Có tin lính việt cộng bị xích vào xe tăng trong trận chiến Làng Vây ( Lang Vei)
[QUOTE=alamit;164053][B]Tài liệu CS Việt nam: Trận tiến công cứ điểm Làng Vây 1968
[/B]
[/QUOTE]
Link:[url]http://www.freerepublic.com/focus/f-news/875133/posts[/url]
[B]
Thread: BRITISH TROOPS KNOCKOUT 20 IRAQI TANKS (Basra)[/B]
Trích đoạn:
To: [B]VOA[/B]
Wasn't it at the battle of Lang Vei that they found the [B][COLOR="#B22222"]NVA tankers chained inside their machines[/COLOR][/B]? Wonder if we have a repeat?
[B]20[/B] posted on[B] Tuesday, March 25, 2003 10:47:18 AM[/B] by [B]x1stcav[/B] (HooAhh!)
Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
[B]Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu
Nhảy Toán Nha Kỹ Thuật / Họ là ai ?[/B]
[I]Cho những anh em mang CAR15, Swedish K, ḿn chống chiến xa, dây bắt tù binh, đạn dược, lương khô, gạo sấy, lội bộ ngày đêm xâm nhập trên núi rừng Bắc Việt những mật khu trong Nam và đặc biệt cho những Chiến Sĩ VNCH chiến đấu anh dũng v́ lư tưởng Tự Do đă vĩnh viễn nằm xuống trên quê hương thân yêu.
[/I]
[CENTER][IMG]http://3.bp.blogspot.com/_aH1bx2ubVuk/TKU29t7vWeI/AAAAAAAAQAM/kDz-tx1XM6U/s320/LOGO+NKT%282%29.jpg[/IMG]
[IMG]http://img128.imageshack.us/img128/6002/nktbttmmacvsogzn2.jpg[/IMG]
[/CENTER]
Mục đính của người viết bài này không ngoài hoài băo cung cấp cho các cựu quân nhân và cựu nhân viên dân chính đă từng phục vụ trong các đơn vị trực thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH (Nha Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu/Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa) hiện định cư tại Hoa Kỳ cũng như tại các quốc gia khác trên thế giới tự do, một sự hiểu biết tổng quát về sự tổ chức cũng như những hoạt động đặc biệt của đơn vị này. V́ tính cách đặc biệt về tổ chức và nhiệm vụ của Nha Kỹ Thuật/BTTM, ngay chính những quân nhân phục vụ tại một đơn vị của Nha Kỹ Thuật/BTTM cũng không hiểu rơ trọn vẹn về đơn vị này. Do đó, nếu có sự hiểu lầm hay một sự hiểu biết thiếu chính xác của một số đơn vị bạn cũng không phải là một điều ngạc nhiên.
Danh hiệu Nha Kỹ Thuật/BTTM chỉ là một danh hiệu "vỏ bọc" để bảo vệ những hoạt động thực sự đối với Cộng Sản cũng như đối với các đơn vị bạn khác. Nha Kỹ Thuật/BTTM có danh xưng chánh thức gọi là Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ, được phân cấp ngang hàng với một sư đoàn tổng trừ bị, và được chỉ huy bởi một sĩ quan ở cấp bậc thiếu tướng.
Nha Kỹ Thuật/BTTM trải qua rất nhiều lần cải danh và thay đổi về tổ chức và nhiệm vụ, tùy theo sự biến chuyển về t́nh h́nh chính trị quốc nội cũng như t́nh h́nh quân sự trên chiến trường. Trước khi đi sâu vào vấn đề này, tác giả xin mạn phép tŕnh bày sơ lược về cá nhân và sự liên hệ đối với Nha Kỹ Thuật/BTTM kể từ năm 1961 cho đến ngày chính thức giải tán đơn vị này (28 tháng 4 năm 1975) do khẩu lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng/QLVNCH, trước khi đại tướng từ chức vụ Tham Mưu Trưởng.
Vào cuối năm 1960, trong khi phục vụ tại một đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh (BB) đồn trú tại Quảng Trị, tôi đă được lệnh cấp tốc tŕnh diện Phủ Tổng Thống. Thật là một ngạc nhiên to lớn đối với một cấp úy nhỏ như tôi. Sau khi được chỉ huy trưởng đơn vị cấp sự-vụ lệnh, tôi được một vị đại diện Phủ Tổng Thống từ Huế ra đón và đưa thẳng về Đà nẵng. Tại đây, tôi lại được một đơn vị khác tiếp xúc, bắt tôi thay thường phục và đưa ra phi trường đáp phi cơ Air Việt Nam về Saigon. Tại Phi trường Tân sơn nhất, tôi lại được một đơn vị khác đón và đưa về một căn nhà tại khu Tân Định, nằm trong một ngơ hẹp. Dù tôi có ư gợi chuyện trong lúc đi đường, các vị này đều có vẻ huyền bí và rất ít nói chuyện.
Tại căn nhà này, tôi lại càng ngạc nhiên hơn v́ lần đầu tiên tôi được gặp và giới thiệu với một số nhân viên Hoa Kỳ. Tôi không biết các vị này cả Việt lẫn Mỹ, thuộc đơn vị hay cơ quan nào. Tôi cũng chưa biết vị chỉ huy tôi là ai, quân nhân hay dân sự. Một nhân viên Hoa kỳ có vẻ ngạc nhiên về khả năng Anh văn của tôi. Tôi cho ông ta biết là tôi đă tốt nghiệp khóa 6 tháng thông dịch viên Anh ngữ tại Hội Việt Mỹ vào đầu năm 1958. Tôi muốn nhắc đền sự việc này v́ nhờ sự hiểu biết về anh văn mà tôi được giữ những chức vụ có liên quan đến việc tiếp xúc với cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ sau này. V́ nhân viên Hoa Kỳ này cho tôi biết là ngày hôm sau tôi sẽ được tham dự khóa "t́nh báo đặc biệt" do các nhân viên t́nh báo Hoa kỳ đảm trách hướng dẫn. Người Mỹ gọi là khóa "Clandestine Operation" được huấn luyện cho các nhân viên điệp báo hoạt động tại hậu tuyến địch. Nói tóm lại đây là khóa huấn luyện gián điệp. Tôi có hỏi sau khóa này tôi sẽ làm ǵ nhưng không ai xác định ǵ cả. Họ chỉ cho biết là sau khóa huấn luyện tôi sẽ trở thành một "Case Officer" hay là "trưởng công tác." Danh xưng của tôi được đổi thành Emile, cũng như các học viên khác là Leon, Antoinne, Charles, v.v.
Thật ra các tên tây phương này được đặt ra để giúp cho người Mỹ dễ nhớ trong khi huấn luyện cũng như khi hợp tác làm việc sau này. Ngoài các tên này, chúng tôi được gọi bằng những bí danh khác với mục đích bảo vệ lư lịch, đề pḥng đối phương theo dơi trong thời gian liên hệ với công tác t́nh báo. Đây chỉ là một trong những nguyên tắc căn bản của ngành điệp báo. Sau khóa học kéo dài 4 tuần lễ, tôi được các vị huấn luyện viên Hoa Kỳ khen thưởng về sự cố gắng và thông suốt các nguyên tắc của ngành t́nh báo. Sau đó, tôi được tŕnh diện đầu tiên với người chỉ huy trực tiếp của tôi là Trưởng Pḥng 45 của Sở Khai Thác Địa H́nh trực thuộc Phủ Tổng Thống. Tôi rất mừng rỡ v́ người chỉ huy trực tiếp của tôi là Đại Úy B́nh ("B́nh" là bí danh của Đại Úy Ngô Thế Linh) mà tôi đă làm dưới quyền tại Pḥng 3/Quân Đoàn 1 tại Đà Nẵng vào đầu năm 1958.
Sự nghiệp quân sự của tôi, giai đoạn có ư nghĩa nhất là bắt đầu khóa học t́nh báo đặc biệt này cho đến ngày cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) vào cuối tháng 4 năm 1975. Với hơn 14 năm được phục vụ tại một đơn vị đặc biệt, giữ những chức vụ tuy nhỏ nhoi nhưng được gần gũi với các cấp chỉ huy cao cấp và được sự tin tưởng của các vị này, cũng như các vị cố vấn Hoa Kỳ cao cấp, tôi đă theo dơi và chứng kiến các hoạt động của Nha Kỹ Thuật/BTTM, sự cải danh của cơ quan này, từ vị trí của một pḥng-sở nhỏ trở thành một đại đơn vị có tầm mức chiến lược quan trọng.
H́nh chụp các binh sĩ Việt-Mỹ trong toán biệt kích Idaho
Sự bành trường và lớn mạnh của Nha Kỹ Thuật/BTTM đều tùy thuộc và ảnh hưởng bởi các biến chuyển của t́nh h́nh chiến sự quốc nội, t́nh h́nh chính trị trên thế giới, đường lối chỉ đạo của Hoa Kỳ đối với chiến cuộc tại Việt Nam và cuối cùng là khả năng hoạt động của các đơn vị thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM.
Những tài liệu tŕnh bày sau đây đều dựa theo trí nhớ của tôi. Do đó, về thời gian và không gian có thể có một vài sự sai lầm nhỏ hoặc một chút thiếu sót. Tôi nghĩ rằng dù nếu có một vài sự thiếu sót, ư nghĩa và mục đích của bài này sẽ không sai lạc và các điểm chính yếu tôi muốn nêu ra vẫn được bảo đảm.
Sở Khai Thác Địa H́nh trực thuộc Phủ Tổng Thống, lúc bấy giờ do Đại Tá Lê Quang Tung là Chỉ huy trưởng. Đơn vị này được giao phó rất nhiều công tác t́nh báo quan trọng, về quốc nội cũng như quốc ngoại, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu và Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Trong các cơ cấu t́nh báo, Pḥng 45 hay Pḥng E được đặc trách hoạt động thu thập tin tức t́nh báo tại miền Bắc Vĩ Tuyến 17, với các hệ thống điệp báo nằm vùng xâm nhập từ Miền Nam hoặc từ đệ tam quốc gia bạn. Tại nội bộ đơn vị, Sở Khai Thác Địa H́nh, cũng được gọi là KHIÊM QUANG, mỗi chữ biểu hiệu cho một pḥng của đơn vị. Pḥng E sau này c̣n được gọi là SB (viết tắt cho Sở Bắc). Kể từ năm 1960 trở đi, hoạt động điệp báo tại miền Bắc được đặc biệt chú trọng v́ nhu cầu tin tức chiến lược nhằm ước tính khả năng của Cộng Sản, hầu ngăn chặn mưu đồ xâm lược của miền Bắc.
Để yểm trợ tài chính và kỹ thuật cho các công tác đặc biệt này, cơ quan Combined Studies thuộc ṭa đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon được giao phó phối hợp và đảm trách. Công tác t́nh báo và các hoạt động đặc biệt đều do Cơ Quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ (tức cơ quan CIA, Central Intelligence Agency) cố vấn và tài trợ v́ vấn đề kỹ thuật phức tạp và phí tổn to lớn. Cơ quan Combined Studies cung cấp chuyên viên, tin tức t́nh báo căn bản, các tài liệu và vật dụng cần thiết, cũng như nhu cầu tài chính để hoàn thành công tác.
V́ bài này chỉ giới hạn về tổ chức và nhiệm vụ tổng quát của Nha Kỹ Thuật/BTTM và các tổ chức tiền thân, nên tôi sẽ không đề cập đến chi tiết các hoạt động, cách tổ chức các toán công tác cũng như thành quả của các toán này. Tôi mong rằng sẽ có cơ hội tŕnh bày trong những bài kế tiếp.
Vào đầu năm 1963, Sở Khai Thác Địa H́nh được biến cải thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), với hai đơn vị chiến đấu ṇng cốt là Liên Đoàn 77 và Liên Đoàn 31. Đại Tá Lê Quang Tung cũng là vị tư lệnh đầu tiên của đơn vị này. Sở Bắc vẫn tiếp tục hoạt động và duy tŕ sự phối hợp với cơ quan Combined Studies của Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ, trong khuôn khổ tổ chức của Bộ Tư Lệnh LLĐB mới thành lập. Sau cuộc chính biến năm 1963, Đại Tá Lê quang Tung bị sát hại, Lực Lượng Đặc Biệt sau đó được chỉ huy bởi một số tướng lănh trong quân đội, sau đó dời về Nha Trang.
Cũng trong thời gian này, Sở Bắc cũng được cải danh là Sở Khai Thác/BTTM và tiếp tục duy tŕ công tác đặc biệt, tách rời khỏi Lực Lượng Đặc Biệt. Vị sĩ-quan chỉ huy trưởng và giám đốc đầu tiên của đơn vị này là Đại Tá Trần Văn Hổ. Ngoài việc đảm trách công tác văn pḥng, liên lạc phối hợp với ban Cố Vấn Hoa Kỳ, tôi vẫn tiếp tục tổ chức các toán với tư cách sĩ quan trưởng công tác. Một thời gian sau, Đại Tá Hổ chỉ định tôi làm Chánh Văn Pḥng. Song song với sự cải tổ về phía Việt Nam, Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (tức "MACV," viết tắt của Military Assistance Command Vietnam) thay thế cho cơ quan MAAG (viết tắt của Military Assistance and Advisory Group, tức Bộ Quân-Viện và Cố Vấn) của Hoa Kỳ, cũng được thành lập. MACV-SOG là viết tắt của các chữ MACV-Studies and Observations Group, nhưng chính danh là Special Operation Group, được chỉ định cố vấn và yểm trợ cho các công tác đặc biệt.
Ngoài các toán t́nh báo dài hạn xâm nhập miền Bắc bằng không-vận hay hải-vận và công tác Biệt Hải tập kích đánh phá các mục tiêu thuộc miền Bắc duyên hải. Sở Khai thác lại được lệnh tổ chức các toán thám sát ngắn hạn hoạt động tại vùng biên giới Việt-Lào nằm về phía bắc Vĩ Tuyến 17 cho đến Vĩ Tuyến 20. Các toán này được gọi là các toán STRATA (viết tắt của các chữ Short Term Reconnaisance and Target Acquisition teams). Hai đoàn công tác chính yếu của công tác không vận lúc bấy giờ là Đoàn 68 đảm trách các công tác dài hạn và các công tác đặc biệt, khác với Đoàn 11 phụ trách các công tác ngắn hạn.
Cũng trong thời gian này, v́ nhu cầu khẩn cấp của chiến trường, Sở Khai Thác được chỉ thị huấn luyện các Toán Thám Sát đặc biệt mệnh danh là Shinning Brass tại căn cứ huấn luyện Long Thành, sau này gọi là Trung Tâm Huấn luyện Quyết Thắng. Sở Liên lạc/BTTM cũng được thành lập trong thời gian này để đảm trách các công tác ngoại biên Việt-Miên và Việt-Lào. Đây là các toán "Lôi Hổ" có nhiệm vụ thám sát, phá hoại các mục tiêu trọng yếu của địch, cùng với các công tác chỉ điểm mục tiêu cho các phi vụ không kích hoặc đánh phá xử dụng các lực lượng khai thác (exploitation forces). Vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Đại Tá Hồ Tiêu, trước phục vụ tại Sư Đoàn Nhảy Dù. Sau đó Sở Liên Lạc được tiếp tục chỉ huy bởi các vị chỉ huy trưởng thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù. Các cuộc hành quân thám sát biên giới phát triển mạnh mẽ vào các năm 1966-72, đặc biệt dưới sự chỉ huy của Đại Tá Liêu Quang Nghĩa. Các vị chỉ trưởng sau này là Đại tá Nguyễn Văn Minh và Đại Tá Nguyễn Minh Tiến.
Huy hiệu Lôi Hổ
Sở Liên Lạc (Biệt Kích Lôi Hổ) gồm có một Bộ Chỉ Huy và 3 chiến đoàn tại Saigon, và 3 chiến đoàn khác đồn trú tại các khu vực khác để thích hợp với khu vực hoạt động. Những chiến đoàn biệt-kích gồm có: - Chiến Đoàn 1 đồn trú tại Đà Nẵng - Chiến Đoàn 2 đồn trú tại Kontum - Chiến Đoàn 3 đồn trú tại Ban mê Thuột
Song song với các chiến đoàn này, MACV-SOG cũng có những cơ sở hành quân riêng rẽ đồn trú chung cùng doanh trại với các chiến đoàn. Kế hoạch hành quân được phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ Chỉ Huy Hoa Kỳ và Việt Nam liên hệ. Mỗi chiến đoàn có nhiều liên-toán và mỗi liên-toán gồm có nhiều toán nhỏ hơn. Các toán này được tổ chức huấn luyện và hành quân theo kỹ thuật của Lực Lượng Đặc Biệt. Sự khác biệt là các toán của Sở Liên lạc có nhiệm vụ hoạt động vượt biên giới, ngoài lănh thổ, và ngay trong ḷng địch.
Khoảng năm 1965-66, Sở Khai Thác/BTTM lại được đổi danh là Sở Kỹ thuật và sau đó không bao lâu, sở này được nâng lên thành Nha Kỹ Thuật/BTTM, chỉ huy bởi một vị giám đốc, cho phù hợp với tổ chức mới. Lúc bấy giờ Nha Kỹ Thuật gồm có các đơn vị hoạt động trọng yếu như sau:- Sở Liên Lạc với Đoàn 11 và Đoàn 68 (Sở Công Tác được thành lập sau này) - Sở Không Yểm - Sở Pḥng Vệ Duyên Hải - Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng - Sở Tâm Lư Chiến (tuy là một sở của Bộ Chỉ Huy nhưng sở này có tầm hoạt động rộng lớn và quan trọng)
Sở Công Tác sau này được thành lập với hai đoàn công tác 11 và 68. Sau khi Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, Nha Kỹ Thuật được tăng cường sĩ quan cán bộ cũng như nhân viên toán hành quân. Các đoàn kế tiếp được thành lập là Đoàn 71, 72 và Đoàn 75. Thời gian đầu tiên, Bộ Chỉ Huy Sở đồn trú tại Nha Trang sau đó dời ra Đà Nẵng. Các Đoàn 11, 71 và 72 đồn trú tại Đà Nẵng. Đoàn 75 tại Ban Mê Thuột. Đoàn 68 vẫn tiếp tục duy tŕ tại Saigon, gần Bộ Chỉ Huy Nha.
Đoàn 68 được giao phó tổ chức và hướng dẫn các toán t́nh báo dài hạn tại miền Bắc. Các toán được xâm nhập bằng trực thăng từ lănh thổ đệ tam quốc gia hoặc nhảy dù vào khu vực mục tiêu tại miền Bắc. Một số toán hoạt động tại vùng duyên hải đông-bắc được đặt kế hoạch xâm nhập bằng hải vận. Nhiệm vụ chính yếu của các toán này là thiết lập căn cứ hoạt động, quan sát và thám sát các mục tiêu, báo cáo về trung ương để nhận chỉ thị hoạt động.
Các khu vực mục tiêu trọng yếu nằm dọc theo biên giới Hoa Việt, khu vực đông-bắc Cao Bắc Lạng, khu vực Tây Bắc, Sơn La, Lai Châu, khu vực Bắc vĩ tuyến, Thanh Nghệ Tĩnh B́nh. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là quan sát và báo cáo mọi chuyển quân của Bắc Việt trên các trục giao thông qua biên giới và xuống miền Nam. Các hoạt động trên bắt đầu giảm sút kể từ năm 1968.
Các toán thám sát ngắn hạn thuộc Đoàn 11 lại được gia tăng và chú trọng hơn trong khi lực lượng chính quy Bắc Việt ào ạt xâm nhập miền Nam qua các hành lang biên giới. Tuy vậy Đoàn 68 vẫn tiếp tục đảm trách các công tác đặc biệt khác, nhằm đánh lừa địch qua việc sử dụng các hồi chánh viên cũng như tù binh chính quy, phối hợp với Sở Tâm Lư Chiến.
Kể từ 1972 trở về sau, địa bàn hoạt động của các Toán thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM được thu hẹp lại cho thích hợp với nhu cầu chiến trường. Do đó, các đoàn và chiến-đoàn công tác đều được tăng phái cho các quân-đoàn và thực hiện những cuộc hành quân thám sát nội biên sau hậu tuyến địch, nhằm mục đích cung cấp cho Quân Đoàn những tin tức xác thực để khai thác.
Vị chỉ huy trưởng đầu tiên của Sở Công Tác là Đại Tá Ngô Thế Linh, nguyên Phó Giám Đốc Nha Kỹ Thuật/BTTM. Các vị chỉ huy kế tiếp là Đại Tá Nguyễn Văn Hai và Đại Tá Ngô Xuân Nghị trước phục vụ tại Sư Đoàn Nhảy Dù.
Để yểm trợ cho các toán hành quân không-vận của Sở Liên Lạc và sở Công Tác, Sở Không Yểm có nhiệm vụ liên lạc với Bộ Tư Lệnh Không Quân, đáp ứng nhu cầu hành quân của Nha Kỹ Thuật. Các nhu cầu này gồm phương tiện trực thăng xâm nhập và triệt xuất, các phi vụ thả toán xử dụng phi cơ từ C-47 đến C-123 và C-130 do phi hành đoàn Không Quân Việt Nam thực hiện.
Các phi vụ quan sát bằng phi cơ L-19 hay L-20, các phi vụ bảo vệ bằng A-1 Skyraiders hay khu-trục cơ F-5. Các đơn vị Không Quân này không trực thuộc Nha Kỹ Thuật nhưng các phi vụ đặc biệt này đều được ưu tiên thực hiện theo nhu cầu. Đặc biệt, Phi Đoàn Trực Thăng 219 được thường xuyên tăng phái cho Nha Kỹ Thuật/BTTM. Đơn vị này đồn trú tại Nha Trang. Những phi vụ đặc biệt, ngoài khả năng của Không Quân Việt Nam đều do Không quân Hoa kỳ đảm trách, xuất phát từ các căn cứ trên lănh thổ Đệ Tam Quốc Gia.
Trước năm 1964, một số phi vụ thả các toán biệt-kích vào lănh thổ Bắc Việt được thực hiện với các phi hành đoàn ngoại quốc do cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đảm trách và hoạch định qua hăng Air America tại Saigon. Sĩ quan liên lạc Không Quân và cũng là chỉ huy trưởng Sở Không Yểm từ năm 1961 cho đến tháng Tư năm 1975 là Đại Tá Dư Quốc Lương.
Nói về các hoạt động đặc biệt của Nha Kỹ Thuật mà không đề cập đến các công tác hải-vận là một thiếu sót đáng kể. Công tác hải-vận đưa đón các quân nhân Biệt Hải của Nha Kỹ Thuật/BTTM được giao phó cho Sở Pḥng Vệ Duyên Hải. Tiền thân của Sở này là căn cứ "Pacific," trong hệ thống tổ chức của Pḥng 45 thuộc Sở Khai Thác Địa H́nh. Sở Pḥng vệ Duyên Hải được chính thức hoạt động Khoảng cuối năm 1964 và đầu 1965. Trước đó phương tiện xâm nhập các nhân viên điệp báo và các toán tại các vùng duyên hải Bắc Việt đều xử dụng các thuyền máy đánh cá, sửa chữa lại theo kiểu thuyền miền Bắc. Các thuyền này được đưa về Đà Nẵng để huấn luyện và thực tập về công tác xâm nhập cùng với nhân viên hay toán hoạt động.
Sau này v́ khả năng có giới hạn của các thuyền này và v́ nhu cầu tốc độ và khả năng chiến đấu để bảo vệ, cơ quan t́nh báo Hoa kỳ đă cung cấp cho Nha Kỹ Thuật/BTTM các loại chiến đỉnh SWIFT và NASTY, do một số thủy thủ đoàn ngoại quốc chỉ huy. Các chiến đỉnh này có tốc dộ nhanh và được vơ trang để tự vệ nếu bị Hải Quân Bắc Việt tấn công. Tuy vậy, các tàu này chỉ có tầm hoạt động ngắn, không qua Vĩ Tuyến 20. Sau này, sau khi MACV-SOG đảm trách yểm trợ Nha Kỹ Thuật/BTTM, Sở Pḥng vệ Duyên Hải được tăng cường các chiến đỉnh lớn PTF (viết tắt của chữ Patrol, Torpedo, Fast tạm dịch "thủy-lôi giang tốc đỉnh" hay "thủy-lôi duyên tốc đỉnh.") có tầm hoạt động xa, tốc độ nhanh và trang bị hỏa lực mạnh. Các loại tàu này không những có khả năng tự vệ mà c̣n có khả năng đánh phá và tấn công các mục tiêu Cộng Sản nếu cần. Bộ Tư lệnh Hải Quân cũng được chỉ thị cung cấp các thủy thủ đoàn cho các chiến đỉnh này. Các hoạt động đặc biệt do Sở Pḥng Vệ Duyên Hải thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát và trách nhiệm của Nha Kỹ Thuật/BTTM, không có liên hệ nào đối với Bộ Tư Lệnh Hải Quân và hoàn toàn được bảo mật tối đa. Các thủy thủ đoàn này đều nằm trong Lực Lượng Hải tuần trực thuộc Sở Pḥng Vệ Duyên Hải. Sở này được một vị sĩ quan cấp tá do Bộ Tư Lệnh Hải Quân biệt phái chỉ huy. Vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Ngô thế Linh (từ năm 1964 đến 1966), sau đó là Trung Tá Hồ văn Kỳ Thoại, sau này được thăng cấp đề đốc. Các toán người nhái và hoạt động được gọi là Lực Lượng Biệt Hải và thuộc Lực Lượng Biệt Hải của sở này. Các toán này được huấn luyện và thi hành những công tác đặc biệt tương đương với các toán biệt-hải SEAL (Sea Air Land) của Hải Quân Hoa Kỳ. Các toán viên Biệt-Hải được huấn luyện về bơi lội, xử dụng đồ lặn scuba, nhảy dù, và những kỹ thuật hành quân đặc biệt khác.
Các toán có thể xâm nhập bằng cách nhảy dù xuống các vùng mục tiêu dọc theo miền duyên hải, xử dụng băi nhảy sát bờ biển hay cả trên mặt nước. Sau khi hoàn thành công tác, các quân nhân Biệt-Hải có thể triệt xuất bằng cách bơi ra khơi để được tàu tiếp đón và đưa về căn cứ ở miền Nam. Các công tác này rất nguy hiểm nên phải được thiết kế một cách chi tiết và thận trọng. Sau Hiệp Định Paris, hoạt động của Sở này bị giảm thiểu đáng kể và sau đó được tăng phái hành quân cho các quân đoàn để thi hành một vài công tác đặc biệt tại các vùng do Cộng Sản kiểm soát tại miền Nam.
[IMG]http://img112.imageshack.us/img112/7282/tbiethaiteamjj2.jpg[/IMG]