lập danh sách địa danh mới và c̣n ghi rơ khí hậu biên giới. Họ tổ chức nhiều đơn vị biên pḥng đi tuyên truyền cái nhân đạo của nhà nước Trung Quốc, đôi khi c̣n đột nhập vào thành phố ở biên giới Việt Nam và những ngôi làng nhỏ khuyến dụ dân làng làm t́nh báo cho họ.
Chúng tôi đang ở "Ḍng nhà làng" tại nhà Họa sĩ La Minh, đến ngày thứ tư La Minh rủ chúng tôi đi thăm Lê Văn Vinh một người bạn cùng thời thơ ấu, Lê Văn Vinh hiện ở tại ngôi làng tị nạn Việt Nam có tên "Âu nhà làng", lộ tŕnh đường bộ khoảng 6km.
Lê Minh tay chỉ, miệng nói:
─ Âu nhà làng, lờ mờ bên núi xa xa, đó là làng của Vinh.
Thế mà chúng tôi phải trèo núi vượt suối gian nan mất hai giờ liền mới đến nơi, La Minh cho biết đi đường chim bay. Nếu đi đường Quan Công th́ mất 4 giờ. "Âu nhà làng" nằm trong thung lũng của khe núi Âu, tôi đă đi qua hai làng tị nạn Việt Nam quan sát thấy có một đặt điểm chung, họ nói nhiều ngôn ngữ khác nhau như Việt, Hoa và các sắc tộc biên giới, tuy nhiên tiếng Việt là ngôn ngữ giao thiệp chính, tại làng này có 1476 người tị nạn, c̣n "Ḍng nhà làng" dân số đến 2574 người. Chúng tôi gặp nhau trong hoàn cảnh xúc động, có ai biết trước sự hy hữu của con nguời. Trái đất này không phụ t́nh người, nếu có quyết định th́ nơi nào cũng đến và đi đều được cả.
[B]Sau buổi cơm trưa, chúng tôi hàn huyên trăm ngàn chuyện cũ từ Sài G̣n đến Chợ Lớn, điểm qua bạn bè, thân thuộc, gia đ́nh và kẻ sống ở đâu, người chết nơi nào, có những lúc Minh và Vinh xúc động khóc như trẻ thơ, v́ Minh, Vinh đồng nạn nhân của năm 1975, như mọi người dân miền Nam Việt Nam, nhưng không ai hiểu thấu Minh, Vinh trải qua trắng sạch sự nghiệp và biến đổi cuộc đời bần cùng vào ngày 19/2/1979 giữa chiến tranh Việt-Hoa tại biên giới.
Trước đây Lê Văn Vinh nguyên là Cử nhân Hóa, phụ giảng Đại học Khoa Học Sài G̣n, nay là bác nông phu tại "Âu nhà làng" cư ngụ hay tạm trú trong núi rừng heo quạnh, không c̣n dịp trở ḿnh, tuy nhiên chỉ c̣n hy vọng, ngày mai con cháu sẽ hơn cha mẹ.
C̣n về La Minh, trước 1975 nguyên Giáo Sư trường Mỹ Thuật Gia Định và Bác Ái, chủ của một nhà in rất lớn tại đường Hồng Bàng Chợ Lớn, tranh của La Minh thường triển lăm tại Chợ Lớn, Hồng Kông và Đài Loan. Gia phả của La Minh đă 7 đời không c̣n gốc ngọn người Hoa, tổ tiên của anh từ chối cháo với chao và một chữ Triều châu cũng không ngửi ra mùi Hoa. La Minh có mặt tại "Ḍng nhà làng" do tính nghệ sĩ giang hồ xúi giục, sau 1975 anh lấy quyết định bỏ quê hương đi t́m đất hội họa Đài Loan, mượn lục địa Trung Quốc làm thuyền chở cả gia đ́nh 7 miệng ăn và mang theo hết tài sản trên ba-lô.
Cuối cùng cả gia đ́nh của Minh gặp phải nhiều bi kích, vợ, hai đứa con trai và một đứa con gái yêu quí nhất của Minh đều nằm xuống tại nghĩa trang. Minh xếp đặt cho con trai Cả bỏ làng đi Hồng Kông hơn một năm, c̣n lại hai đứa con trai nhỏ. Tôi cùng Minh ra nghĩa trang thắp hương cho chị Minh và các cháu. ( Chương sau chúng tôi nói đến Nghĩa trang và Bỏ làng )[/B]Lúc này tinh thần Vinh đă b́nh tỉnh lại và cho biết:
─ Hai năm trước giới quân sự cho xây dựng một đường chiến lược tuần tra biên giới thông qua các làng bằng những đoạn giao thông hào rất kiên cố. Cũng như các quan chức tỉnh Vân Nam, thường đưa phóng viên vào làng này để săn tin, họ nói: "Cuối năm 1970 đă có người Việt Nam trốn thoát vào Trung Quốc xin tị nạn, có vài người đă sống ở đây hơn 20 năm". Lê Văn Vinh nói tiếp: "Những người sống ở đây hơn 20 năm, thuộc vào diện "hỗ trợ" chính là viên chức T́nh báo chiến lược của quân đội Trung Quốc".
Họ trà trộn vào đời sống ở đây, sinh hoạt như người tị nạn Việt-Hoa, Hoa-Việt và người dân tộc biên giới, vốn đă phức tạp về ngôn ngữ và sinh hoạt theo tập tục văn hóa từng bộ tộc để phân biệt và t́m hiểu về họ, ḿnh phải có ít nhiều lư thú đi sâu vào sinh hoạt trong môi trường làng tị nạn Việt Nam, có thế mới khám phá được những ư đồ của nhà chức trách Trung Hoa.
Trước 1975 ở biên giới Việt-Hoa chưa h́nh thành làng tị nạn Việt Nam, thế nhưng cũng đă có vài trăm người tị nạn mang nhăn hiệu "hỗ trợ". Họ xuất hiện bởi những tên gián điệp người Hoa, trước kia họ hoạt động tại miềm Bắc Việt Nam, sau khi nhà nước Hà Nội phát hiện họ bị trục xuất khỏi Việt Nam, kéo theo một hệ lụy từ chối công nhận người Hoa vào quốc tịch Việt Nam.
Người Hoa ở miền Bắc về lại Trung Quốc hóa thành nghịch cảnh, dù có công hay không đối với nước Trung Quốc hiện đại vẫn bị từ chối quyền công dân, nhà nước Trung Quốc không công nhận những đứa con của Tổ quốc trở về, người Trung Quốc chỉ thừa nhận họ là người tị nam Việt Nam dù đă sống ở Trung Quốc 20 năm.
Một nghịch lư khác sau 1975, có hơn một triệu người Hoa sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam, đă 9 kiếp tổ tiên là người Việt vẫn gọi ôm mớ là người Hoa. Thời chiến tranh Trung Quốc dùng địch vận gọi mỹ danh "Hoa Kiều Việt Nam" khi Hoa Kiều Việt Nam trở về Trung Quốc lập tức được công nhận "Người tị nhận Việt Nam" hai chữ "Hoa Kiều" hết giá trị, hiện nay trong làng nói tiếng Việt hơn 75%.
Đôi lúc tôi nhận được tiếng thở dài của La Minh và nói: " Khi chưa có chiến tranh ai cũng biết Tổ quốc ḿnh ở đâu, c̣n hôm nay chúng tôi không biết ḿnh là ai..".
Vinh nói theo:"Giấc mơ lớn nhất của tôi, chỉ cần có được danh tính thân phận ḿnh là ai".
Chúng tôi hỏi Vinh:
─ Hiện nay bạn đang làm việc ǵ để sống và có những dự tính nào cho tương lai không?
─ Tôi vẫn lẩn quẩn công việc trang trại trong làng và lao động phụ cho công trường trồng cây Bồ Đề và Bạch Đàn, chỉ đủ nuôi cái miệng, c̣n đâu suy nghĩ tương lai, nếu có tiền tôi đă bỏ làng ra đi rồi, dù biết rằng không có chứng minh nhân dân cũng phải liều.
Lê Minh mặt trầm, đôi mắt hướng ra sân làng như đang thất vọng nói:
─ Tao và mày cũng như tất cả mọi người ở trong làng, không ai muốn ở đây, đi ra ngoài mới thấy không gian sống, nhưng không có chứng minh nhân dân ở đây như lao tù.
Qua một cơn mưa "Ḍng nhà làng" ngập nước
[url]http://ethongluan.org/images/stories/images/lang_tinan_vietnam3.jpg[/url]
Vinh cho biết:
─ Chính phủ Trung Quốc chỉ công nhận họ là "người tị nạn Việt Nam", không công nhận họ là công dân Trung Quốc. Do đó 214 làng dọc theo biên giới, v́ không có quốc tịch Trung Quốc, không có bản sắc, chúng tôi sống trong ṿng tṛn nhỏ của làng, sống trong sự cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Đối với những người tị nạn, muốn đi xa để làm việc, trước nhất mua một ID giả hoặc thẻ ID với giấy phép cư trú tạm thời của người khác nhằm đáp ứng việc kiểm tra an ninh. Nếu không phải người dân Trung Quốc, chẳng có chứng minh thư, nhỡ đụng đến công an Trung Quốc là xanh mặt.
Đề cập đến đời thường của người tị nạn, có vẻ Minh và Vinh xúc động và nhạy cảm, sau một lúc im lặng ngắn ngủi, mới bắt đầu nói chuyện, các bạn tôi thường hỏi t́nh h́nh thế giới bên ngoài, nhất là những câu hỏi về hôn nhân và đất nước Việt Nam hôm nay.
Con trai của Vinh cho biết:
─ Người ta nói rằng sẽ vào làng tuyển một số nữ trẻ đi làm việc xa nhà, nhưng không đi lâu dài. Tại sao không tuyển Nam mà lại Nữ, phải chăng người Trung Quốc muốn Nữ giới ra khỏi làng bằng cách hôn nhân, nhưng người ta không biết luật pháp về quốc tịch, nó chỉ có giá trị cho thế hệ sau ( Mẹ vẫn tị nạn Việt Nam, đứa con mới là công dân của Trung Quốc ) nói chung thế hệ này vẫn tị nạn muôn năm.
Chưa hết có một quân nhân biên pḥng tại Huyện cho biết: "Quốc tịch con cái của họ c̣n tùy thuộc vào sở hữu của những người tị nạn. Kết quả cho thấy chính sách này ưu đăi một cô gái tị nạn kết hôn với người đàn ông Trung Quốc và nếu các cô gái Trung Quốc kết hôn với một người tị nạn, trẻ em của họ vẫn theo cha làm "người tị nạn". Đây mới chính là kịch trường làm người tị nạn, cô gái kết hôn với người bản xứ được đi ra ngoài làng và tất nhiên người trai như con không thể t́m thấy đối tượng.
Chúng tôi tự động bảo nhau, lùi sâu vào trong nhà và nói chuyện bằng tiếng Hoa, bởi từ xa có những cái đầu lú nhú ở dưới núi đi lên, đó là những bộ đội biên pḥng địa phương, họ đi tuần tra biên giới, tôi và Minh hiểu ư của Vinh.
Vừa thấy những tên biên pḥng đi qua nhà, họ ăn to nói lớn, đó là cá tính của người Hoa miền núi, tiếng Quan thoại ồn ào: "1979 nhà nước ta qui động trên 370.850 người tại các làng tị nạn Việt Nam, tham gia lập giao thông hào và bảo vệ chiến lũ, người tị nạn có động lực cao v́ họ muốn hội nhập nhiều hơn vào thế giới bên ngoài làng, thậm chí họ c̣n ghi danh gia nhập bộ đội biên pḥng, đó cũng là một lư lẽ phù hợp với "Luật Quốc tịch Trung Quốc" thực ra các quy định này chưa trao cho người tị nạn Việt Nam".
Thời gian qua mau, nói chuyện ngày xưa chưa hết lời, đă 5 giờ chiều, tôi và La Minh xin chào tạm biệt Vinh, hẹn hôm nào gặp lại, Vinh nói:
─ Tao đề nghị 5 ngày nữa tập hợp bạn cũ tại nhà Minh, lấy cớ làm giỗ chị Minh, có thế thằng Tâm mới hội ngộ được thằng Đào, thằng Tùng, con Châu, con Ái, con Liên và chị Trang.
La Minh khẻ nói:
─ Vinh đề nghị quá hay, nhưng ai tiến hành đi loan tin.
Vinh không suy nghĩ liền nói:
─ Khi tao đề nghị th́ phải thực hiện công tác này.
La Minh hỏi lại:
─ Năm ngày mà mày làm cách nào mời hết được bạn bè, hai nữa chúng nó ở rất xa.
Vinh khẳng định như đinh đóng cột :
─ Th́ tao mời theo thuật bắng tên, hiện nay những làng tị nạn Việt Nam, tạm thời rải rác theo chiều dài và rộng 1350km đường biên giới do Trung Quốc chiếm được của Việt Nam vào năm 1979. Từ biên giới của Vân Nam đến Quảng Tây giáp đối diện năm tỉnh Việt Nam gồm Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, không có khó đâu, hăy an tâm, tin tao.
Tôi cùng Minh chào Vinh, hẹn năm ngày sau tái ngộ. Chúng tôi đi theo triền núi về làng "Ḍng nhà làng", trên đường đi Minh cho biết nhiều vấn đề của người Việt tị nạn tại Trung Quốc, tôi chú ư nhất là chuyện Trung Quốc tham nhũng tiền bảo trợ của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc phụ trách tị nạn (UNHCR) cho làng tị nạn Việt Nam:
─ Nhà chức trách Trung Quốc dă tâm và lưu manh lấy hết tiền bảo trợ. Bộ Ngoại giao Trung Quốc c̣n thành lập một nhóm dữ liệu báo cáo giả trước (UNHCR) đại khái nội dung: "Từ năm 1978, chính phủ Trung Quốc trong tinh thần nhân đạo đă tiếp nhận 30 triệu người tị nạn Đông Dương vào Trung Quốc. Con số lớn như vậy mà không thấy người. Riêng 214 làng tị nạn Việt Nam, dù cho đào mồ cuốc mả tính luôn cả người sống lẫn ngưới chết trên đầu núi, dưới ḷng suối cũng chỉ có 1,6 triệu người.
Tôi tiếp tục lắng nghe, Minh nói một sự kiện khác:
─ Nhóm dữ liệu Trung Quốc c̣n báo cáo hồ sơ giả tạo khác: "Hiện nay Trung Quốc đang quan tâm đến làng sóng tị nạn, chủ yếu là năm 1978-1979, Trung Quốc đang thúc đẩy Việt Nam chặn đứng người tị nạn từ Việt Nam tràn qua Trung Quốc". Thực tế người Việt tràn ra biển Đông, chứ không bao giờ tràn qua Trung Quốc, thà chết dưới chế độ tự do dân chủ đa nguyện c̣n hơn sống dưới chế độ cộng sản Trung Quốc, chỉ có những hệ lụy và vâng lời Trung Quốc đỏ mới ra thân danh vô Tổ Quốc. Trung Quốc c̣n bịp bợm hơn, tuyên bố cho hồi hương người tị nạn Việt Nam về cố quốc. Mặt trái khác cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Quốc cư xử với Hoa kiều hay Việt kiều không công bằng, khi c̣n chiến tranh Hoa kiều là cái kho kinh tế, một ngân hàng lưu trữ tài chánh cho hai đảng cộng sản Việt-Hoa. Hết chiến tranh Hoa kiều hay Việt kiều trở thành thứ phế thải bỏ vào thùng rác không tái sinh!
Trung Quốc và Việt Nam đang chơi một ván cờ, dùng người tị nạn Việt Nam trả giá quân cờ Hồi-hương theo chương tŕnh của UNHCR, đây cũng là một cách chơi khăm của Trung Quốc đối với Việt Nam, mà không mang tiếng với Quốc tế, nhân dịp biến lực lượng quân đội Trung Quốc thành người tị nạn hồi hương, chủ yếu xâm nhập hợp pháp vào Việt Nam. Trung Quốc đă chuẩn bị từ trước có cả danh sách địa chỉ định cư và họ khạc tên người tị nạn Việt Nam ra một bên, vĩnh viễn sống tại biên giới. Theo chiến lược của Trung Quốc, họ đă bắt đầu cho bộ đội trẻ thay áo mới dân sự, mang nhăn hiệu người tị nạn Việt Nam, họ sẽ là người Việt Nam giấy nằm vùng trong ḷng Việt Nam chờ thời cơ biến thành vũ khí của Trung Quốc.
Tôi nghe tin này khá lư thú liền hỏi:
─ Tin này có thực chứ và Minh lấy nguồn tin này ở đâu?
─ Trung Quốc rất nhiều ma giáo, nhất là chính trị, trước khi tạm cư trong làng, người tị nạn Việt Nam phải viết một bản tự khai, không từ bỏ một ai, và Minh có dịp hiện diện tại chiến trường với nhiệm vụ vẽ những bản đồ tiến quân của Trung Quốc, mỗi ngày tiếp cận với giới chức quân đội và dân sự. Đôi khi c̣n nghe tướng Lữ Chính Thao (Lu Zhengcao)tự hào về cuộc chiến tranh này.
吕正操( Lu Zhengcao ) Lữ Chính Thao
[url]http://ethongluan.org/images/stories/images/lang_tinan_vietnam4_luchinhthao.jpg[/url]
Tôi và Minh về đến "Ḍng nhà làng". Tiếp tục thấy cảnh chịu đựng khốn cùng của dân làng, tôi thấy những túp lều đă cũ, bao quanh bằng phên nứa, nay đă ṛ rỉ tồi tàn và ẩm ướt, bếp lửa lạnh khói, chỉ cần một cơn mưa là ngập "Ḍng nhà làng". Trong nhà La Minh trên rách có treo vài tranh ảnh Sài G̣n và Chợ Lớn.
Như mội ngày, đến bửa cơm, tôi dùng từng bát cơm trộn với ngô luộc, hỏi ra mới biết cả làng ba bữa một ngày hầu hết mọi người như thế cả!
Làng tị nạn Việt Nam không có bệnh xá, khi dân làng đau nặng chỉ chờ chết, bệnh nhẹ lấy cây cỏ ngoài đồng ruộng hay rừng làm thuốc trị liệu. Ngoài nghĩa trang số cột bia mộ, tương đương với số dân trong làng.
Huỳnh Tâm
*Bài viết ghi lại những sự kiện trong chuyến đi đầu tiên đến Vân Nam Trung Quốc, ngày 21/8/1987, nhưng đến nay nó vẫn c̣n nguyên giá trị thời sự của nó.