Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
[B]Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh
Wikipedia[/B]
[IMG]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/c/c5/KS1.jpg/300px-KS1.jpg[/IMG]
Pháo của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắn gần đường băng
.
Thời gian Theo Hoa Kỳ: 21 tháng 1 năm 1968 – 8 tháng 4 năm 1968
Theo Việt Nam: 21 tháng 1 năm 1968 – 25 tháng 7 năm 1968
Địa điểm Khe Sanh, Quảng Trị - UTM Grid XD 852-418[1]
Quân Mỹ rút khỏi Khe Sanh, QĐNDVN chiếm Khe Sanh từ giữa tháng 7.
Trung tâm chỉ huy Hàng rào điện tử McNamara bị phá hủy. Chiến lược cắt Đường ṃn Hồ Chí Minh của Hoa Kỳ thất bại
Hoa Kỳ thất bại trong mục tiêu "giữ Khe Sanh bằng mọi giá" mà Tổng thống Johnson từng tuyên bố[2]
Tham chiến
Hoa Kỳ
Việt Nam Cộng ḥa
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
Chỉ huy
Đại tướng William C. Westmoreland (toàn chiến trường)
Đại tá David E. Lownds (tại chỗ)
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp (toàn chiến trường)
Thiếu tướng Trần Quư Hai (tại chỗ)
Thiếu tướng Lê Quang Đạo (tại chỗ)
Đại tá Cao Văn Khánh
Lực lượng
~45.000 (sau tăng lên 69.000) trên toàn tuyến, trong đó 6.680 đóng tại Khe Sanh[3]
Chiến dịch Pegasus: ~20.000 (Sư đoàn 1 Không Kỵ, 2 trung đoàn TQLC Mĩ và 1 trung đoàn biệt kích Dù VNCH)
Chiến dịch Niagara và Chiến dịch Arc Light: Không quân chiến thuật và chiến lược Hoa Kỳ (khoảng 2.000 máy bay và 3.300 trực thăng), ném hơn 114.810 tấn bom.
Pháo binh bắn chi viện 159.000 viên đạn pháo[4]
~40.000 trên toàn tuyến, trong đó 17.000 quân bao vây Khe Sanh (Sư đoàn 304 và sư đoàn 325), 17.000 quân pḥng ngự Đường 9 (Sư đoàn 320 và sư đoàn 324)[5]
Pháo binh bắn chi viện 10.900 viên đạn pháo.
Tổn thất
Tại Khe Sanh:
Mỹ: 274 chết, 2.541 bị thương (chưa kể thương vong của Biệt động quân VNCH, Sở chỉ huy tiền phương FOB-3 của Lục quân Mỹ và Quân đội Hoàng gia Lào)[6]
Chiến dịch Scotland I và Pegasus:
Mỹ: 730 chết, 2.642 bị thương, 7 mất tích, 3 bị bắt
VNCH:
229 chết, 436 bị thương
Dân vệ (CIDG): 309 chết, 64 bị thương, 250 bị bắt [7]
Tổng từ 20 tháng 1 đến 14 tháng 4:
Công bố chính thức: 205 chết, 2 mất tích, 443 bị thương
Thống kê lại trên thực tế: trên 7.485 thương vong (1,542 chết, 5.675 bị thương, 7 mất tích, 253 bị bắt)[6][8][9]
Từ 15 tháng 4 đến 15 tháng 7:
Khoảng 3.000 thương vong[10]
Theo QĐNDVN: ~11.900 chết hoặc bị thương; 197 máy bay, 78 xe tăng-thiết giáp, 46 khẩu pháo, 50 kho đạn bị phá hủy[11]
Theo QĐNDVN: Nguồn 1: 3.966 chết, 450 mất tích, 6.868 bị thương trên khu vực Đường 9 tính chung trong cả năm 1968 (80% là thương vong trong chiến dịch này)[12]
Nguồn 2: 2.469 tử trận (tính từ 20 tháng 1 đến 20 tháng 7 năm 1968).[13]
Theo Hoa Kỳ: Phát hiện 1.600 thi thể[14], tổng số thương vong được Mỹ ước tính khoảng 10.000.
.
Chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam
Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh c̣n được gọi là "Chiến dịch Đường 9" hay "Trận Khe Sanh", là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam.
Các tài liệu Hoa Kỳ thường ghi nhận trận đánh diễn ra trong 77 ngày từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1968, và cũng chỉ đề cập đến diễn biến trong 77 ngày này, mà theo đó kết thúc với việc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đóng ở Khe Sanh được Sư đoàn Không Kỵ cứu viện. Tuy nhiên đối với QĐNDVN th́ đây chỉ là giai đoạn 1 của chiến dịch, giai đoạn 2 kéo dài từ 9 tháng 4 đến 25 tháng 7 nhằm chiếm dứt điểm Khe Sanh, cũng diễn ra rất quyết liệt. Tổng cộng 2 giai đoạn kéo dài 170 ngày, kết thúc khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Khe Sanh và QĐNDVN hoàn toàn kiểm soát cứ điểm này, đánh dấu sự cáo chung của Hàng rào điện tử McNamara[15]. Khe Sanh đă trở thành nơi mà lần đầu tiên, quân đội Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.[13]
Bởi vai tṛ chiến lược vô cùng quan trọng của trận đánh này, đây là một trong những trận chiến ác liệt và được bàn thảo nhiều nhất. Chỉ huy căn cứ Khe Sanh lúc đó là Đại tá Lownds (TQLC Hoa Kỳ), gồm có 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn TQLC và sau đó nhận thêm Tiểu đoàn 37 Biệt động quân - Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, nâng tổng số quân tham chiến lên đến 6.680 người vào cuối tháng giêng.
Mục đích chủ yếu của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi tấn công Khe Sanh là nhằm "nghi binh" cho các hướng tiến công chính trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, bởi:
Vị trí đặc biệt quan trọng của Khe Sanh giống như "cái mỏ neo" trong bản đồ quân sự của Mỹ, đặc biệt là uy hiếp đường Hồ Chí Minh và bảo vệ vùng I chiến thuật. Đây là trung tâm chỉ huy của Hàng rào điện tử McNamara mà Mỹ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh. Phá hủy được cứ điểm này th́ QĐNDVN mới nhổ được "cái gai" mà Mỹ định găm vào tuyến đường chi viện chiến lược này.
Tập trung đánh và bao vây nhằm thu hút 1 lực lượng lớn quân Mỹ tham chiến, thu hút cả nước Mỹ hồi hộp theo dơi "Trận Điện Biên Phủ thứ 2" có thể thay đổi cuộc chiến Việt Nam.
Tầm quan trọng của Khe Sanh
Từ năm 1962, Mỹ và VNCH xây một căn cứ không quân - lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ư nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển Đường ṃn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Năm 1962, căn cứ này được Lực lượng Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ sử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Lào. Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đă gây nhiều trở ngại lớn cho sự tiếp vận từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Sau thất bại trong mùa khô 1965-1966, Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ đă nảy ra ư định thiết lập một pḥng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ nam sông Bến Hải để ngăn chặn đối phương. Ư tưởng của McNamara đă được 47 nhà khoa học tài ba nhất nước Mỹ tổ chức nghiên cứu thực thi. Sau ba tháng nghiên cứu, hội đồng khoa học dưới sự điều khiển của McNamara đă vạch ra một kế hoạch với tham vọng lớn:
Pḥng tuyến ước tính có chiều rộng khoảng 20 km, từ nam vĩ tuyến 17 đến đường 9, chiều dài trên 100 km chạy song song với sông Bến Hải từ biển Đông đến Sê Pôn (Lào) trong đó hành lang mặt bằng xây dựng có bề ngang 500m sẽ được san bằng như một sân bóng.
Xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ khoảng 2 km có 1 tháp canh khoảng 4 km có 1 căn cứ cỡ đại đội hoặc tiểu đoàn.
Bố trí một hệ thống công sự gồm đủ hầm hào, lô cốt kiên cố, hàng chục lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt, xen kẽ với nhiều lớp bom ḿn đủ kiểu: ḿn định hướng, ḿn đĩa, ḿn lá, ḿn Claymore, ḿn chiếu sáng, lựu đạn nổ tức th́ (Mỹ dự kiến sử dụng 20 triệu quả ḿn và 25 triệu quả bom cỡ nhỏ). Đặc biệt pḥng tuyến được trang bị phương tiện điện tử tối tân như "cây nhiệt đới", “máy thông minh", “máy phát hiện hơi người". Đây là các loại máy thu phát tiếng động tinh vi đủ cỡ 15 ngày, 3 tháng, hoặc 6 tháng thay pin một lần.
Căn cứ Khe Sanh được xác định là trung tâm của hệ thống hàng rào điện tử trên. Do đó, Khe Sanh- Quảng Trị được Mỹ xây dựng một tập đoàn pḥng ngự mạnh, liên hoàn, kiên cố nhất của Mỹ ở địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm Làng Vây, Chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm pḥng ngự sân bay Tà Cơn.
Cụm cứ điểm Tà Cơn là cái lơi của tập đoàn pḥng ngự Khe Sanh của Mỹ, có chiều dài khoảng 5 km, rộng khoảng 3 km, có một đường băng dă chiến dài khoảng hơn 3.000 m đảm bảo hoạt động của máy bay C-130 Hercules và một số trực thăng vũ trang. Hệ thống công sự, vật cản được xây dựng kiên cố và liên hoàn; công sự chiến đấu bằng bê tông đúc sẵn, hố chiến đấu cá nhân có nắp bằng bao cát, một số lô cốt bằng bê tông, hầm ngầm, hệ thống giao thông hào, chiến hào liên hoàn; xung quanh bao bọc từ 6 đến 10 hàng rào dây kẽm gai các loại, các băi ḿn dày đặc, xen kẽ rải "cây nhiệt đới" (thiết bị thu tin điện tử) khắp các nơi.
Kế hoạch của hai bên
Hoa Kỳ
Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng William Westmoreland, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân địch vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (từ ngày 1 tháng 11 năm 1967 đến ngày 31 tháng 3 năm 1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Mỹ và Sài G̣n, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử McNamara và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Bắc Việt, để Hoa Kỳ dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.
Cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài G̣n (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho Tổng thống Johnson dày hàng chục trang). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đă nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ, mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ Chiến dịch Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà Trắng), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của Hải quân, không lực của Thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nh́n zero (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm. Và đây đă trở thành "chiến dịch hỗ trợ hỏa lực đường không dày đặc nhất trong lịch sử chiến tranh"[16]
Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi Đường 9 đă bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; v́ đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch th́ đang t́m kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong pḥng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lư quân sự và hét to: “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.
Westmoreland sau đó đă viết rằng: "Washington lo ngại rằng một số từ ngữ nặng nề mà tôi đă nói với báo chí cần phải chấm dứt, trớ trêu thay, câu trả lời những hậu quả đó có thể là: một thảm họa chính trị"[17]
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
Qua nghiên cứu t́nh h́nh cách bố trí lực lượng cuối năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc pḥng VNDCCH đă vạch ra kế hoạch chiến lược năm 1968 là: Cùng với đ̣n tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu hút, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch mà chiến trường chính là hướng Đường 9 - Khe Sanh, thực hiện cuộc tiến công đồng loạt vào thành phố, thị xă kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng mở đầu cho một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lấy chiến trường chính là Sài G̣n, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài G̣n, Huế, Đà Nẵng. Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh sẽ thực hiện nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch (chủ yếu là lính Mỹ), góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đ̣n chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược trên, ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc pḥng đă quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Theo quyết định trên, Thiếu tướng Trần Quư Hai Phó tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy mặt trận.
Quân ủy Trung ương và Bộ tổng tư lệnh, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra nghị quyết chỉ rơ: Trong Xuân - Hè năm 1968, toàn mặt trận phải quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện th́ phá vỡ một phần hệ thống pḥng ngự của địch ở đường 9 và phát triển vào Trị - Thiên - Huế. Thu hút, giam chân, tiêu diệt lực lượng Mỹ - ngụy ra đường 9 càng nhiều càng tốt.
Đối với phía Mỹ, cho đến nhiều thập niên sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, mục đích thực sự của QĐNDVN trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh vẫn c̣n là một điều bí ẩn. Theo tướng Westmoreland vẫn tin mục đích chính của QĐNDVN là chiếm giữ Khe Sanh và tạo nên một "trận Điện Biên Phủ mới". Theo đó th́ đây chính là nguyên nhân v́ sao QĐNDVN tập trung một lực lượng rất lớn cho trận đánh này (4 sư đoàn, trong đó 2 sư đoàn trực tiếp tham chiến). Nhiều ư kiến khác lại cho rằng lực lượng quanh Khe Sanh đơn giản chỉ để phục vụ mục đích pḥng thủ cục bộ tại Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, hoặc để dự pḥng trong trường hợp một cuộc tấn công ra miền Bắc của quân Mỹ tương tự như Trận Inchon trong Chiến tranh Triều Tiên. Theo John Prados và Ray Stubbe, "hoặc có thể cuộc Tổng tiến công Tết là một đ̣n đánh lạc hướng nhằm phục vụ cho sự chuẩn bị của QĐNDVN/MTDTGPMN cho một trận đánh quyết định tại Khe Sanh, hoặc Khe Sanh là một đ̣n đánh lạc hướng để thu hút sự chú ư của Westmoreland trong những ngày trước Tết"[18]
Binh lực các bên
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Các Sư đoàn bộ binh 304, 320, 324B và 325 (từ tháng 5, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 vào thay cho các Sư đoàn 324B và 325 đi chiến trường khác), Trung đoàn 270 (Vĩnh Linh) và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 đoàn và 5 đại đội đặc công, 5 trung đoàn pháo binh (16, 45, 84 và 204), 3 trung đoàn pháo pḥng không, 1 tiểu đoàn tăng - thiết giáp (16 xe tăng hạng nhẹ PT-76), 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn hoá học, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá.
Tổng cộng lực lượng trên toàn tuyến có khoảng 40.000 quân. Trong đó Sư đoàn 304 và Sư đoàn 325 (tổng cộng khoảng 17.000 quân) thực hiện bao vây Khe Sanh, c̣n các Sư đoàn 320 và 324 thực hiện cắt Đường 9, chặn quân tiếp viện của Mỹ. Các lực lượng vũ trang địa phương thực hiện đánh tập kích diệt các đoàn vận tải, tiêu hao sinh lực địch
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
Lực lượng của Hoa Kỳ trong trận Khe Sanh chủ yêu thuộc Quân đoàn tác chiến đổ bộ III Thủy quân lục chiến (III Marine Amphibious Force). Có khoảng 45.000 quân trên toàn tuyến (trong đó có 28.000 quân Mỹ), gồm 3 trung đoàn tăng cường thuộc Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 3; 4 tiểu đoàn tàu tuần tra và vận tải (5, 10, 53 và 301), 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới, trong quá tŕnh pḥng ngự được sự chi viện mạnh của không quân, pháo binh ở phía sau.
Riêng ở Khe Sanh, Mỹ có 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 26, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 9 TQLC Mỹ, Sở chỉ huy tiền phương số 3 (Forward Operating Base 3) của Lục quân Hoa Kỳ với quân số 588 lính, 1 tiểu đoàn pháo 155 ly, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội chống tăng, Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH, 1 đội thám báo 300 lính, tổng cộng 6.680 lính.
[IMG]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/50/Khe_Sanh_Control_Tower_and_radar.jpg/225px-Khe_Sanh_Control_Tower_and_radar.jpg[/IMG]
Trung tâm radar chỉ huy của Mỹ ở Khe Sanh
Từ tháng 4 khi Mỹ mở Chiến dịch Pegasus huy động thêm Sư đoàn Không Kỵ số 1 của Mỹ, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 26 TQLC Mĩ, Chiến đoàn dù 3 VNCH cùng nhiều đơn vị Biệt động quân và bảo an, tổng cộng 20.000 quân yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo.
Bên cạnh đó, Chiến dịch Niagara và Chiến dịch Arc Light để hỗ trợ không quân cho Khe Sanh cũng thu hút một lực lượng hùng hậu: 3.300 trực thăng (nhiều hơn số trực thăng chiến đấu của 3 nước Anh, Pháp, Đức cộng lại), không quân Mỹ đă xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút hơn 110.000 tấn bom các loại (gấp 6 lần quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và bằng lượng bom ném xuống Nhật suốt cả năm 1945).
Bảo đảm kỹ thuật - hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MediVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô khổng lồ trên các máy bay vận tải C-130. Mỹ có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày (trong khi Pháp chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn). Từ 19 đến 25 tháng Giêng, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals cũng được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ.
Quân đội Hoa Kỳ ở Khe Sanh được yểm trợ hỏa lực bởi những vũ khí tân kỳ nhất thời đó. Các tổ hợp radar phản pháo mới như SKY SPOT; 16 pháo tự hành “Vua Chiến trường” M107 175mm bố trí tại Trại Carroll ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh đồi Rockpile, 18 lựu pháo 105mm, 8 pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng c̣n có đạn pháo 105mm COFAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một h́nh nón 30 độ, rất hữu hiệu chống bộ binh…
Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
[B]Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
TRẬN CHIẾN KHE SANH[/B]
[CENTER][IMG]http://doanket.orgfree.com/dkpict/lv_tuade.jpg[/IMG]
(Tác giả giữ bản quyền. Muốn trích đăng, vui ḷng liên lạc Email: [email]doanket@yahoo.com[/email]. Cám ơn)
(Phần 1 - C̣n Tiếp)
[IMG]http://doanket.orgfree.com/dkpict/lv_phdo.gif[/IMG][/CENTER]
Vào dịp Tết Mậu Thân 1968, Cộng Quân (CQ) bất thần tung ra những trận tổng công kích vào các thành phố lớn thuộc miền Nam Việt Nam. Trong lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH) giao tranh ác liệt với địch để bảo vệ các khu đông dân cư, tại Làng Vei, một tiền đồn hẻo lánh gần biên giới Lào - Việt do Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) QLVNCH trấn giữ cũng xảy ra một trận đánh nổi tiếng. Trận Làng Vei so với các cuộc đụng độ khác trong dịp Tết Mậu Thân tuy không mấy quan trọng nhưng lại mang tầm vóc chiến thuật rất đáng kể, v́ đây là lần đầu tiên địch quân xử dụng chiến xa trên chiến trường Việt Nam. Ngoài ra, có lẽ đây cũng là một trận đánh duy nhất trên chiến trường Việt Nam, trong đó tất cả 24 quân nhân Hoa Kỳ tham chiến bên cạnh các chiến sĩ Việt Nam đều được ân thưởng huy chương gồm: 1 Huy Chương Danh Dự (cao qúi nhất), 1 Biệt Công Bội Tinh (hạng nh́), 19 Sao Bạc (hạng 3) và 3 Sao Đồng (hạng 4). V́ vậy về sau mỗi khi khi nhắc đến trận đánh tại Trại LLĐB làng Vei vào đêm 6 rạng ngày 7 tháng 2 năm 1968 này, giới quân sử Hoa Kỳ thường hănh diện mệnh danh là "Đêm Sao Bạc" (Night Of The Silver Stars). Phần tượng thưởng cho 13 quân nhân LLĐB Việt Nam cùng gần 400 Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ) không nghe nói tới.
Chúng ta sẽ lần lượt duyệt qua các chi tiết liên quan, đồng thời phân tích cặn kẽ để độc giả có thể tự nhận xét và kết luận Trận Làng Vei xứng đáng là "Đêm Sao Bạc" hay "Đêm Sao Lạc" trong quân sử LLĐB Hoa Kỳ. Rất tiếc phần tài liệu về phía Việt Nam không có nhiều nên bài viết căn cứ phần lớn vào các sách vở Hoa Kỳ và một số chi tiết khác do anh em LLĐB/VN cung cấp. Tác giả ư thức được rằng việc thuật lại trung thực một trận đánh xảy ra cách đây đă trên 30 năm là điều không dễ dàng, nhất là biến cố đó liên quan tới LLĐB là đơn vị chuyên hoạt động trong khuôn khổ chiến tranh không qui ước V́ vậy, chúng tôi rất mong mỏi được độc giả, nhất là những người trong cuộc vui ḷng bổ khuyết để bài viết được thêm chính xác.
Để dễ dàng theo dơi chi tiết cũng như diễn tiến của trận đánh, chúng ta cũng cần nắm vững vị trí địa dư đặc biệt của trại Làng Vei và t́nh h́nh chiến sự lúc bấy giờ. Trước hết, để tránh lầm lẫn, cần phân biệt các địa danh có tên gần giống nhau được xử dụng trong bài như Làng Vei, Trại Làng Vei, Làng Khe Sanh, căn cứ Khe Sanh v.v… Theo qui ước, tuy những căn cứ quân sự thường dùng tên của địa danh gần nhất, nhưng thật ra là hai địa điểm khác nhau. Thí dụ như Trại Làng Vei hoặc căn cứ Khe Sanh là những vị trí quân sự nằm gần địa điểm hành chánh ghi trên bản đồ mang tên Làng Vei hoặc làng Khe Sanh, nơi người thượng Bru cư ngụ. Chúng tôi dùng danh từ như Làng Vei hay Khe Sanh để chỉ địa danh hành chánh, phân biệt với "trại Làng Vei"hoặc "căn cứ Khe Sanh" là những vị trí quân sự. Ngoài ra, danh từ Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trong bài được dùng để chỉ Trung Đoàn 26, Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ đóng tại căn cứ Khe Sanh v́ TQLC/VNCH không tham dự trận đánh này.
SƠ LƯỢC ĐỊA LƯ VÙNG LÀNG VEI - KHE SANH
[IMG]http://doanket.orgfree.com/dkpict/lv_dmzmap.gif[/IMG]
Trại LLĐB Làng Vei nằm giữa Khe Sanh và Lao Bảo chỉ cách biên giới Lào - Việt chừng 2 cây số trên đường số 9 chạy theo hướng Đông - Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, vượt Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào - Việt tới tận Savannakhet bên Lào. V́ Lào nằm trong đất liền nên người Pháp xây cất đường số 9 để thông thương ra vùng bờ biển Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục lộ chiến lược quan trọng được Cộng Quân xử dụng để xâm nhập người và vũ khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc VNCH. Địa thế vùng Làng Vei thuộc cao nguyên Khe Sanh gần biên giới rất hiểm trở. Mặt Bắc đường số 9 gồm những đồi núi cao khoảng 1000 thước, sườn phủ cỏ tranh như những cây mía lau cao gần đầu người, cạnh lá rất sắc có thể cắt da chảy máu. Cao điểm chế ngự nhất là núi Đồng Trị cao 1015 thước và những ngọn đồi 881, 861 (cao độ tính bằng thược). Dưới thung lũng, rạch Rào Quan quanh co uốn khúc, vào mùa khô chỉ là một ng̣i nước nhỏ rất cạn và hẹp, đáy đầy đá rong rêu trơn trợt, nhưng có thể trở thành những thác nước chảy xiết nguy hiểm vào mùa mưa.
Về phương diện hành chánh, Làng Vei và Khe Sanh thuộc quận Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị với quận đường đặt gần làng Khe Sanh. Về mặt quân sự, Chi Khu Hướng Hóa do một đại úy chỉ huy, gồm một chừng đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) cùng một số cảnh sát. Thông thường có thêm một Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ Binh tăng phái hoạt động trong vùng cùng một Pháo Đội 105 ly (-) với 2 khẩu đặt tại sân bay Khe Sanh và 2 khẩu đặt tại Lang Vei. Sau này, v́ t́nh h́nh an ninh không đuợc khả quan nên Quận Hướng Hóa được di chuyển về vùng Cùa gần căn cứ Mai Lộc.
Về dân cư, v́ là vùng đồi núi hoang dă, khí hậu khắc nghiệt nên chỉ có chừng trên ngàn người Việt cư ngụ, đa số là thân nhân và gia đ́nh nhân viên, binh sĩ phục vụ tại chi khu Hướng Hóa. Sắc tộc thiểu số Bru đông hơn, tổng cộng chừng 50,000 người sống rải rác trên các đồi, núi dọc biên giới Lào, nhưng qui tụ khá đông đảo tại hai làng Khe Sanh và Làng Vei dọc đường số 9. Cũng như những sắc dân thiểu số khác như Rhadê, Hrê v.v..., giống Bru thuộc chủng loại Mă Lai - Polynesia nên đen đúa và khá lực lưỡng. Có khoảng chừng 10,000 người Bru sinh sống tại vùng Khe Sanh, đa số khá văn minh so với nhóm thiểu số Hmong bên Lào, v́ họ có dịp tiếp xúc và làm việc lâu năm với nhóm người Pháp chủ đồn điền cà phê tại đây. Có thể nói nhiều người Bru đă bỏ sóc, bản nơi đồi núi hoang dă để qui tụ thành làng tại Khe Sanh và Làng Vei v́ sự hiện diện của người Pháp tại vùng này.
Người Pháp đầu tiên lập nghiệp tại Khe Sanh tên Eugène Poilane, sinh ngày 16 tháng 3 năm 1888 tại Saint-Sauveur de Landemont bên Pháp. Poilane sang Đông Dương vào năm 1909, thoạt tiên là chuyên viên sửa chữa hải pháo trong Hải Quân Công Xưởng, sau đó làm việc cho viện Bách Thảo Đông Dương, đến năm 1922 trở thành một chuyên viên Kiểm Lâm. Poilane có dịp ghé vùng Khe Sanh lần đầu tiên vào năm 1918, lúc đó c̣n rất hoang vu, chỉ có một ngôi nhà dành cho nhân viên sở Lục Lộ đang làm đường số 9. Với nghề nghiệp chuyên về trồng tỉa và cây cối, biết đất đỏ tại vùng Khe Sanh rất mầu mỡ, thích hợp cho việc mở đồn điền nên tới năm 1926 Poilane quay trở lại Khe Sanh lập một đồn điền cà phê khá rộng lớn. Sau này một phần đồn điền trở thành căn cứ TQLC/HK vào năm 1966. Con đường từ sân bay Khe Sanh tới đường số 9 được đặt tên là đường Poilane. Poilane là một thảo mộc gia có tài lại có đầu óc mạo hiểm, và v́ là nhân viên Thủy Lâm nên có dịp đi lại khắp Đông Dương, qua cả Trung Hoa và Miến Điện để nghiên cứu về cây cỏ. Poilane t́m kiếm được nhiều giống thảo mộc lạ cho thảo cầm viên và gây được nhiều loại hoa lan cũng như cây ăn trái thích hợp với vùng nhiệt đới. Các chủng loại mang tên Poilania và Poilaniella đều do Poilane gây được. Vợ của Poilane tên Bordeauducq là một người đàn bà rất cứng cỏi. Hai người có 5 con, nhưng sau đó ly dị, Poilane lấy vợ kế người Nùng, có thêm 5 con nữa. Bà Bordeauducq cũng chẳng đi đâu xa, chỉ tới một vùng đất cách chỗ ở cũ chừng một cây số, lập một đồn điền riêng. Gia đ́nh Poilane có một phụ tá người Việt rất được tín cẩn là ông Phan Bá Luyện người xă Triệu Ái.
Thấy Poilane khá thành công với nghề trồng cà phê, chẳng bao lâu nhiều người Pháp khác lục tục kéo đến lập nghiệp. Một người tên Simard mở đồn điền và vườn rau gần làng Bru. Một người khác tên Rome có vợ và thợ làm vườn người Nhật khai khẩn đất đai gần đường số 9; họ sống rất huy hoàng trong thời kỳ Nhật chiếm Đông Dương vào thế chiến thứ 2. Sau này, Madeleine Poilane là vợ của Felix Poilane (con trai của Eugène) cho biết gia đ́nh Rome làm việc cho Nhật nên tất cả đều bị giết, kẻ nói là do Việt Minh, người cho là Pháp chủ mưu. Một người Pháp khác gốc Tây Ban Nha tên Llinarès mướn lại đồn điền Rome để khai thác. Mặc dù Llinarès chẳng ưa ǵ Việt Cộng v́ đă bị mất hết tài sản khi di cư từ Bắc vào Nam, nhưng người vợ Việt Nam của Llinarès lại là cảm t́nh viên vẫn đóng thuế cho Việt Cộng. Cho tới khi hai công nhân bị giết, vợ của Llinarès sợ hăi mới dứt khóat bỏ luôn Khe Sanh. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1964, Việt Cộng phục kích xe hơi chở Poilane và Llinarès trên đường về Đông Hà khiến Poilane bị chết, c̣n Llinarès sống sót. Sau vụ "dằn mặt" này, vẫn c̣n một số người Pháp sống tại Khe Sanh, nhưng đều phải đóng thuế cho Việt Cộng để yên ổn làm ăn . Các đồn điền cà phê tại vùng Khe Sanh là nơi người Pháp thường lui tới để nghỉ mát và săn bắn. Vào khoảng tháng giêng năm 1962, c̣n thêm một gia đ́nh người Mỹ tên John và Carolyn Miller thuộc một hội truyền giáo tới Khe Sanh để làm việc tại làng Bru nằm giữa Làng Vei và Khe Sanh trên đường số 9. Họ phát minh ra cách viết chữ Bru để in kinh thánh và dạy người Bru cách đọc và viết. Một mục sư người Việt tên Bùi Tấn Lộc cũng giúp đỡ gia đ́nh Miller trong việc truyền giáo, nhưng sau này, v́ chi Khu Hướng Hóa không bảo vệ được an ninh nên bị Việt Cộng hăm dọa thường xuyên, tất cả đều phải rời Khe Sanh. Ngoài nhà thờ Tin Lành của mục sư Lộc, c̣n có nhà thờ Công Giáo của linh mục người Pháp tên Poncet xây dựng vào năm 1964. Một số tu sĩ Công Giáo thuộc Địa Phận Huế cũng đến vùng Khe Sanh lập một đồn điền nhỏ để tự sinh sống và truyền giáo.
KẾ HOẠCH CHỐNG XÂM NHẬP
Tuy đường số 9 chỉ là một trục giao thông nhỏ, coi như bị bỏ hoang từ lâu, nhưng trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, khu vực này lại là một chiến trường quan trọng, nơi xảy ra nhiều trận đánh lớn. Lư do v́ con đường này đẫn sang Lào, lại nằm trong vùng đồi núi hiểm trở nên rất thuận tiện cho quân Bắc Việt đưa người và vũ khí xâm nhập các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc cực Bắc miền Nam Việt Nam. Để ngăn chận đối phương, người Mỹ đă lập hàng rào điện tử McNamara theo h́nh ṿng cung dọc theo mặt Bắc đường số 9, hướng Đông kéo dài từ Cửa Việt sát biển tới Khe Sanh gần biên giới Lào. Như vậy, Khe Sanh là điểm cực Tây của hàng rào McNamara nằm trong phần đất Việt Nam. Ngay đối diện với biên giới Lào - Việt, quân Bắc Việt đă xây dựng khu hậu cần mang bí danh 611 từ khi Binh Đoàn 559 được thành lập vào tháng 5 năm 1959 với mục đích tiếp vận cho chiến trường giới tuyến Quảng Trị. Một hậu cần khác mang bí danh 604 cũng nằm trên phần đất Lào, nhưng xa hơn về phía Nam đối diện với vùng Ashau của Việt Nam, được dùng như kho quân nhu và điểm dưỡng quân trước khi xâm nhập tỉnh Thừa Thiên. Cả hai khu hậu cần này đều là những điểm tiếp liệu quan trọng nằm trong hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh nối liền bằng nhiều binh trạm. Từ năm 1962, ngoài số quân pḥng vệ cơ hữu khoảng chừng một tiểu đoàn tại mỗi binh trạm, lực lượng Bắc Việt thường có các Sư Đoàn 304 và 324 bố trí tại vùng đường số 9 trên phần đất Lào. Ngoài ra, c̣n có Sư Đoàn 325 đồn quân ngay phía Bắc vùng phi quân sự thuộc khu vực Vĩnh Linh để làm trừ bị.
Ngay từ thời chiến tranh Đông Dương 1946-1954, Cộng quân luôn dùng phần đất Lào để làm địa bàn xâm nhập người và vũ khí tiếp nhận từ biên giới Hoa-Việt xuống chiến trường miền Nam. Miền Trung Việt Nam rất hẹp nên các lực lượng Liên Hiệp Pháp dễ dàng dàn quân ngăn chặn; ngược lại, vùng biên giới Lào Việt rất hoang vu khó phát hiện nên những đoàn dân công Việt Cộng thường di chuyển qua Lào trước khi tạt vào cạnh sườn Việt Nam. Sau một thời gian lắng đọng khi hiệp định Genève được kư kết vào năm 1954, tới tháng 12 năm 1958, Cộng quân lại dùng đường cũ, xử dụng vùng đất Lào sát khu phi quân sự để chuẩn bị xâm nhập miền Nam Việt Nam.
[IMG]http://doanket.orgfree.com/dkpict/lv_ksmapc.gif[/IMG]
Tưởng cũng nên nói Khối Liên Pḥng Đông Nam Á (SEATO) mà Nam Việt Nam là một hội viên cũng có kế hoạch trên giấy tờ dự pḥng ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân bằng cách giàn lực lượng dọc vùng Phi Quân Sự và vùng cán chảo bên Lào. Cứ 2 năm một lần, các hội viên SEATO lại duyệt xét kế hoạch ngăn chặn này trên sa bàn. Năm 1958, cuộc thực tập được đặt tên là Strongback và năm 1960 mang tên Blue Star. Đặc biệt vào năm 1962, khi cường độ xâm nhập của Cộng quân từ Bắc xuống Nam gia tăng rơ rệt với những hoạt động của đoàn 559, SEATO họp tại Phi Luật Tân cho thực tập kế hoạch TULUNGU (tiếng Phi có nghĩa là Hỗ Tương Yểm Trợ), c̣n được gọi là Kế Hoạch 5. Cuộc thao dượt diễn ra tại đảo Mindoro tượng trưng cho miền Nam Việt Nam với giả thuyết Cộng quân trực tiếp tấn công các tiền đồn với ư đồ xâm lăng Nam Việt Nam. Dĩ nhiên, cuộc thao diễn này rất gần với thực tế nên được Hoa Kỳ quyết tâm hỗ trợ. Tướng Maxwell D. Taylor và cố vấn Walt W. Rostow thuộc Hội Đồng An Ninh Hoa Kỳ được gửi sang Việt Nam để bàn thêm về việc kiểm soát biên giới. Phái bộ Taylor – Rostow đề nghị Việt Nam thành lập một đơn vị mệnh danh là "Lực Lượng Biên Pḥng Tây Bắc" (Northwest Frontier Force) gồm 3,300 biệt động quân biên pḥng, chia thành 23 đại đội, hoạt động tại 5 tỉnh trong lănh thổ Việt Nam giáp ranh Lào, với nhiệm vụ tuần pḥng và b́nh định lănh thổ biên giới không cho địch quân xâm nhập. Riêng vùng Làng Vei, Khe Sanh và Làng Tà Cớn có nhiều người thượng Bru sinh sống nên mọi nỗ lực đều nhắm vào sắc dân này. Mục tiêu là dùng người địa phương đă quen thuộc với thủy thổ, địa thế để dễ dàng hoạt động và cũng ngăn chận địch quân không kiểm soát đuợc dân trong vùng. Đáng tiếc, Lực Lượng Biên Pḥng Tây Bắc chỉ là một kế hoạch trên giấy tờ, không được thành h́nh trên thực tế v́ thiếu quân số.
Tuy nhiên, v́ không thể để địch quân tự do xâm nhập làm ung thối miền Nam Việt Nam nên vào năm 1961, Tướng Lionel C. McGarr, Trưởng Phái Bộ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam lại đề nghị kế hoạch lập một "ṿng đai kiểm dịch" (cordon sanitaire) dọc theo biên giới để ngăn chặn sự bộ đội miền Bắc. Nhưng v́ phải tốn quá nhiều quân và tài nguyên để thực hiện nên kế hoạch bị bác bỏ. Sau đó, chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ đồng ư lập kế hoạch "kiểm soát biên giới" hay "Dân Sự Chiến Đấu" (Civil Irregular Defense Group) do CIA tài trợ với sự trợ giúp của LLĐB Hoa Kỳ trong việc huấn luyện. Theo kế hoạch này, CIA sẽ tuyển mộ những người Thượng tại địa phương để huấn luyện thành những toán pḥng thủ, tuần pḥng cũng như thám sát dọc theo biên giới.
Trước sư gia tăng xâm nhập của CQ, cả hai chính phủ Lào và Nam Việt Nam đều biết rơ và muốn ngăn chận, nhưng v́ lực luợng quân sự Lào quá yếu nên không đủ sức. Riêng VNCH v́ muốn thâu thập tin tức t́nh báo nên đă bí mật giàn xếp với chính phủ Hoàng Gia Lào cho phép những toán biệt kích người Việt ăn mặc quân phục Lào được hoạt động trên lănh thổ Lào. Kế hoạch thám sát này mang bí danh Lôi Vũ, do các quân nhân thuộc Liên Đoàn 1 Quan Sát thực hiện và được đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Trần Khắc Kính, Chỉ Huy Phó Sở Liên Lạc. Với sự trợ giúp của Đại Tá Gilbert Layton, Trưởng Toán Nghiên Cứu Hỗn Hợp (Combined Studied Division) là một bộ phận của Trung Ương T́nh Báo (CIA) thuộc Toà Đặi Sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n, Thiếu Tá Kính tổ chức được 15 toán Lôi Vũ, mỗi toán 14 người, được bí mật huấn luyện tại trại Hồ Ngọc Tảo, gần trường Bộ Binh Thủ Đức. Các toán Lôi Vũ bắt đầu hoạt động từ tháng 8-1961, nhảy dù xuống các vùng Atopeu, Tchépone bên Lào. Đến đầu năm 1962, các hoạt động Lôi Vũ không c̣n dùng đường hàng không mà dùng đường bộ xuất phát từ Khe Sanh, Lao Bảo xâm nhập dọc theo đường số 9 để hoạt động tại vùng Tchépone và Mường Nông. Tới tháng 10-1962, v́ thỏa ước ngưng bắn tại Lào được kư kết với điều khoản toàn bộ quân đội ngoại quốc phải ngưng hoạt động, những cuộc thám sát Lôi Vũ cũng chấm dứt. Tổng cộng, các toán thám sát đă thực hiện được 41 chuyến công tác, mỗi chuyến kéo dài từ một tuần đến 3 tháng trên phần đất Lào. Nếu thâu thập được thêm tài liệu và cơ hội thuận tiện, chúng tôi sẽ có bài riêng về hoạt động Lôi Vũ, tiền thân của các toán thám sát thuộc Sở Liên Lạc và Nha Kỹ Thuật sau này.
Tuy các hoạt động Lôi Vũ chấm dứt, nhưng chẳng bao lâu, các cuộc hành quân thám sát khác lại tiếp tục, v́ Việt Cộng không chịu rút quân theo thỏa hiệp ngưng bắn. Lào vẫn được dùng làm địa bàn để xâm nhập người và vũ khí, v́ vậy, các toán Biệt Kích Việt Nam được sự trợ giúp trực tiếp của cơ quan CIA và LLĐB/HK lại thực hiện những công tác bí mật dọc theo biên giới. V́ nhu cầu hành quân, chẳng bao lâu LLĐB nhận thấy cần phải thiết lập một trại biên pḥng tại vùng Khe Sanh - Làng Vei.