Cái Chết Của Một Bác Sĩ Quân Y Sau Ngày " Cải Tạo " Về .
Buổi sáng nay, trong khi đang tập khí công ngoài vườn, thấy một đôi chim lạ xà xuống trên cành hoa vàng Golden Rain ở giữa vườn rồi tung tăng nhẩy múa với nhau, tôi chợt liên tưởng đến những mối t́nh đẹp của con người, đến những yêu thương mà người ta dành cho nhau, đậm đà tha thiết, làm cho đời sống mỗi ngày một phong phú hơn.
Không có t́nh yêu, nhân loại sẽ ra sao? Có lẽ chỉ là những bóng ma vô hồn, hay những Robot ngớ ngẩn, chỉ biết phá hoại cho đến khi nào thế giới này tàn lụi.
V́ những liên tưởng đẹp đẽ đó, tôi say mê nh́n ngắm đôi chim non kia và muốn được ôm chúng vào ḷng và thưởng cho chúng một nụ hôn thật dịu dàng.
Từ khi sang Mỹ, nhận thức của tôi về t́nh yêu và hôn nhân đă thay đổi rất nhiều.
Trước đó, tôi vẫn tưởng những biến cố ly dị trong cộng đồng Việt ở Mỹ rất hiếm họa, v́ người Việt vẫn có khuynh hướng trung thành với nền văn hóa cổ kính nhưng thanh bạch của ḿnh, các cặp vợ chồng vẫn hay nhịn nhường lẫn nhau, cho dù người đàn ông Việt thường hay nắm vai tṛ chủ động trong gia đ́nh, và đa số các ông chồng có tính áp đảo người vợ.
[B]Nhưng sau khi sang định cư ở quốc gia này rồi, tôi mới bàng hoàng thấy rằng các quan niệm về gia đ́nh, vợ chồng đă thay đổi rất nhiều, và người vợ ở xứ Mỹ này lại chủ động hơn các ông chồng, nhất là trong lănh vực ly dị.[/B]
Theo một luật sư cho biết, thập niên 70, hầu như rất hiếm có vụ li dị, đến thập niên 80, th́ tỷ lệ ly dị trong cộng đồng Việt là từ 5-7%, nhưng sau năm 1990, tỷ lệ này tăng cao dần, đến giữa thập niên 90 th́ ngang ngửa với Mỹ, nghĩa là 50%. Điều ngạc nhiên nữa là tỷ lệ người vợ xin ly dị chồng nhiều hơn chồng xin ly hôn từ 20% đến 30% tùy theo năm, nghĩa là số người “bợ vỏ” (vợ bỏ) khá cao.
Sự kiện đó làm cho tinh thần người đàn ông suy sụp nặng nề, lúc nào cũng lo ngại bị “bợ vỏ”, nên cách sinh hoạt cũng thay đổi nhiều lắm.
Trên hết, là các hậu quả đau thương của việc ly dị, nghiêng về phần phái mạnh. Một trong những chuyện đau thương đó, đă xẩy đến cho người bạn của tôi, bác sĩ Phạm Thanh Nh.
Nh. nội trú cùng trường và trên tôi hai lớp, nhưng không biết nhau, chỉ nhận ra nhau sau khi tôi chuyển vào K.30, là trung tâm y tế của trại tù Suối Máu.
Ngay ngày đầu gặp nhau ở trong trại, chúng tôi đă thấy muốn gần nhau, và sau vài câu chuyện xă giao về học hành, và sinh hoạt, tôi mới biết anh đă từng ở nội trú Đắc Lộ, Bẩy Hiền rồi đi khỏi đó để vào học Y Khoa, trước khi tôi bước vào đó.
Từ đó, chúng tôi thân nhau, và thường ăn chung với nhau để tâm sự. Sau khi ăn tối xong, anh và tôi thường tản bộ quanh nhà, nói chuyện đời, chuyện t́nh yêu thời trai trẻ, và chuyện lính tráng…
Anh cho tôi hay là vợ anh và các con đă vượt biên và đang định cư ở Mỹ. Tôi cũng mừng cho anh, và chúng tôi cùng tin tưởng rằng một ngày nào đó, anh được tha về và được đi Mỹ, xum họp với vợ con. Nhiều câu chuyện tưởng tượng đă được nói ra, nhiều nụ cười vang đă nở khi câu chuyện đến chỗ tiếu lâm vui vui.
C̣n tiếp...
Hồi kư đầy nước mắt: Linh Mục Nguyễn Văn Vàng Chết Trong Xà Lim Ngục Tù Cộng Sản
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời tháng 4-1985 ngay trong xà lim số 6-Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước.
Nếu có những linh mục cam tâm làm tay sai cho Cộng Sản để được vinh thân ph́ gia, th́ cũng có rất rất nhiều vị kiên trung trong Đức Tin thà chết chứ không làm tôi cho bọn quỷ dữ…
Ngày 29-4-1984, tôi được chuyển sang xà lim số 6 trại A-20 ở chung với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người em chủ trương năm 1976.
Tôi hoàn toàn không hiểu lư do của việc chuyển xà lim cá nhân này. Đây cũng là ngày mà tôi đánh dấu 3 năm bị cùm hai chân và có giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5.
Phải nói là tôi bị gông th́ đúng hơn. Nếu quư vị được nh́n thấy những tội phạm của thời phong kiến bị gông như thế nào th́ chúng tôi bị gông như thế nấy. Chỉ có khác là nhà tù Cộng sản không gông cổ mà thôi.
Linh Mục Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc của ḍng Chúa Cứu Thế, sau khi bị lên án chung thân khổ sai sau vụ và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, đă bị đưa lưu đầy tại trại A-20 Xuân Phước. Khi tôi đă nằm cùm trong biệt giam trong pḥng số 5 được 2 năm th́ một hôm Linh Mục Nguyễn Văn Vàng lúc ấy từ trại lao động bị đưa vào xà lim số 6, bên cạnh xà lim tôi bị giam.
Khi c̣n ở ngoài trại lao động, Ngài là đối tượng theo dơi của đám an ninh trại giam, nhất cử nhất động đều không qua mắt được một giàn ăng ten dầy đặc vây quanh vị tu sĩ công giáo này. Bọn an ninh trại nói thẳng ra rằng nếu chúng bắt gặp bất cứ tù nhân nào liên hệ với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, sẽ cùm ngay.
Tôi là một Phật Tử, nhưng mối liên hệ với Cha Vàng khá thân thiết và chúng tôi thường đàm đạo với nhau vào mỗi ngày sau giờ cơm chiều trước khi điểm số để vào buồng giam, không chấp lệnh của trại. Có lẽ đây là lư do bọn an ninh trại đưa tôi đi “nghỉ mát” trước và 2 năm sau họ đưa Cha Vàng và một vài anh em nữa vào những chiếc hộp nhỏ ở ngay sau nhà bếp của trại A. Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước thường được chúng tôi gọi là trại trừng giới (danh từ có từ thời Pháp thuộc để chỉ những trại có quy chế trừng trị tù nhân khắt khe). Cục Quản Lư Trại Giam của Cộng Sản th́ gọi những loại trại này là Trại Kiên Giam.
[B]Những người xây dựng trại Xuân Phước là ai? [/B]
[B][COLOR="#FF0000"]Cái oái oăm của lịch sử mà chúng tôi gặp phải chính là ở chỗ: Trại tù này lại do chính bàn tay của những người từng được di tản tới Guam trước ngày 30-4-1975, sau đó lại biểu t́nh đ̣i trở về lại Việt Nam bằng tầu Việt Nam Thương Tín, tạo dựng lên. [/COLOR][/B]
Lúc chúng tôi được chuyển trại về đây th́ có một số vẫn chưa được trả tự do. Chạy nạn Cộng Sản tới Guam , rồi v́ những lư do riêng biệt hầu hết là v́ gia đ́nh c̣n kẹt lại, trong cơn hoang mang và đau khổ tột độ, t́nh cảm che lấp lư trí và bị kích động, họ đ̣i quay trở về với lư do xây dựng lại quê hương sau chiến tranh.
Nhưng người Cộng Sản thừa hiểu, những người tị nạn này quay trở về chỉ v́ có người c̣n vợ con, có người c̣n mẹ già không có người săn sóc, có người hoảng loạn bỏ lại vợ mới cưới, người t́nh đằng sau. Cho nên, Cộng Sản mở một cuộc đón tiếp để quay phim chụp h́nh và sau đó đẩy tất cả đàn ông vào khu rừng Xuân Phước và bị buộc phải xây dựng nhà tù này để chính quyền Cộng Sản giam giữ chính những đồng đội của ḿnh.
Tôi đă có rất nhiều dịp tiếp xúc với họ, nên hiểu được tấm ḷng của họ và thấy họ đáng thương quư hơn là đáng trách.
[COLOR="#FF0000"]Một sĩ quan xưng là quản gia cho tướng Nguyễn Cao Kỳ tâm sự với tôi: “Cậu tính coi, lúc đó v́ hoang mang đi gấp không kịp lôi vợ con và bà mẹ già theo.. Đến Guam, cứ nghĩ đến họ, làm sao nuốt nổi miếng cơm chứ. Tôi biết nhiều người không thể thông cảm được lư do tôi trở về, trong đó có thể có cả vợ con tôi nữa, nhưng đành chịu vậy. Cho nên dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn nạn như thế này, tôi vẫn thấy lương tâm yên ổn hơn”…[/COLOR]
Tôi không có ư định nói chi tiết về vụ này mà muốn trở lại cái đêm Noel trong xà lim số 6. Xà lim là tiếng dịch theo âm Việt Nam của “cellule” (tiếng Pháp), xuất hiện trong văn chương và báo chí từ thời Pháp thuộc. Thực ra nếu tra tự điển tiếng Anh Việt hay Pháp Việt, chữ cell hay cellule đều có nghĩa là “tế bào”. Trong các trại tù của những quốc gia theo chủ nghĩa tư bản cũng như chủ nghĩa cộng sản, hoặc các quốc gia dân chủ tự do, những “tế bào” vẫn được hiểu là những pḥng biệt giam cá nhân để trừng phạt những tù nhân nguy hiểm. Những pḥng biệt giam cá nhân này thường được xây dựng theo một tiêu chuẩn giống nhau: Không gian nhỏ hẹp của chúng phải đáp ứng được nhu cầu trừng phạt cả thể xác lẫn tinh thần người tù.
Riêng tại các trại cải tạo do người Cộng Sản dựng lên, những pḥng biệt giam cá nhân được gọi bằng một nhóm từ “nhà kỷ luật”.
Trại A ở A-20 Xuân Phước có một dăy 10 pḥng biệt giam cá nhân, mỗi pḥng như vậy giống như một cái hộp với bề rộng 3 thước, dài 3 thước, cao 6 thước, xây dựng bằng vật liệu bê tông cốt sắt, kín mít chỉ có một lỗ ṭ ṿ nhỏ ở cánh cửa trước để cho vệ binh kiểm soát tù nhân ở bên trong.
Ở phía trong mỗi xà lim cá nhân, có hai bệ nằm song song, cách nhau bằng một khoảng hẹp khoảng nửa thước. Người tù nằm trên bệ quay mặt ra phía cửa hai chân bị cùm chặt bằng một cùm sắt (trong h́nh), có nhiều trường hợp bị cùm cả hai chân hai tay.
Nhưng cùm như thế nào? Có phải là cùm bằng c̣ng số 8 như ta thấy cảnh sát Mỹ c̣ng tay phạm nhân để giải giao về sở cảnh sát không?
Thưa không phải như vậy! Làm ǵ chúng tôi lại được ưu đăi đó. Loại c̣ng trong những xà lim mà tôi trải qua suốt 5 năm liên tiếp tại A-20 trong rừng Xuân Phước là “cùm Omega”.
Tại sao lại gọi loại cùm này bằng cái tên của một hiệu đồng hồ rất nổi tiếng là đồng hồ Omega. Hai cái ṿng sắt để khóa hai chân người có h́nh thù giống y chang logo của đồng hồ Omega
Khi bị c̣ng trong xà lim, người tù cải tạo bị đẩy ngồi lên bệ nằm, duỗi thẳng hai chân. Viên cán bộ an ninh trại giam sai một trật tự lấy ra một lô ṿng sắt h́nh kư hiệu omega ra và ướm thử vào cổ chân người tù. Nếu đám an ninh trại giam không có ư định trừng phạt nặng tù nhân cải tạo th́ họ ra lệnh cho trật tự lấy hai ṿng omega vừa vặn với cổ chân người tù cải tạo.
[B]Ngược lại nếu họ muốn trừng phạt nặng và muốn làm nhiễm độc thối chân người tù, họ tra vào cổ chân tù cải trạo hai ṿng omega nhỏ hơn ṿng cổ chân rồi đóng mạnh xuống. Khi cổ chân người tù lọt vào được chiếc ṿng omega, nó đă làm trầy trụa một phần hay nhiều phần cổ chân người tù. Sau đó, họ tra vào bên dưới một cây sắt dài qua những bốn lỗ tṛn ở hai ṿng omega, một đầu cây sắt ăn sâu vào mặt tường trong, đầu phía ngoài của thanh sắt được xỏ qua một chốt được gắn thật sâu xuống cạnh bên ngoài của bệ nằm. Một cây sắt khác ngắn hơn, một đầu được uốn tṛn, đầu kia của cây sắt này được đánh dẹp và khoan một lỗ nhỏ.
Khi hai thanh sắt này được khóa chặt với nhau th́ một đầu của cây sắt dọc sẽ xuyên qua một lỗ nhỏ tường phái trước, tḥ ra ngoài ra ngoài một đoạn. Chỉ việc tra một cái khóa vào đầu phía ngoài ấy của thanh sắt dọc là tất cả hệ thống trên sẽ tạo thành một cái cùm thật chặt khó ḷng một người tù nào có thể mở khóa v́ mấu chốt để tháo cùm là ổ khóa bên ngoài. Phải mở được ổ khóa bên ngoài th́ mới mở được cùm.[/B]
C̣n tiếp...