Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
[B]Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
Đại Tuớng Dương Văn Minh[/B]
Wikipedia
Tiểu sử
Biệt danh Big Minh, Minh Cồ
Nơi sinh Mỹ Tho, Liên bang Đông Dương
Nơi mất California, Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Binh nghiệp
Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
Năm tại ngũ 1940-1975
Cấp bậc Đại tướng
Chỉ huy Quân đội Pháp
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
[IMG]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/4/4e/Tuong_Duong_Van_Minh.jpg/120px-Tuong_Duong_Van_Minh.jpg[/IMG]
Dương Văn Minh (16 tháng 2 năm1916 – 6 tháng 8 năm 2001), c̣n gọi là Minh Cồ hay Big Minh, là tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng ḥa.
Dù làm tổng thống trong thời gian quá ngắn ngủi, vỏn vẹn 3 ngày (từ ngày 28 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975), nhưng ông được xem là có công chính cho Sài G̣n khỏi bị tàn phá bằng cách kêu gọi binh sĩ của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện thể theo yêu cầu của Quân giải phóng miền Nam khi họ bắt đầu tấn công vào thành phố này vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.[1] Tuy nhiên, điều này cũng c̣n gây nhiều tranh căi trong dư luận cả hai phía và cả trong giới sử học[cần dẫn nguồn].
Tiểu sử
Dương Văn Minh sinh năm 1916 tại Mỹ Tho (có tài liệu cho rằng nơi sinh có thể là Long An hoặc Vĩnh Long). Lúc nhỏ ông học trường Collège Chasseloup-Laubat (nay là trường THPT Lê Quư Đôn) ở Sài G̣n, đỗ Tú tài II chương tŕnh Pháp ban toán vào năm 1938 cùng một lớp với tướng Trần Văn Đôn (Quốc vương Norodom Sihanouk của Campuchia cũng từng là học sinh trường này).
Tham gia quân đội Pháp
Gia nhập quân đội Pháp năm 1940 với cấp bậc Aspirant tức Chuẩn úy sau khi tốt nghiệp Trường Hạ sĩ quan Thủ Dầu Một.
Khi Nhật đảo chính Pháp, ông Minh đang phục vụ tại Cap St. Jacques và bị Nhật cầm tù năm 1945. Khi Pháp trở lại, ông bị Tây bắt cùng với ông Nguyễn Ngọc Thơ. Hai cái răng cửa của ông bị Tây đánh gẫy và nhiều năm sau này ông vẫn không trồng răng giả để giữ kỷ niệm về trận đ̣n của cảnh sát Pháp. V́ vậy trong quân đội c̣n gọi ông là "Minh Sún".
Năm 1946, ông được thăng cấp thiếu úy, hai năm sau lên trung úy. Năm 1952 ông là đại úy tùy viên tại Phủ Thủ hiến Nam phần ; năm 1953-1954 là thiếu tá, rồi Trung tá Tham mưu trưởng Quân khu 1.
Biệt danh "Minh Cồ" là do chiều cao 1,83 m của ông, dùng để phân biệt với "Minh Con" (hay Trần Văn Minh), người đă cùng tham gia cuộc đảo chính năm 1963. Báo chí Hoa Kỳ gọi ông là "Big Minh".
Tham gia Quân lực Việt nam Cộng ḥa
Năm 1955, khi Quân lực Việt Nam Cộng ḥa được thành lập, ông giữ chức Chỉ huy trưởng Phân khu Sài G̣n, sau được thăng Đại tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 8 cùng năm, ông được Ngô Đ́nh Diệm (lúc đó là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam) cử làm Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu, tiêu diệt lực lượng B́nh Xuyên. Với công tích này, ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông được thăng thiếu tướng. Sau khi hoàn tất việc dẹp B́nh Xuyên, ông Minh được cử giữ chức vụ tư lệnh Chiến dịch Nguyễn Huệ rồi tiếp đến Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu để b́nh định miền Tây, đánh quân Ḥa Hảo của tướng Ba Cụt.
Tướng Dương Văn Minh, lúc là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng
Tuy nhiên, ông nhanh chóng bị thất sủng v́ bị Ngô Đ́nh Diệm (lúc này là Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa) nghi ngờ. Năm 1956, ông giữ chức Tổng thư kư thường trực Bộ Quốc pḥng. Năm 1957, thăng trung tướng. Từ tháng 7 năm 1957 đến tháng 12 năm 1962, Tư lệnh Bộ Tư lệnh hành quân; từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 11 năm 1963, Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống. Cộng với mâu thuẫn tôn giáo (ông theo đạo Phật) với sự kiện Phật Đản, 1963 của chế độ Ngô Đ́nh Diệm, ông nảy sinh tâm lư chống lại chế độ này.
Vai tṛ chính trong cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm
Trong cuộc đảo chính chế độ Ngô Đ́nh Diệm (do Mỹ hậu thuẫn) ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đóng vai tṛ chính với cương vị Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, cùng với các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu... Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, tướng Nguyễn Khánh lật đổ chính quyền quân sự này và giành quyền cai trị miền Nam Việt Nam. Ông bị thất thế trong một thời gian ngắn, mặc dù vẫn được giữ chức Chủ tịch Hội đồng kiêm Quốc trưởng.Từ năm 1962 ,phía Bắc việt đă đưa em trai ông là tướng t́nh báo Dương Văn Nhật vào nam tiếp xúc với ông Minh để vận động ông theo về với Cách Mạng .Thông tin này đă có từ những ngày đầu Giải phóng,nhưng đến gần đây mới chính thức được công khai.[2]
Những năm tháng thăng trầm
Năm 1964, ông được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng đại tướng, nhưng ông không nhận. Tháng 12 năm đó, ông bị ép đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng ḥa tại Thái Lan cho đến năm 1968 mới được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hồi hương.
Huy hiệu bông lan của Tổng thống Dương Văn Minh
Năm 1971, ông trở lại chính trường để đối đầu với đương kim tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ ủng hộ, trong cuộc tranh cử tổng thống. Tuy được nhiều người cho rằng rất có thể ông là lănh đạo của "Lực lượng thứ ba", có thể nói chuyện ḥa b́nh với miền Bắc để tránh một chiến tranh lâu dài, nhưng nỗ lực của ông đă bị Nguyễn Văn Thiệu cản trở. Cuối cùng, ông đă rút ra khỏi cuộc tranh cử sau khi tuyên bố rằng cuộc bầu cử chỉ là tṛ múa rối. Nguyễn Văn Thiệu, do đó, đắc cử tổng thống mà không phải cạnh tranh với ai cả.
Vai tṛ Tổng thống cuối cùng của Việt nam Cộng ḥa
Tuy nhiên, với sự sụp đổ nhanh chóng của Việt Nam Cộng ḥa sau khi Mỹ rút quân, ông lại trở thành một nhân vật quan trọng cho chức vụ tổng thống. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu, rồi Trần Văn Hương từ chức, ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông chính thức nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa.
Hai ngày sau (30 tháng 4), trong cương vị Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa, ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên đài phát thanh trước đại diện của Quân giải phóng miền Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng ḥa chính thức sụp đổ.
Cuối đời
Sau năm 1975 ông sống tại TP Hồ Chí Minh. Năm 1983, chính quyền Việt Nam cho phép ông được tự do định cư. Ông sang Pháp, nhưng sau đó lại chuyển sang California (Hoa Kỳ), sống với vợ chồng người con gái. Ông qua đời ngày 6 tháng 8 năm 2001 tại đó, thọ 86 tuổi.
Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
[B] Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
Đại Tướng Dương Văn Minh, Công Và Tội[/B]
Dương Văn Minh (1916-2001)
Sau khi miền nam VN mất về tay Cộng Sản ngày 30-4-1975 nhiều người kết tội Dương Văn Minh đầu hàng giặc, dâng nước cho Bắc Việt, họ nói v́ ông mà miền Nam mất. Những người cảm t́nh với Dương Văn Minh nói ông có công cứu Sài G̣n và miền Nam Việt Nam thoát chết, “nếu ông không ra lệnh đầu hàng th́ nó pháo kích chết hết !!!” Sau khi ra Hải ngoại trả lời phỏng vấn báo chí ông nói : “Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công, dù ông có hay không ra làm Tổng thống ‘hơn một ngày rưỡi’ th́ t́nh h́nh miền nam VN và Sài G̣n cũng vẫn y nguyên như thế. Hẳn mọi người đều biết, vào thời điểm ấy miền nam VN hầu như vô chính phủ, các vị Tổng thống, Thủ tướng, các vị Bốn sao , Ba sao, các ông lớn…đều đă “tẩu vi thượng sách”, Việt Cộng đang tiến quân vào.
Ngược ḍng thời gian tháng 11-1972 khi sắp kư Hiệp định Paris Hoa kỳ đă vội vă cung cấp cho VNCH khoảng gần 600 máy bay các loại gồm : 200 máy bay phản lực chiến đấu, khoảng 340 trực thăng các loại và mấy chục máy bay vận tải, thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48, 286. (Theo Nixon, No More Vietnams, trang 170-171). Miền Bắc bị thiệt hại nặng sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, họ mất khoảng 100 ngàn quân, 700 xe tăng (Nguyễn đức Phương- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587), lại nữa cuối 1972, TT Nixon cho B-52 oanh tạc dữ dội Hà nội, Hải pḥng đánh phá tan nát bộ máy chiến tranh của Bắc Việt”( No More Vietnams. Trang 158). Sau ngày kư Hiệp định Paris 27-1-1973, VNCH yên tâm v́ tiềm năng quân sự miền Nam mạnh hơn miền Bắc.
Tuy nhiên t́nh h́nh thay đổi rất nhanh, cán cân lực lượng hai miền đă đảo ngược từ 1974, CS quốc tế vẫn tiếp tục vẫn viện trợ quân sự đều đặn cho Hà Nội: Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006). Theo Kissinger, Hà nội đă xin được viện trợ của Xô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày kư Hiệp định Paris . Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ băi bỏ hạn chế trước đây. Xô Viết đă chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn (Years of Renewal trang 481)
Trong khi đó miền nam bị Quốc hội Mỹ xiết cổ từ từ, Hạ Viện Mỹ 1972 Dân chủ chiếm đa số 242 ghế, Cộng Ḥa 192 ghế, họ chống đối chiến tranh VN rất mạnh, trước hết họ cắt giảm quân viện xương tủy mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống c̣n một tỷ tài khóa 1974 và xuống c̣n 700 triệu tài khoá 1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu v́ dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Ngày 15-8 -1973 ban hành luật của Quốc hội cắt bỏ tất cả các ngân khoản dùng trực tiếp gián tiếp cho các hoạt động quận sự Mỹ tại Đông Dương. Ngày 7-11-1973 Quốc Hội ban hành luật War Powers Resolution hạn chế quyền Tổng thống trong chiến tranh, Tổng thống muốn đem quân ra ngoại quốc phải đưa ra Quốc hội để trói tay hành pháp th́ số phận của VNCH coi như đă được quyết định rồi .
Kỳ bầu cử Hạ viện Mỹ tháng 11-1974, Dân chủ chiếm đại đa số, tỷ lệ 66.9% Hạ viện với 291 ghế, Cộng Ḥa 144 ghế. Dân chủ chống chiến tranh Đông Dương quyết liệt, cắt bỏ bất cứ ngân khoản viện trợ nào giành cho Đông Dương. VNCH lâm vào t́nh trạng đen tối. Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho miền Nam ngày càng thiếu thốn tiếp liệu đạn dược. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực giảm trên 70%. Theo ông Cao Văn Viên nạn đào ngũ (Những ngày cuối VNCH trang 79) khiến cho quân số thiếu hụt. Hàng tháng lính đào ngũ trung b́nh lên tới 1,5 hay 2 phần trăm tổng số quân và như vậy hàng năm quân đội mất đi gần 1/4 quân số, hàng năm phải tuyển mộ từ 200 tới 240 ngàn người để thay thế số thương vong, đào ngũ nhưng trên thực tế không tuyển mộ được đủ số tân binh như phỏng định v́ nạn trốn quân dịch.
Cuối 1974 đầu 1975 CSBV đánh chiếm Phươc Long để thăm ḍ Mỹ. Trước nguy cơ sụp đổ, TT Thiệu gửi thư cho TT Ford xin Viện trợ bổ túc 300 triệu. Tháng 3-1974 BV tấn công chiếm Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ bác bỏ khoản viện trợ cho miền Nam và không chuẩn chi cho năm tới 1976.
T́nh h́nh quân sự ngày càng thê thảm, ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH, trang 92) cho biết vào tháng 2-75, đạn tồn kho chỉ c̣n đủ dùng khoảng 30 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày. Kể từ sau Hiệp định Paris VNCH không c̣n trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.
Cuối tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT Thiệu đă khiến VNCH mất hai quân khu I và II, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và II trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng trừ bị.. vũ khí đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng quân.
BV hối hả đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn 1) vào Nam, Hà Nội dùng mọi phương tiện không quân, hải quân, đường bộ để chuyển quân gấp rút vào Nam bao vây Saigon. Họ dốc toàn bộ lực lượng vào Nam Lực lượng tham chiến của BV vào khoảng gần 20 Sư đoàn (gồm 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232, sáu trung đoàn đặc công, 6 trung đoàn độc lập). Vũ khí đạn dược của BV gấp bội lần năm 1972.
Trong thời gian này tại Hoa Thịnh Đốn Kissinger báo cáo trong phiên họp Nội các:
“Toàn bộ lực lượng của QĐBV hiện đă vào nam, chỉ cần một Lữ đoàn TQLC là ta có thể chiếm hết miền Bắc, một sự vi phạm trắng trợn
(Larry Berman, No Peace No Honor trang 266)
Ông cũng nói “Chúng ta không c̣n tiền để chơi ván bài”, sự thật Hành pháp đă bị Quốc hội trói tay
Ngày 10-4-1975 VNCH c̣n hy vọng vào viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT Ford đưa ra Quốc hội, ngày 18-4 ngân khoản này bị bác bỏ. Nhiều chính khách nhận định khoản viện trợ này nếu được chấp thuận cũng chỉ kéo dài thêm sự hấp hối của miền Nam mà thôi. Ngày 21-4-1975 TT Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên thay, mấy ngày sau ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm rời Sài G̣n ra đi hôm 24-4..
Trở lại chuyện ông Dương văn Minh. Sải g̣n có nhiều tin đồn về việc ông Dương Văn Minh sắp lên làm Tổng Thống thay Trần Văn Hương.
Cụ Hương lên thay ông Thiệu được bốn năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về hiện t́nh đất nước trên đài phát thanh Sài G̣n, giọng sướt mướt, vừa nói vừa khóc.
“Thưa đồng bào, t́nh h́nh hiện nay vô cùng bi đát… Một vùng Hai miền Trung đă hoàn toàn tan ră, vùng Ba, vùng Bốn nay cũng đă bị nhiều sứt mẻ. Rồi mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi thủ đô Sài G̣n này sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đă nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và đă bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh t́m cái giải pháp hoà b́nh cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng th́ bàn giao làm ǵ. . hở trời!!. .
Người dân vừa sợ vừa thông cảm cho cụ già v́ cụ quá thật thà, cụ đă đem hết mọi bí mật quốc gia nói huỵch toẹt trên đài phát thanh!! Thực ra nay cũng chẳng c̣n bí mật ǵ để giữ.
Những lời đồn nay đă thành sự thật, ông Dương văn Minh sẽ lên làm Tổng thống. Theo lời kể của ông Nguyễn đ́nh Toàn trong bài “Đại Tướng Dương Văn Minh: Em Làm Chứng Cho Goa” (Người Việt Dallas, tháng 4-2011), ông Toàn và các ông Đỗ đ́nh Tứ, Nguyễn Văn B́nh đi thuyết phục Dương Văn Minh ra nhận nhiệm vụ, Đại tướng thất vọng nói:
“Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói: “Em thấy đó, tối hổm Trung Tướng Đôn đă tŕnh bày cho chúng ta biết về t́nh h́nh quân đội, về khả năng tái phối trí của quân đội… quân của ḿnh hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, c̣n các kho vũ khí, súng đạn của ḿnh trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không c̣n kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Sàig̣n, hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ quyền tối thiểu của ḿnh cũng không c̣n, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra vào tự do, muốn đưa ai đi th́ đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh ḿnh có chặn lại cũng bị MP và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi… T́nh h́nh như vậy em bảo làm sao mà ” Goa ” dám nhận nữa? Vậy em nghĩ sao?”
Ông Toàn và mấy người bạn nói
“Nếu Đại Tướng thương nước thương dân th́ Đại Tướng phải biết hy sinh chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói t́nh h́nh nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như vậy mà Đại Tướng không nhận nữa… th́ Đại Tướng đâu có thương dân thương nước,
Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nh́n thẳng vào tôi và nói:
“Bây giờ em nói sao? Em nói “Goa” phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một ḿnh sao?”
Nghe lời thuyết phục của ông Toàn, về sau Đại Tướng Minh nhận ra trách nhiệm cứu nước.
T́nh h́nh quân sự khi ấy vô cùng nguy khốn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn Ba VNCH tổ chức pḥng thủ Sài G̣n trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly của BV.
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi. Tuyến B́nh Dương ở phía Bắc. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc. Tuyến Vũng Tầu và Quốc lộ 15 phía Đông. Tuyến Long An phía Nam . Lực lượng mỗi tuyến chưa tới một Sư đoàn trong khi VNCH gần hết đạn phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp năm, sáu lần với hỏa lực áp đảo.
Chiều ngày 28-4 Đại Tướng Dương Văn Minh lên nhậm chức Tổng Thống do Cụ Trần Văn Hương trao lại. Ông đọc diễn từ ngỏ lời cùng đồng bào, một lúc sau năm máy bay CS ném bom phi trường Tân Sơn Nhât gây kinh hoàng cho cả thành phố Sài G̣n.
Đúng bẩy giờ đài BBC đọc bản tin tóm tắt về t́nh h́nh Việt Nam
“- Hôm nay tại Sài G̣n ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.
-Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.
-Nhiều loạt súng nổ tại Sài G̣n không biết thuộc phe nào.”
Qua phần b́nh luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao chức vụ Tổng thống tại Dinh Độc lập chứng tỏ cho thấy sự tan ră của chính quyền Sài G̣n.
Sáng ngày 29-4 Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc Văn thư của Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tùy viên quân sự DAO phải rút lui trong ṿng 24 giờ đồng hồ. Ngay sau đó đoàn trực thăng gồm 80 chiếc từ hạm đội vào phi trường Tân Sơn Nhất và ṭa Đại Sứ Mỹ để di tản 1,000 người Mỹ và 6,000 người Việt ra ngoài hạm đội sau 19 giờ bay liên tục.
Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi các lực lượng Quân đội VNCH trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.
“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hăy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Các Tướng Tư lệnh Lư Ṭng Bá, Lê Minh Đảo, Lê Nguyên Vỹ, Trần Quang Khôi… đă chiến đấu rất anh dũng trong những giờ phút cuối cùng nhưng không cứu văn nổi t́nh thế. Cộng quân đă phá vỡ các pḥng tuyến VNCH và tiến vào Thủ đô Sài G̣n. Lúc 10 giờ rưỡi sáng 30-4-75, ông Dương Văn Minh kêu gọi các cấp quân đội giao nạp vũ khí cho Quân đội Cộng Ḥa miền nam VN nơi gần nhất để tránh đổ máu vô ích. Lúc 12 giờ trưa, Quân dội BV tràn vào dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Tính ra ông Dương Văn Minh làm Tổng thống từ chiều tối ngày 28 -4 cho tới 12 giờ trưa 30-4 th́ chỉ được có hơn một ngày rưỡi, chưa tới hai ngày. Nhiều người trách ông không rút về Quân khu Bốn tiếp tục chiến đấu nhưng vấn đề không đơn giản, nếu làm được th́ người ta đă làm rồi. Khi ông vừa lên nhậm chức th́ CSBV tấn công hối hả, ông chưa kịp trở tay th́ đă bị địch sông vào dinh Độc lập thộp cổ rồi. Vấn đề rút về Quân khu Bốn không đơn giản, đạn dược c̣n bao nhiêu? tinh thần c̣n bao nhiêu? chiến đấu được bao lâu? Cầm chắc cái thua trong tay rồi chết thêm có lợi ích ǵ không?
Tác giả Vũ Ánh trong bài: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, đăng trên trang mạng Nguoivietboston tháng 4-2012 đă tiếp xúc với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền khi ông tới đài Truyền h́nh Sài g̣n chiều tối 28-4-1975. Cụ Phó cho biết đă nhịn nhục vào Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn CS chỉ để yêu cầu họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài G̣n, chết người thêm vô ích. Cụ nói khi ông Thiệu bỏ đi ai cũng biết t́nh h́nh cuối cùng sẽ bi đát như hiện nay, cụ ra nhận trách nhiệm khi biết rơ không c̣n phương cách nào có thể cứu văn được. Trước khi cụ quyết định nhiều người ngăn cản đừng dại ǵ làm việc trong hoàn cảnh này nhưng là kẻ sĩ th́ không thể thiếu trách nhiệm được, thời b́nh th́ xe ngựa xênh xang, khi đất nước tan hoang th́ bỏ trốn.
Nhiều người trách ông Dương văn Minh đầu hàng giặc, nhưng nếu ông không ra cứu nước th́ t́nh h́nh cũng không khác ǵ hơn. Chiều 28-4 các vị Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân đoàn Ba đă “tẩu vi thượng sách”. Cụ Hương biết làm ǵ hơn? cụ cũng sẽ lên đài phát thanh than thở, khóc lóc cùng đồng bào và Cộng quân cũng sẽ tiến vào dinh Độc Lập bắt tuyên bố đấu hàng, hoặc một người thay mặt cụ tuyên bố hàng. Ông Dương Văn Minh chẳng có tội ǵ với đất nước.
Nhiều người khen ông Minh có công cứu nguy Sài g̣n, nếu ông không lên làm Tổng thống và nếu không kêu gọi đầu hàng th́ Việt Cộng đă pháo kích chết hết, thành phố tan nát. Như đă nói ở trên Tướng Toàn thành lập năm tuyến pḥng thủ Sài G̣n cách trung tâm thành phố 27 cây số, bằng tầm pháo cùa đại bác 130 ly của quân thù.
Tại trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975, Cộng quân không đánh theo lối bóc vỏ mà đánh chiếm thị xă trước rồi từ đó mới đánh ra các quận bên ngoài. Khi đánh Sài G̣n th́ ngược lại, họ đánh theo lối bóc vỏ, tấn công phá sập các tuyến pḥng thủ bên ngoài rồi mới tiến vào trung tâm thành phố. Mà thực ra sau khi ṿng đai bảo vệ Sài G̣n sụp đổ th́ các ổ kháng cự bên trong thành phố không c̣n bao nhiêu, VC chẳng cần phải pháo kích cho tốn đạn, ông Dương Văn Minh cũng chẳng có công trạng ǵ.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
[B]Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh
Tài liệu mật của CSVN [/B]
+ Thân thế và gia đ́nh
- Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Thọ Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm)
Ông Dương Văn Huề (gốc Hoa) và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gáị Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân VN . Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.
Gia đ́nh ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.
- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đ́nh ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa t́m được đơn vị th́ bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp.
Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường vơ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “VNCH”.
Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương ngườị Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn th́ ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị t́nh nghi hoạt động cho “VC” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn d́ ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù...
- Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30.4.1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dàỵ Có lúc lănh đạo Thành phố (đồng chí Vơ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ư khéo là đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lư do: “Các anh các chị sống được th́ tôi cũng sống được nếu chưa quen th́ phải tập lại cho quen”.
Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lănh sự Pháp ở Saigon đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lư nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đă có Chính phủ VN lo rồi”.
Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả ǵ Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xă hội Pháp.
+ Quá tŕnh binh địch vận đối với Tướng Dương Văn Minh
Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, T́nh báo, An ninh T4 (Saigon - Gia Định), Trí vận...
1. Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam
Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Vơ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN đề nghị và được cấp trên đồng ư điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Tỵ
Cuối tháng 12.1960, đồng chí Mười Ty lên đường.
Tháng 8.1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đ́nh, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và t́m hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Saigon và em thứ tám là Dương Thu Vân.
Thấy t́nh h́nh thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ư kiến của lănh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đ́nh Diệm độc tài, gia đ́nh trị, phủ nhận công lao của ḿnh (tảo thanh B́nh Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ t́m cách làm.
Ngày 01.01.1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và lên làm Quốc trưởng VNCH lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ư định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đ́nh Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay th́ hết tranh căi về điều này, nhưng vẫn c̣n cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.
Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:
+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh v́ sao làm thế? Ông trả lời, đại ư: Người VN có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đă gắn bó đời ḿnh và mồ mả ông chạ Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, v́ lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của ḿnh.
+ Bộ trưởng quốc pḥng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói... Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.
Tháng 1.1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.
+ Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ư muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt ḥa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.
- Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ư đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01.1964, chính quyền Mỹ đă đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Ḥa VN bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay CS”.
Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Saigon phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.
Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp.
Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ư chờ tin của Mười Tỵ Nhưng v́ bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, th́ Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ư kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ư kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành
phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử th́ ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lư ǵ, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không c̣n lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn...
Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Vơ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được...”
Cuối năm 1970,... theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục t́m một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy tṛ có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.
Tháng 3 và 4.1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ư ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống th́ t́m cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.
Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28.4.1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Saigon gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đă góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Saigon “án binh bất động”, tan ră tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.
2. Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”
Tháng 9.1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Saigon - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”... (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư kư ṭa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc...).
Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban Anninh T4, chỉ đạo A10 t́m cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệụ
Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đ̣i Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).
Ngày 01.3 và cuối tháng 3.1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề...) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “...Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
3. Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh
Cụm điệp báo VĐ2 thuộc pḥng t́nh báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Saigon. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28.4.1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở t́nh báo) hẻm đường Triệu Đà, Saigon, để báo ư kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn t́m gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam để xin ư kiến xử trí t́nh h́nh Saigon. Đồng chí Sáu Trí phân tích t́nh h́nh và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ư kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh - Nguyễn Văn Huyền - Vũ Văn Mẫu.
4. Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị
Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7.1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng ḥa b́nh, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.
Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí QuốcHương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đă chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba. Trên thực tế th́ lực lượng ta đă h́nh thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6.1969 với mục tiêu là: đ̣i các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ ḥa giảidân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luâ.tsư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02.1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đ̣i thi hành hiệp định Paris”, xác định ḿnh là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đ̣i thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, kư giả, tướng lĩnh[1]. Hằng tuần, nhóm họp bàn về t́nh h́nh thời sự chính trị (lúc t́nh h́nh sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn pḥng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.
-Theo ông Lư Quư Chung (Hồi kư), tuần lễ đầu tháng 4.1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đă họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ư định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.
5. Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Saigon
Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi h́nh hiệp định Paris, ḥa b́nh, chấm dứt chiến tranh, đ̣i dân chủ, cải thiện dân sinh... các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 kư giả Saigon ngày 10.10.1974, ngày “kư giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đă có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20.4.1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh... đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi hành hiệp định Paris, đ̣i ḥa b́nh, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT..., là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.
+ Mỹ, Pháp với tướng Dương Văn Minh
* Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng ḥa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lănh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chốị Đại sứ Mỹ Bunker c̣n trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa pḥng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa).
Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ c̣n Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ.
- Thiệụ
Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đă bị nhân dân và báo chí Saigon đấu tranh đ̣i Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương tŕ hoăn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, măi đến ngày 26.4.1975, lưỡng viện Saigon đă bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống VN Cộng ḥa với 147.151 phiếụ
* Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28.4.1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam) gợi ư Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam .
Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lư Quư Chung, sáng ngày 30.4.1975, tướng t́nh báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ư ông Minh nên kêu gọi Tàu can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay CS Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đă từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đă quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Tàu”.
+ Tướng Dương Văn MInh với 3 ngày làm tổng thống
15 giờ chiều ngày 28.4.1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.
Về Bộ quốc pḥng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ trưởng. (Theo ông Lư Quư Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc pḥng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).
17 giờ ngày 28.4.1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi kư), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề pḥng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).
Đêm 28.4, Tướng Dương Văn Minh và gia đ́nh dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).
Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi kư), đêm 28.4.1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đ́nh bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên ḷng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo th́ có thể ra đị Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Saigon, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.
Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh Saigon trưa ngày 30.4.1975
+ Ngày 29.4.1975
Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi VN trong ṿng 24 giờ để giải quyết ḥa b́nh ở VN.
Đến 16 giờ chiều ngày 29.4, đă thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đă tan ră (trừ bộ phận biệt phái).
Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29.4.1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đă ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.
Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Vơ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đă thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, v́ đă thông báo cho bên trong biết “Saigon không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đă chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29.4.1975).
Từ chiều và tối ngày 29.4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngỏ”, đầu hàng. Như ông Lư Quư Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “c̣n chờ
ǵ nữa mà không đầu hàng”[2].
+ Ngày 30.4.1975
- 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đă chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ t́nh h́nh quân sư.. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn.
Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.
- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ư có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh nàỵy. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.
- 9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Ḥa ngưng nổ súng, và ở đâu th́ ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam VN để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong ṿng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.
Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.
Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đă xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở th́ tùy”.
- 11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập tối ngày 2.5.1975
+ Kết luận
1. Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu c̣n mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có ḥa b́nh, độc lập và ḥa hợp dân tộc.
2. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lư Quư Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ư để thương thuyết với cách mạng v́ đă thấy không c̣n khả năng thương thuyết; cũng không có ư để tiếp tục chiến tranh v́ lâu nay ông Minh chủ trương hoà b́nh, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rơ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức th́ ngày 29.4.1975, đă ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..
3. Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Saigon - Gia Định đă tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng t́nh, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đă quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30.4.1975 là hành động thức thời, làm giảm ư chí đề kháng của đại bộ phận
quân đội Saigon vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Saigon c̣n nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xă khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rơ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai tṛ quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đă góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Saigon và nhiều đô thị c̣n nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.
Chú thích :
(1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - xă hội - thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa Miền Nam .
(2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản Saigon tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “VNCH”.
(3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.
(4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà
Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
[B]Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
LỜI PHÂN TRẦN CỦA TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỀ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975
[/B]
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đă trôi qua được trên 31 năm. Thường th́ thời gian là yếu tố xóa nḥa mọi nỗi đau của quá khứ, nhưng đối với đa số người miền Nam, vết đau 30 tháng 4 c̣n tươi rói v́ những đau đớn, mất mát xảy ra cho họ và gia đ́nh do Cộng sản gây ra sau ngày 30 tháng 4. Hàng ngàn người bỏ ḿnh trong những trại tù cải tạo độc ác, tàn bạo của Cộng sản, hàng trăm ngàn người bỏ ḿnh trên biển cả khi vượt biển t́m tự do. Nghĩ đến ngày 30 tháng 4, đa số người dân miền Nam oán trách Đại tướng Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng để đưa đến cảnh ' nước mất nhà tan " sau này. Từ trước đến nay đă có nhiều dư luận phê phán chuyện đầu hàng ô nhục của tướng Minh nhưng tâm tư và suy nghĩ của tướng Minh khi quyết định đầu hàng Cộng sản là chuyện không ai suy đoán nổi. Ông Minh không viết sách và tránh trả lời phỏng vấn nên khó ai đoán biết tâm tư , suy nghĩ của ông khi đầu hàng như thế nào. Sau này mới biết tướng Minh đă bộc bạch tâm tư suy nghĩ của ông về quyết định đầu hàng trong biến cố 30 tháng 4 trong một lá thư gửi cho một người đàn em cũ là Trung tướng Nguyễn chánh Thi vào năm 1987 khi tướng Minh ở Pháp. Xin cám ơn Trung tướng Thi đă cho phép người viết bài này công bố bức thư của tướng Minh để soi sáng phần nào lịch sử Việt Nam cận đại.
Đại tướng Dương văn Minh nhậm chức Tổng thống do Tổng thống Trần văn Hương trao lại chỉ vài ngày trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.( Dương văn Minh nhậm chức tổng thống vào ngày 27 tháng 4 năm 1975..Bởi vậy người ta thường gọi Dương văn Minh là tổng thống 3 ngày ). Buổi chiều nhậm chức tổng thống trong dinh Độc lập th́ trời u ám và có mưa.. Phóng viên Nguyễn mạnh Tiến ( hiện nay đang làm ở Đài Á châu tự do) lúc ấy đang làm cho Đài phát thanh Sài G̣n, đă tường thuật buổi lễ nhậm chức này. Phóng viên Tiến đă bắt đầu bài phóng sự tường tŕnh bằng câu nói " Buổi lễ nhậm chức tổng thống xảy ra vào buổi chiều trong dinh Độc lập trong khi bên ngoài trời mưa u ám như t́nh thế đất nước hiện nay.." Trực giác cảm nhận của Phóng viên Tiến thật chính xác v́ chỉ vài ngày sau, miền Nam rơi vào tay Cộng sản để rồi đưa đến bao tang tóc, mất mát cho dân chúng miền Nam.
Toàn bộ bức thư của tướng Dương văn Minh viết cho tướng Nguyễn chánh Thi có nội dung như sau:
15-4-87
" Thi,
Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi c̣n lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đă gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không _ Pháp chẳng giúp đỡ ǵ _ ḿnh sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rơ hết.
Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi ḿnh phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của ḿnh gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu ( cũng như nhiều người ) không rơ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đă tham khảo ư kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ c̣n lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đă nói và đă nhắn nhủ để cứu dân.
Riêng tôi, tôi không tự tử không phải v́ thiếu can đảm, nhưng v́ những lư do rất đơn sơ:
_ Tôi không tự sát v́ thân thể ḿnh do Trời Đất ( Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, ḿnh không có quyền hy sinh.
_ Ḿnh có quyền hy sinh: tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v..v Tóm tắt ḿnh chỉ có quyền hy sinh những ǵ ḿnh tạo ra mà thôi.
Đây là một lư thuyết tôi đă hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, v́ lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đă dám làm th́ tôi cũng dám chấp nhận những búa ŕu bất cứ từ đâu tới. Không có ǵ thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần th́ có ngày sum họp trên quê cha đất tổ.
Tôi đă nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong ǵ hơn được gặp lại các bạn.
Thân mến
Dương văn Minh
Đọc những lời phân trần trên của tướng Minh cho thấy những ảnh hưởng đến từ bên ngoài về quyết định đầu hàng Cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông cũng biện bạch cho quyết định không tự tử của ông sau khi đầu hàng. Thật ra những người đặt vấn đề tướng Minh nên tự tử v́ nh́n gương của những bậc tiền bối như cụ Phan thanh Giản đă uống thuốc độc tự tử khi phải giao mấy tỉnh ở miền Nam cho Pháp và quan Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tự tử khi thành Hà Nội mất vào tay quân Pháp. Sau này nh́n những tấm gương tử tiết của 5 vị tướng Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Hưng, Nguyễn khoa Nam người ta lại tiếc cho tướng Dương văn Minh đă không tử tiết để nêu gương anh dũng cho ngàn sau. Dĩ nhiên quyết định t́m đến cái chết không phải lúc nào cũng là một quyết định dễ dàng trong bất kỳ t́nh huống nào của cuộc sống. Tướng Minh đă biện luận cho quyết định không tự sát để duy tŕ mạng sống của ông v́ lề lối suy nghĩ của ông và ông cho biết là ông sẵn sàng nhận chịu mọi sự phê phán của thế gian. Tướng Minh đă qua đời cách đây mấy năm ở California, Hoa Kỳ, Tổng thống Thiệu cũng qua đời ở Boston, Hoa Kỳ không lâu sau khi ông Minh từ trần.
Phải nói rằng khi Tổng thống Nguyễn văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975 th́ t́nh h́nh miền Nam đă đi tới giai đoạn hết thuốc chữa. Quyết định không viện trợ khẩn cấp 300 triệu của Quốc Hội Mỹ coi như cái chết của miền Nam chỉ c̣n là vấn đề thời gian. Sau này có nhiều dư luận đặt vấn đề là tại sao Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không bán đi 16 tấn vàng để lấy tiền mua vũ khí cho quân đội miền Nam tiếp tục chiến đấu. Dĩ nhiên Tổng thống Thiệu không phải ngu dại ǵ mà không biết đến điều ấy nhưng phải thấy rằng chuyện giật sập miền Nam năm 1975 là quyết định của Mỹ và chắc chắn Mỹ sẽ không dễ dàng cho phép ông Thiệu bán vàng để mua vũ khí bảo vệ miền Nam. Số vàng 16 tấn này sau này lọt vào tay Cộng sản sau 1975 và theo sự tiết lộ của Bùi Tín th́ số vàng này cũng dần dần bị tẩu tán bởi những tay lănh đạo tham ô ở miền Bắc.
Phải nói là ở thời điểm kư Hiệp định Paris năm 1973, chắc chắn ở cương vị lănh đạo, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cũng nh́n thấy rơ sự rút lui chạy làng của người đồng minh Hoa Kỳ.. Đáng lư ra ông Thiệu phải lo xây dựng chiến khu ở miền Tây để pḥng sau này Sài g̣n có bị mất th́ ông sẽ về miền Tây lănh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng ông Thiệu không phải là người lănh đạo yêu nước, thương dân. Ông chỉ quan tâm nhiều đến mạng sống và của cải của ông và gia đ́nh. Ông tiếp tục bám víu quyền lực ngày nào c̣n viện trợ Mỹ, nghĩa là ngày nào c̣n xôi thịt. Cuộc bầu cử độc diễn năm 1971 cho thấy ông Thiệu dùng mọi thủ đoạn xấu xa, bẩn thỉu để duy tŕ quyền lực. Đến khi đất nước lâm nguy, Mỹ cúp viện trợ th́ lúc ấy ông mới từ chức và t́nh chuyện " được làm vua, thua chạy trước ". Tội làm mất miền Nam là của Tổng thống mặt trơ trán bóng vô liêm sỉ Nguyễn văn Thiệu chứ nhất định không phải là tội của tướng Dương văn Minh.
Một điều nữa cũng nên nói ra ở đây là trong những ngày hấp hối của miền Nam, có một chuyện lạ kỳ là Trung Cộng đă t́m cách liên lạc với chính phủ Dương văn Minh với ư định muốn viện trợ cho miền Nam chống lại sự tấn công của Cộng sản miền Bắc. Trong một cuộc nói chuyện thân mật với anh em sinh viên ở Pháp sau khi định cư ở Pháp , tướng Dương văn Minh có kể lại chuyện này và cho biết ông từ chối đề nghị giúp đỡ của Trung Cộng v́ nghĩ rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Ông Minh cho rằng chuyện nhận viện trợ của Trung Cộng là một chuyện làm không có lợi cho đất nước Việt Nam. Cựu dân biểu Lư quư Chung ( vốn là bộ trưởng thông tin trong chính phủ Dương văn Minh) trong cuốn sách " Hồi kư không tên " xuất bản ở Việt Nam mới đây cũng có nói đến chuyện này nhưng ông Chung không dám nêu đích danh Trung Cộng mà chỉ nói đến một cách bóng gió. Lư do là mối quan hệ giữa Việt Cộng và Trung cộng đang hồi thắm thiết hữu nghị nên ông Trung không dám nêu đích danh Trung Cộng là kẻ đă t́m cách viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của Việt Nam Cộng Ḥa nhằm cứu văn sự sụp đổ của miền Nam trước sự tấn công của miền Bắc.
[B]Tại sao Trung cộng đă viện trợ cho Việt cộng trong nhiều năm mà lại t́m cách cứu văn miền Nam khỏi sự sụp đổ trong những ngày tháng cuối cùng ? Câu trả lời là mặc dù Trung cộng viện trợ cho Việt cộng v́ là anh em trong khối xă hội chủ nghĩa nhưng Trung cộng rất ngại chuyện Việt cộng chiến thắng ở miền Nam v́ Trung cộng nghĩ rằng một nước Việt Nam thống nhất và hùng cường sẽ là trở ngại cho âm mưu bành trướng bá quyền của Trung cộng. Đó là nguyên nhân Trung cộng làm một chuyện rất nghịch lư và khó hiểu là t́m cách thương thảo để viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của miền Nam trong những giờ phút hấp hối. Trung cộng t́m cách viện trợ cho miền Nam không phải v́ thiện ư mong muốn nhân dân miền Nam được sống trong tự do mà v́ không muốn nh́n thấy một nước Việt Nam thống nhất hùng cường, và chuyện này có hại có âm mưu bành trướng lănh thổ của Trung cộng.[/B]
Sau ngày đổi đời 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản đă không cho "tắm máu " hàng loạt như một số phóng viên ngoại quốc dự đoán nhưng đă cho " phơi xương" từ từ những người miền Nam ngă ngựa trong những trại tù cải tạo. Chính vị sự chết chóc do Cộng sản gây ra cho người miền Nam sau 30 tháng 4 làm cho người ta oán trách quyết định đầu hàng của Dương văn Minh. Nói Dương văn Minh đầu hàng để tránh sự đổ máu cho nhân dân miền Nam là một nhận xét không hoàn toàn đúng. Sài g̣n không bị san thành b́nh địa v́ quyết định đầu hàng của Dương văn Minh nhưng máu của người miền Nam vẫn tiếp tục đổ sau ngày 30 tháng 4.. Cựu Thủ tướng Vc Vơ văn Kiệt đă thẳng thắn ca ngợi quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh trong một bài viết kỷ niệm ngày 30 tháng 4 mới đây. Dĩ nhiên quyêt định này đă tiết kiệm nhiều sinh mạng bộ đội miền Bắc. Cộng sản trả ơn cho Dương văn Minh bằng cách không đưa Dương văn Minh vào trại cải tạo và cho ra đi nước ngoài định cư sau này. Nếu sau ngày 30 tháng 4 mà không có sự trả thù tàn bạo của Cộng sản đối với những người miền Nam ngă ngựa th́ dư luận phê phán chắc chắn sẽ bớt nghiêm khắc về quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh.
Đỗ Mậu trong cuốn hồi kư " Việt Nam máu lửa quê hương tôi " đă phê phán ông Minh vận động để lên chức tổng thống trong những ngày cuối của miền Nam là một chuyện " ách giữa đàng, mang vào cổ " . Đó là một nhận xét chí lư. Ôâng Minh không phải là một nhà chính trị khôn ngoan, can đảm, quyền biến. Ôâng đă sai lầm khi t́m cách giành chức tổng thống trong giờ phút đất nước dầu sôi lửa bỏng nên ông đă phải hứng chịu nhiều sự chê trách, phê phán trong quyết định đầu hàng nhục nhă trong ngày 30 tháng 4.
Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền ḥa, nhưng rơ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Đại tướng Vơ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đ́nh, sai lầm của người chủ gia đ́nh có thể dẫn tới chuyện gia đ́nh ấy suy sụp, tan vỡ. C̣n nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà " tham sinh úy tử " , nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến th́ chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức ḿnh, nếu ḿnh " tài hèn, trí đoản " mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lănh đạo quốc gia th́ chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho ḿnh những sự nhục nhă ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách.
Los Angels, một chiều hiu quạnh, đ́u hiu đầu tháng 10 năm 2006
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
Email: [email]dalatogo@yahoo.com[/email]