Thơ Trần Hoài Thư 1942 ----
EM TÂY PHƯƠNG
[IMG]http://i45.tinypic.com/2mf0v86.jpg[/IMG]
Đôi mắt em xanh trời mùa hạ
Như mặt hồ gợn một chút buồn vương
Mái tóc em óng mượt lạ thường
Vàng thắm cả một ḍng nắng mới
Buổi sáng, em qua, pḥng tôi bỗng ấm
Tôi nh́n em, gặp lại tuổi thanh xuân
Em Tây phương mà hiền dịu dị thường
Lời thỏ thẻ ấm hồn tôi viễn xứ
Em đến cùng tôi mùa hoa dại nở
Dưới trời xanh, cây lá bỗng t́nh si
Những loài hoa mới nhú tự hôm kia
Thành thiếu nữ mặc trăm màu áo cưới
Em ngồi xuống, triền cỏ xanh bối rối
Mây cũng ngừng. Mây nín thở không trôi
Con kinh bên đường dừng lại chân đồi
Và bướm lượn, và chim rừng ríu rít
Em ngồi xuống, dáng nghiêng soi mặt nước
Bóng của người, tôi muốn giữ trăm năm
Sao tôi lại buồn, chiếc bóng mong manh
Chao động măi, và chao ơi tan vỡ
Th́ hôm nay, một ḿnh tôi, c̣n lại
Em đi rồi, đi xuống lầu thang
Đi ra parking, vẫn dáng dịu dàng
Và cửa đóng, và xe rồ tiếng máy
Tôi đứng trông theo, bóng người đă khuất
Mà hồn tôi nḥa nhạt một cơn mưa...
Sao tôi lại buồn, lại nhớ Đơn Dương
Con đèo xám, sương mù hôn thị trấn
Chiếc quán trên đèo, gió lùa vách trống
Mỗi năm tôi về đốt sợi t́nh si
Mỗi năm tôi về thị trấn hoa qú
Ngày bỏ nước tôi đi không dám nhớ
Biển dưới kia, và em ở trên cao
Em ở trên cao trong cơi sương mù
Trên cao nữa là một vùng mây trắng
Em bỏ tôi đi buồn hiu thị trấn
Như bây giờ người con gái Tây Phương...
[video=youtube;Hxb7iRZ7Yok]http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=Hxb7iRZ7Yok[/video]
[video=youtube;YOhnhlDZrGM]http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=YOhnhlDZrGM
[/video]
Qua Ô CỬA của Trần Hoài Thư,Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam.
Qua Ô CỬA của Trần Hoài Thư,
Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam.
Phan Bá Thụy Dương
[IMG]http://i48.tinypic.com/29woieb.jpg[/IMG]
Nhà Văn Nhà Thơ Cựu Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
[video=youtube;4mR4Zbr5EHY]http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=4mR4Zbr5EHY
[/video]
Herbert Hoover vị tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ đă nói: “Giới lănh đạo già tuyên bố chiến tranh nhưng chính giới trẻ là người phải chiến đấu và chịu chết.” [1] Chiến tranh đă tạo nên không biết bao nhiêu cảnh ly tán, hủy diệt không biết bao nhiêu sinh mạng một cách oan uổng và làm kiệt quệ trầm trọng tài nguyên quốc gia. Nhưng, nếu nh́n từ một góc độ khác, chiến tranh cũng đă sản xuất, tạo nên nhiều vĩ nhân lừng danh trong quân sử, những văn thi sĩ lỗi lạc trong nền văn học sử thế giới.
Bài viết ngắn này không phải là một luận đề về thơ chiến tranh toàn cầu mà chỉ giới hạn trong thơ Chiến Tranh VN, trong giai đoạn tàn khốc nhất, từ thập niên 60 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay chế độ Cộng Sản Hà Nội. Hạn hẹp hơn nữa, người viết chỉ muốn truyền đạt, giới thiệu đến bạn đọc một số cảm xúc, h́nh ảnh, tâm tư... của người lính chiến Trần Hoài Thư [THT] đă phản ảnh qua tác phẩm của anh: Ô Cửa.
Tuy nhiên, để có thêm hương vị, khải triển chủ đề rộng hơn đôi chút, người viết sẽ đề cập, dẫn trích thêm một số ít thơ về chiến tranh của các văn thi sĩ Việt, Mỹ khác - những người đă trực tiếp cùng THT tham dự cuộc chiến “ư thức hệ” trong giai đoạn đầy nhiễu nhương đó. Nếu thấy cần thiết, sau này người viết sẽ trở lại, bàn về đề tài sâu rộng hơn, với nhiều thi sĩ tiêu biểu cho cả 2 miền Nam Bắc, cùng những khuynh hướng đối kháng hay quan điểm tương đồng.
Theo lời tác giả, Ô Cửa là một tổng hợp của 5 thi tập: Thơ THT, Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng và Người Lính, mà anh đă xuất bản trước đây - sau khi nhuận sắc, tuyển chọn lại. Tập thơ dày 380 trang, với 237 bài, in trên giấy đặc biệt, tranh b́a của Thân Trọng Minh, do Thư Ấn Quán của anh ấn hành. Bản đẹp, dành tặng thân hữu nên không thấy ghi giá bán.
Danh từ “thơ chiến tranh” kể từ Homer đă trở nên càng ngày càng phổ biến một cách rộng răi, nhất là sau khi chiến cuộc VN kết thúc. Hiện nay các quốc gia đồng minh của VNCH và đă từng trực hay gián tiếp tham chiến trên lănh địa VN, mỗi nước đều có rất nhiều cơ quan, thư viện… lưu trữ, quảng bá thi ca viết về cuộc chiến VN, được sáng tác bởi những cựu chiến binh của họ. Cho đến bao giờ th́ thi ca về thể loại này của các tác giả miền Nam trước 75 mới được các tổ chức văn hóa, chính trị hải ngoại hay nội địa dành cho nó một vị trí nghiêm túc, sáng sủa hơn, để bảo tồn những ấn chứng quan trọng trong giai đoạn lịch sử đă qua, đă được khép lại?
1. Trực diện với chiến tranh, tiếp cận với tử thần
Bây giờ chúng ta hăy bước qua Ô Cửa, thử đi vào nội dung cuốn sách để xem người chiến binh này đă tŕnh bày, muốn chuyển gởi những ǵ tới người đọc, qua những năm dài phục vụ dưới cờ, trong thời tao loạn, nhiễu nhương:
Gịng sông phân tranh hai vùng thù nghịch. Đêm xuống đồi gặp con nước nổi. Súng đạn đưa khỏi đầu. Từng con một vượt sông. Rồi trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn. Anh lạc trên cánh đồng trăng mênh mông. Không biết nơi nào là cơi dữ. Trên đôi vai anh nặng nề lịch sử. (“Đêm Vượt Sông,” tr 5)
Từ giă giảng đường chật hẹp, nóng bức, người sinh viên mang đầy lư tưởng, hoài băo và mộng mơ ấy đă chấp nhận đi vào nơi thâm sâu cùng cốc, theo lời kêu gọi của núi sông. Ngoài trách nhiệm thi hành nghĩa vụ công dân, có thể anh c̣n coi việc đó như một lần đi thám hiểm, khai phá về những chân trời mới, quyến rũ hơn, để thưởng ngoạn thiên nhiên, giao lưu nhân thế, thử thách định mệnh:
Ở đây đèo ải ngăn sông lộ. Trăm đứa lên có mấy đứa về. Giày trận bám bùn mưa tối mặt. Mùa hè gió thổi bụi tê tê. Thanh niên ta bỏ miền trung thổ. Theo mảng mây trời trên bản xa. Núi dựng. Rừng bạt rừng. Lá mục. Phơi ngàn năm lạnh cắt xương da. Ta về ngơ ngác cơn sinh diệt. Ngỡ làm tên ẩn sĩ t́m trầm...(Về Với Núi, tr 55)
Cũng trong ư niệm chấp nhận khoác chinh y để bảo vệ quê hương, giữ ǵn lănh thổ, từng lớp, từng lớp lớp thế hệ tuổi trẻ đă đành bỏ cả tương lai, hoài bảo, rồi mang theo cuộc t́nh để tham dự vào cuộc chiến đấu gian lao, mà tự thân họ không có quyền lựa chọn, hoặc từ chối:
“…Vào giờ G ta ra mặt trận - nón sắt bần thần theo gót giày sô - hiu hắt đường mưa tiến về âm phủ - vừa cảnh giác đời, vừa ủ chiêm bao - khẩu súng cạc bin chúi đầu xuống đất - như muốn nói ǵ với cánh Rừng Lăng -
Xuân Phổ bên kia chập chờn bóng địch - lập cập hồn ai, bèo vướng chân mày ? - nước lạnh môi khô lóe lên đóm nhớ - màu mắt bên màu hoa súng ngày xưa - ta vẫn yêu em, yêu toàn nhân loại - nên gắng khom lưng, tiến chiếm Xóm Dừa…” [Luân Hoán * Trên Đường Lững Thững Hành Quân, Đạn Thù Có lẽ Ngập Ngừng Tránh Ta]
để lănh nhiệm vụ trấn thủ biên cương xa xăm, tiền đồn heo hút, dẫy đầy hiểm nguy, bất trắc. V́ chưng, họ đă lỡ sinh ra vào một giai đọan lịch sữ đen tối, vào thời buổi loạn ly, máu lửa với đạn bom và nước mắt:
“…Giặc cứ pháo xá ǵ cơn băo giạt - nón sắt che cho đỡ lạnh mái đầu - đêm nến thắp ánh hỏa châu hiu hắt - sinh nhật ai máu đỏ giữa canh thâu - đường truông núi hai mươi năm chất ngất - tuổi lang thang vào xương máu bàng hoàng - mai về phố với hồn chai lạnh ngắt - mua t́nh vui dồn trống chuỗi mênh mang - khúc chinh chiến đă từ lâu quên hát - vầng trăng treo mầu úa hướng mong chờ - mai xuống núi tiếp một ngày phiêu bạt - t́m lại ḿnh đánh thức một cơn mơ” [Nguyễn Mạnh Trinh * Kontum Bài Thơ Cũ]
Có người tuy dấn thân, tham dự vào cuộc chinh chiến với thái độ thản nhiên, xem đó như là chuyện tai trời ách nước, một tṛ tiêu khiển, nhưng chắc hẳn trong thâm tâm anh cũng khó thoát khỏi những ray rức, trăn trở hoặc suy tư, đau xót về thực trạng rợn người phơi bày trước mắt:
“Bốn bề sương muối bủa quanh - hỏa châu đỏ rực năm canh rợn người - ta về tham dự cuộc chơi - rựơu cần, súng đạn với lời kêu thương.” [Huy Lực * Đêm Tiền Đồn Pleime ]
Nghĩa vụ ǵn giữ biên cương, lănh thổ, quả là một gánh nặng luôn đè trên vai những chàng lính trận tiền phương. Từng hốc đá, cánh rừng, từng bờ sông, ngọn suối, từng chân núi, triền đồi măi măi là nơi hiểm địa, tử địa, dể dàng hủy diệt, cướp đi mạng sống của ḿnh:
Một chút cay cay mà ḷng buồn tủi. Buồn th́ về đừng nán lại thằng em. Không sao cả lên đồi cao xuống vực. Đất mở rồi ở lại cũng buồn thêm... Cùng đứng lại hai chân nghiêm cúi mặt. Đây hàng quân đọc lại thiếu tên em. Người lính trẻ chưa đầy hai mươi tuổi. Nhớ th́ về cốc rượu để phần em. (Viết Cho Thằng Em Cùng Trung Đội, tr 35.)
Nhớ th́ về cốc rượu để phần em. Câu thơ chứa đầy tŕu mến, thể hiện một thứ t́nh huynh đệ chi binh thắm thiết. Đó là lời của một người anh dành cho đứa em vắn số, chứ không phải loại ngôn từ của một cấp chỉ huy nói với kẻ trực thuộc. Thứ t́nh huynh đệ chi binh và sự tŕu mến này, người ta cũng thấy hiện rơ nét trong thơ của Pete Agriostuthes dành cho người tiền sát viên tên Nam qua bài “He was a Chiêu Hồi”, hoặc qua thơ của Kevin Bowen, Steve Mason, Sarge Lincetum, Wilfred Owen, Walter McDonald... Đặc biệt là của Yusef Komunyakka, người đă chiếm Pulitzer Prize năm 94 với tuyển tập Neon Vernacular xuất bản năm 93, trong đó chứa đựng phần lớn các bài của tập thơ mang tựa đề Việt ngữ “Điên Cái Đầu”, vốn đă phát hành từ năm 88.
Súng đạn vô t́nh nào biết né tránh ai. Khi một người chiến sĩ không may, vĩnh viễn nằm xuống th́ người đời thường cho rằng anh ta đă vị quốc vong thân, là một người anh hùng, là kẻ đáng được tuyên dương, ca ngợi. Có đúng vậy không hay ta cần thử suy gẫm, xét nghiệm lại câu nói lừng danh, mang hơi hám, tư tưởng phản chiến dưới đây của "papa" tức văn hào Ernest Hemingway -người đoạt giải Nobel 54 về Văn học, khi ông phát biểu: “Ngày trước người ta nói rằng: Hy sinh cho quốc gia của ḿnh là một hành động cao cả và xứng đáng. Nhưng trong cuộc chiến hiện đại không có ǵ là vẽ vang hay thích nghi khi anh mất đi. Anh sẽ chết như một con chó cho một lư do chẳng có ǵ là tốt đẹp.”[2]
Xin mời bạn đọc tiếp những vần thơ nóng bỏng, hồi hộp khác của chàng thám báo trẻ tuổi THT:
Băng đồng, băng đồng đêm hành quân. Người đi ngoi ngóp nước mênh mông. Về đây B́nh Định ma thiêng lănh. Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn. Trung đội những thằng trai tứ chiến. Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân. Diều hâu bôi mặt hù ma quỉ. Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương. Đêm của âm binh về xứ khổ. Poncho phơ phất gió hờn oan. Trên vai cấp số hai lần đạn. Không một v́ sao để chỉ đường. (Trung Đội, tr 31)
Những cảnh tượng bi tráng, nghiệt ngă như thế cũng thể hiện đầy dẩy trong thi ca của các chiến hữu đồng minh, như Marko Whiteley đă viết tại mật khu Hố Ḅ qua Lonely in the Reservoir, Thoughs of War..., như W.H McDonald viết ở Phú Lợi với “I Learned About War Last Night” hoặc Sarge Lintecum qua “Ambush” và nhất là bài thơ được phổ nhạc của ông, rất phổ cập, được mọi người ưa chuộng: " The Vietnam Blues".
Xin hăy đọc thêm những ḍng diễn tả vừa chân thật, vừa ngộ nghĩnh, thanh thản của người “lính sửa” trong những ngày đầu nhận lănh trách nhiệm dẫn dắt đơn vị:
Ta trở về giáp mặt chiến tranh. Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm lửa. Thau rượu đế mừng ta thằng lính sửa. Dzô ông thầy hữu sự có thằng em. Trung đội ta về hai mươi mấy thằng con. Đứa gốc người Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng... Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng. Trong túi ta một gói chuồn chuồn. Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm. Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm. (Ta Lính Miền Nam, tr 36)
Qua 2 câu cuối của bài thơ, ta có thể thấy rơ phong cách của ngựi chiến binh miền Nam khi đối xử với tù binh, hàng binh, dù mới cách đó không lâu đồng đội của ḿnh đă bị giết, bị thương. Cũng với tâm trạng, bản chất đó, ta thử đọc xem Tô Thùy Yên đă tṛ chuyện như thế nào với người tử sĩ bên kia chiến tuyến trong đoạn thơ dưới đây:
‘…Ở cơi âm nào người vốn không tin. Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa. Người cùng ta ai thật sự hy sinh. Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...? Các việc người làm, Người tưởng chừng ghê gớm lắm. Các việc ta làm, Ta xét chẳng ra chi.” [Tô Thùy Yên * Chiều Trên Phá Tam Giang]
Hay những ngôn từ phóng khoáng, thân thiện, chứa chan hào khí, t́nh giang hồ của một quân nhân VNCH khác khi anh giáp mặt, trực diện đối phương:
“…Kẽ thù ta ơi, các ngài du kích - hăy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo - hăy tránh xa ra ta xin xí điều - lúc này đây ta không thèm đánh giặc - thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc - thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh - kẻ thù ta ơi, những đứa xâm ḿnh - ăn muối đá và hăng say chiến đấu - ta vốn hiền khô, ta là lính cậu - đi hành quân rượu đế vẫn mang theo - mang trong đầu những ư nghĩ trong veo - xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi v́ ngươi bạc phước - v́ căn phần ngươi xuôi khiến đó thôi - chiến tranh này cũng chỉ một tṛ chơi - suy nghĩ làm ǵ lao tâm khổ trí - lũ chúng ta sống một đời vô vị - nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau - mượn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu - những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc - mượn bom đạn chơi tṛ pháo tết - và máu xương làm phân bón rừng hoang.” [Nguyễn Bắc Sơn * Chiến Tranh và Tôi]
Chiến tranh. Ôi chiến tranh. Người ta đă nhân danh nó để hủy diệt không biết bao nhiêu nguồn sinh lực sáng lạng của quê hương, triển vọng của tổ quốc. Người ta đă nhân danh nó để làm tan ră không biết bao nhiêu cuộc t́nh nồng thắm và mái ấm gia đ́nh. Ḷng không mang hận thù, họ là các chiến binh VNCH đi bảo vệ lănh địa, cương thổ. Họ là những cán binh “quân đội nhân dân” bị tuyên truyền, xô đẩy, lôi cuốn vào t́nh huống bi thảm “sinh Bắc tử Nam” để giới chóp bu CS mau chóng thực hiện ư đồ cướp đất, xăm lăng miền Nam. Bản thân họ nào được ǵ ngoài những thua thiệt, mất mát:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại - Xin trả lời mai mốt anh về - Không bằng chiến trận Pleime - Hay Đức Cơ - Đồng Xoài - B́nh Giả - Anh trở về hàng cây nghiêng ngă - Anh trở về ḥm gỗ cài hoa - Anh trở về bằng chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng - Mai trở về chiều hoang trốn nắng - Poncho buồn liệm kín hồn anh - Mai trở về bờ tóc em xanh - Vội vă chít khăn sô vĩnh biệt.
Mai anh về em sầu thê thiết - Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng - Cho em làm kỷ niệm sang sông - Đời con gái một lần dang dở - Mai anh về trên đôi nạng gỗ - Bại tướng về làm gă cụt chân - Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân - Bên người yêu tật nguyền chai đá - Th́ thôi hăy nh́n nhau xa lạ - Em nh́n anh - ánh mắt chưa quen - Anh nh́n em - anh sẽ cố quên - T́nh nghĩa cũ một lần trăn trối.” [Linh Phương * Kỷ Vật Cho Em]
trong một cuộc nội chiến tương tàn mà bản thân những chiến sĩ miền Nam có lúc phải phân vân, tự vấn, suy tư:
“…những thằng lính thời nay không mang thù hận - bạn hay thù chẳng có một lằn ranh - thôi hăy uống. mọi chuyện bỏ lại sau - nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu - bày làm chi tṛ chơi xương máu - để đôi bên nuôi mầm mống hận thù - ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu - chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc.
người yêu của bạn ở ngoài phương bắc - giờ này đang hối hả tránh bom - hay thẫn thờ dơi mắt vào Nam - để chờ người yêu ḿnh trở thành liệt sĩ - rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ - t́nh yêu như một thứ điểm trang - che đi chút dối ḷng, nhẹ bớt đi chút nhọc nhằn - uống với bạn hôm nay ta phải thật say - để không phải c̣n nh́n nhau hận thù ngun ngút.” [Phan Xuân Sinh * Uống Rượu Cùng Người Lính Bắc Phương]
Đọc những áng thơ hiền ḥa, nhẹ nhàng kia, tôi tự nhiên như thấy lại bóng dáng của 2 ngựi bạn gốc "cùi" là Vĩnh Nhi thủ khoa khóa 17, Hoàng Thọ Khương khóa 19 của trường Vơ Bị Lâm Viên - Đà Lạt và người bạn trẻ yêu thơ Trần Phước Chí khóa 18 của đồi Tăng Nhơn Phú - Thủ Đức, hiển hiện về trước mắt.
Những chiến sĩ can trường thuộc Sư đoàn Phượng Hoàng này, khi bắt tù binh, họ luôn luôn cho đối phương ăn uống tử tế, mời mọc thuốc lá, rồi mới chuyển giao về hậu cứ. Họ không bao giờ cho sĩ quan an ninh đánh đập, dù đôi khi cần khai thác tin tức sơ khởi tại mặt trận. Rất tiếc, 3 chiến hữu tốt, hiền ḥa này đều lần lượt ra đi, trước và sau biến động Tết Mậu Thân không lâu trước mắt tôi, trong những ngày tôi c̣n dấn thân, phục vụ tại khu chiến Tiền giang. Người viết, lúc đó, chẳng biết làm ǵ hơn ngoài việc viết bài chiêu niệm trên trang Văn Nghệ Quân Đội và mục Viết Cho Người Nằm Xuống để an ủi linh hồn người chết, và gia quyến họ.
Những biểu tượng đầy nhân bản tính trên đối với người khác giới tuyến của họ, cộng với sự thái độ, cảm nghỉ của THT, TTY, NBS, PXS... khiến tôi nhiều lần thấm thía tự thầm hỏi ḿnh. Phải chăng những quân nhân này và c̣n nhiều, c̣n nhiều những anh em, chiến binh trong các quân binh chủng khác, đă luôn luôn mang theo trái tim loại “grand coeur” của d’Amacis, trên đường hành quân? Hay họ là những đệ tử ngoan của cụ Winston Churchill - vị anh hùng, nhà chính trị khét tiếng của thế kỷ 20, người đă được trao giải Nobel năm 53, v́ họ luôn tuân thủ lời khuyên của ân sư: "Tác phong là một việc nhỏ, nhưng nó tạo nên những khác biệt lớn lao. Biểu lộ một chút lịch sự, tử tế cũng chẳng tốn kém, mất mát ǵ."[3]
Sau khi Sàig̣n thất thủ, tôi thường nghe thiên hạ bảo nhau: Một trong những yếu tố quan trọng đưa đến việc mất nước là v́ dân quân miền Nam đă quá hiền ḥa và đối xử nhân đạo với kẻ thù. Những người cùng chung một tiếng nói bên kia lằn ranh gịng sông chia cắt, bên kia vĩ tuyến có phải là kẻ thù của chúng tôi không? Thật sự, chúng tôi có cần xem họ là kẻ thù không, sau khi cuộc đụng độ đă tàn, khói lửa đă nguội tắt, chỉ v́ họ bị cưỡng bức làm những con chốt đáng thương, trong ván cờ tham vọng bành trướng chủ thuyết CS lỗi thời Mác-Lê-Mao?
Mời bạn đọc thử xem qua những h́nh ảnh đáng trách, dể làm nản ḷng người đang dấn thân ở các tuyến đầu. T́nh trạng tương phản tương ấy đă được phản ảnh dưới góc nh́n của tác giả Ô Cửa. Lời thơ tuy có man mác nỗi uất hận, phẩn nộ nhưng cũng đầy thương cảm, ngậm ngùi như một khúc bi ca:
Đất nước ta cường quốc bán buôn. Hậu phương ăn chơi biểu t́nh, đảo chánh. Lúc đồng đội ta chết lên chết xuống. Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm. Lănh chúa ta ăn trước ngồi trên. Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm. Khóa của ta trên mấy trăm thằng t́nh nguyện. Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo "ác ôn". Đứng đợi cả ngày để bắt lá thăm. Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết. Có đứa mang bằng kỹ sư về nước. Chọn Cọp Ba Đầu Rằn làm lính tiền phong. Ta lính miền Nam hề vận nước ngửa nghiêng. Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp. Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết. Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam? (Ta Lính Miền Nam, tr 36)
Giữa lúc vận nước lâm nguy như thế th́ dường như một số giới lănh đạo chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư, một số người hậu tuyến chỉ lo hưởng thụ, phó mặc việc giải trừ, giải tỏa áp lực dồn dập của Bắc phương trong tay những quân nhân thiếu kém quyền lực, tiền bạc, lúc nào cũng đứng trước đầu sóng ngọn gió, ồ ập vũ băo.
Trong lúc người lính chiến VNCH đang trực diện với sự sống chết để bảo vệ lănh địa th́ đồng minh của anh ta đă đóng vai tṛ ǵ trong việc ngăn chống sự xâm nhập, mưu đồ thôn tính của giới lănh tụ Hà Nội, với sự trợ giúp không ngừng của các nước CS đàn anh Nga, Tàu? Hăy thử nh́n qua bối cảnh, hoạt động hằng ngày của những người lính chiến Mỹ từ những ḍng thơ mang đầy tử khí của Marko Whiteley thuộc Tiểu Đoàn 1/TQLC trong "Thoughs of War":
“Cuộc chiến đấu thật khốc liệt khi lâm vào trận phục kích. Sự sôi nổi rồi cũng tan biến đi trong những ánh mắt sáng ngời. Lúc này chẳng phải riêng ǵ đối phương mà cả anh cũng mất mạng. Màn đêm đă sắp buông, đó là lúc thuận lợi cho địch quân. Họ biết rằng địa thế không thể nh́n rơ ràng về đêm. Qua màn đen của đêm sâu thăm thẳm. Kẻ bị thương th́ rên rỉ, người c̣n lại th́ tiếp tục đánh nhau. Tâm trí khởi sự báo trước một nỗi kinh hoàng”.[4]
Những t́nh cảnh đó có khác xa bao nhiêu trong "Đêm Đột Kích ở Nho Lâm" (trang 42), "Đêm Đột Kích" (trang 157), hay "Những Ngày Quân Về Những Ngày Quân Đi" (trang 168). Hay thử nh́n sang tâm trạng phân vân của người "Đánh Núi" trong hoàn cảnh, t́nh huống tiến thối lưỡng nan:
Tiến lên lại sợ phục. Rút về sợ lột lon. Hét hoài cổ họng khan. Chỉ ḿnh ta lănh đủ. Đi lên dao mở lối. Gai xước rách thịt da. Đau quá tức chửi cha. Những thằng già ngoài Bắc. (Đánh Núi, tr 147)
Qua bao lần đụng trận, đánh nhau ác liệt như thế, có mấy ai tránh khỏi viên đạn vô t́nh thoát đi từ ṇng súng của người bên kia? Cho nên THT - cây sậy mỏng manh trước những cơn băo tố của chiến trường, cũng đă hơn một lần bị đổ máu, dập vùi, lưu dấu các vết tích đạn thù trên thân thể c̣m cỏi:
Viên đạn đồng đă cắt thịt tôi. Tôi đau quá mà em không xót. Khi tôi biết ḿnh vừa thoát chết. Tôi cuống cuồng sợ hăi thành điên. Lần bị thương đầu tôi vẫn anh hùng rơm. Lần bị thứ hai tôi nằm thin thít. Tôi đang ở pḥng trần gian hậu chiến. Đêm cứ trôi hoài từng giọt hồi sinh. Tôi ước đến điên cuồng một giọt lệ em. (Trong Pḥng Cấp Cứu, tr 311)
Tuy có áy náy, lo sợ, nhưng sau 3 lần bị thương với những ngày phép dưỡng bệnh ngắn ngủi sau khi xuất viện, người lính thám báo THT vẫn thản nhiên trở về với cương vị của một người chiến binh, tiếp tục hiến thân phục vụ dưới cờ cho đến ngày nước mất, quân tan.
Cộng Đồng Người Việt tại Thái Lan -Mối t́nh Tuyệt Vời
Cộng Đồng Người Việt tại Thái Lan -Mối t́nh Tuyệt Vời
[.
Capital-Thủ Đô (and largest city) Bangkok Tọa Độ 13°45 N 100°29′E Dân Số 67 triệu (2010) , Người Việt khoảng 250,000 người tên họ Thái , Thế hệ 1950X biết tiếng Việt khá rành Thế hệ 1960 , 1970 tiếng việt Lơ Lớ , thế hệ 80x , 90x không biết nhưng thích nghe nhạc Việt : Phạm Duy -Trịnh Công Sơn-Trịnh Nam Sơn- Đức Huy . Mê tiếng hát Khánh Ly, Ngọc Lan, Chế Linh , Duy Khánh . Nhạc Miền Bắc : Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây , Hà Nội 5 cửa Ô, Cây Đàn bỏ quên ( ngày xưa có cô bé , mắt xoe tṛn lắng nghe ...). CON GÁI VIỆT TẠI THÁI LAN RẤT XINH ĐẸP M̀NH DÂY CAO RÁO TRÊN 1M60 (5 F5" , STRONG , CÓ TRƯỚC , CÓ SAU ĐẦY
[