Phần đọc thêm 12 - "Cựu đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân" bây giờ ra sao?
Vài ḍng giới thiệu:
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc ĐÔI D̉NG NH̀N LẠI bài viết của tác giả Quang Hưng.về bà Ngô đ́nh Nhu để bạn đọc có thể biết cuộc sống đạm bạc, ẩn dật của một goá phụ đă một thời nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trong nền Đệ nhất Cộng Hoà.
Tôi không biết đĩa chỉ tác giả để xin phép, mong được lượng thừ
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/ngodinhdiem27_bangodinhnhu1.jpg[/IMG]
Bà Ngô Đ́nh Nhu - Trần Lệ Xuân[/CENTER]
Mỗi khi nhắc đến gia đ́nh họ Ngô, mọi người đều biết cặp Ngô Đ́nh Nhu – Trần Lệ Xuân. Dù đứng trong bóng tối của chế độ Ngô Đ́nh Diệm, nhưng quyền uy lại khuynh đảo cả miền Nam trước năm 1975. Mấy anh chị em ruột nhà Ngô, nay đă về “nước Chúa”, chỉ c̣n lại bà quả phụ Ngô Đ́nh Nhu, tức Trần Lệ Xuân. Đệ nhất phu nhân, một thời lừng lẫy, ngày nay sống ra sao?
Sau năm 1963, Trần Lệ Xuân cùng các con chuyển về sinh sống tại La Mă, nơi giám mục Ngô Đ́nh Thục đang cư trú. Ngày 13/12/1984, mấy mẹ con bà nhận được tin giám mục Thục từ trần tại Mỹ sau mấy năm bị khủng hoảng tinh thần. Lúc c̣n ở Việt Nam hay khi sống lưu vong ở nước ngoài, giám mục Ngô Đ́nh Thục lúc nào cũng yêu thương mẹ con bà. Do vậy, ông không chỉ là người thân ruột thịt, mà c̣n là ân nhân nơi đất khách quê người của Trần Lệ Xuân. Người ta nói, nhà cửa của mẹ con bà ở La Mă đều do ông mua sắm và c̣n cung cấp cả tiền bạc cho con cái bà ăn học nữa.
Khi được tin giám mục Ngô Đ́nh Thục qua đời, mẹ con bà Nhu định sang Mỹ chịu tang. Nhưng chẳng biết v́ sao, có lẽ do xích mích trong gia đ́nh, ông Ngô Đ́nh Luyện, em út trong gia đ́nh họ Ngô đă cấm không cho mẹ con bà sang dự tang lễ.
Gần hai năm sau, ngày 28/7/1986, bà Xuân nhận được điện thoại của em ruột là Trần Văn Khiêm, báo tin cha mẹ ruột là ông bà Trần Văn Chương qua đời, nhưng không rơ nguyên nhân. Sau đó, Khiêm bị cảnh sát FBI bắt, do có liên can đến cái chết của hai người này. Cha mẹ ruột qua đời, bà Nhu cũng không thể qua Mỹ chịu tang.
Đến năm 1990, người em út của Ngô Đ́nh Diệm là Ngô Đ́nh Luyện qua đời tại Paris v́ bệnh. Mẹ con bà Nhu cũng không thể đến dự tang, do trước đó có xích mích với nhau. Cuộc đời bà Trần Lệ Xuân, từng chứng kiến 10 đám tang, đều bất đắc kỳ tử của người thân, từng khóc hết nước mắt, nhưng không lần nào được tham dự tang lễ.
Cho đến nay, người ta vẫn đồn đoán: bà Nhu đă lấy chồng, hoặc qua đời từ lâu rồi, v́ không ai nghe tin tức. Tất cả đều vô căn cứ. Vào tháng 3/2002, luật sư Trương Phú Thứ có sang Paris chơi, và đă đến thăm bà quả phụ Ngô Đ́nh Nhu, chụp được tấm ảnh của bà. Khi về đến Hoa Kỳ, ông Thứ có viết một bài khá dài về bà.
Luật sư Trương Phú Thứ cho biết: bà Nhu sống một ḿnh trong căn hộ của một ṭa nhà mới xây gần tháp Eiffel. Bà có hai căn ở tầng thứ 11, tại một khu vực đẹp và đắt tiền nhất Paris. Bà ở một căn, căn c̣n lại cho thuê để sinh sống. Đó là nguồn thu nhập duy nhất, đủ để sống, không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ẩn dật, âm thầm lẻ loi, đến mức cựu trung tướng quân đội Sài G̣n Trần Văn Trung, rất quen thuộc với cộng đồng người Việt tại Paris, cũng tưởng bà Nhu đang sống ở Italia.
Bà Nhu tuy đă ngoài 80, nhưng vẫn khỏe mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Căn nhà bà Nhu khá tầm thường, với hai pḥng ngủ và một pḥng khách. Trên tường pḥng khách c̣n treo vài bức ảnh lớn của Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Thục, Ngô Đ́nh Nhu và con gái lớn Ngô Đ́nh Lệ Thủy. Bà Nhu bác bỏ tin đồn chuyện một người Pháp giàu có biếu giám mục Thục số tiền lớn, sau đó ông cho bà để mua căn hộ này. Rồi bà dành dụm thêm để mua căn nữa. Sự thật không phải thế. Bà Nhu trực tiếp nhận được tiền từ một ân nhân ẩn danh. Sau đó bà nhờ một cựu bộ trưởng thời De Gaulle giúp mua cho hai căn hộ này.
Trần Lệ Xuân nói: “Mấy thanh niên Việt Nam mới đến Pháp, bơ vơ, tôi cho tạm trú ở căn hộ này, không lấy tiền nhà và điện nước. Một thời gian sau, họ có thân nhân đón đi hay mua nhà riêng, tôi mới cho một nhà ngoại giao Nhật thuê. Bà c̣n tiết lộ vị ân nhân đó chính là bà Capici, một phụ nữ Italia từng nằm trong danh sách những người giàu nhất thế giới. Bà Nhu chưa từng gặp mặt vị ân nhân này, và măi 4 năm sau khi bà này tạ thế, Trần Lệ Xuân mới biết rơ thân thế và sự nghiệp!
Trên bức tường ngăn pḥng khách và nhà bếp, có treo bức ảnh đen trắng “Biệt điện Trần Lệ Xuân” ở Đà Lạt. Bà không hề có ư định trở về thăm Việt Nam. Khi nói về con cái, bà Nhu có vẻ hănh diện. Con trai lớn là Ngô Đ́nh Trác, tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp, năm nay 57 tuổi, lấy vợ Italia, có 3 con trai, 1 gái. Bà Nhu khoe những đứa cháu nội, con trai ông Trác: Ai cũng cao 1,8 mét, to lớn và rất đẹp trai. Vợ ông Trác thuộc ḍng dơi quư tộc, rất giàu có. Ông Trác chế tạo được nhiều nông cụ thích hợp cho canh tác những mảnh đất nhỏ. Gia đ́nh ông có một biệt thự to và đẹp ở nội thành La Mă, có dáng dấp như một tu viện cổ. Bà Nhu từng ở đây nhiều năm, khiến có tin đồn đoán bà sống trong một tu viện Công giáo!
Người con thứ nh́ là Ngô Đ́nh Quỳnh cũng đă ngoài 50 tuổi, tốt nghiệp Trường cao đẳng Kinh tế và Thương mại - ESEC. Đây là trường tư thục cao cấp, mức học phí rất lớn. Sinh viên phải thi tuyển gắt gao, nhưng khi tốt nghiệp lại được nhiều cơ quan tài chính quốc tế trọng dụng. Khi Quỳnh học, bà Nhu không đủ tiền học phí để đóng, phải kư giấy xin khất nợ. Hiện ông Quỳnh làm đại diện thương mại cho một công ty Hoa Kỳ ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ. Ông ta không có vợ con, bà Nhu nói: “Nó giống ông bác ruột (Ngô Đ́nh Diệm)”.
Cô gái út, Ngô Đ́nh Lệ Quyên có bằng tiến sĩ luật, Trường đại học Rome. Lệ Quyên là luật sư ngành công pháp quốc tế rất nổi tiếng, nhưng chỉ được mời thỉnh giảng tại Đại học Rome. Lư do: Cô không gia nhập quốc tịch Italia! Luật pháp xứ này không cho phép người không có quốc tịch làm giáo sư chính thức. Lệ Quyên được mời tham dự nhiều hội nghị quốc tế và đă công bố nhiều tham luận xuất sắc. Cô lấy chồng người Italia, nhưng đứa con trai lại lấy họ mẹ: Ngô Đ́nh Sơn, khiến cho bà Nhu rất hănh diện.
Mỗi sáng sớm, bất kể thời tiết nóng lạnh, bà Nhu đều đi bộ chừng 10 phút đến nhà thờ Saint-Paul dự lễ. Sau thánh lễ, bà ở lại giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt trưng bày hoa, nến. Ngày Chủ nhật, bà c̣n dạy giáo lư cho trẻ con.
Bà Nhu rất ít đi mua sắm. Nói đến áo quần, bà có vẻ đăm chiêu: “Ở Sài G̣n nóng quá, nên tôi mặc áo dài hở cổ, khiến Tổng thống không bằng ḷng”. Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên “kiểu áo bà Nhu” một thời là mốt thời thượng ở Sài G̣n. Bà nói: “Nhiều khi tôi phải đại diện chính phủ tiếp phu nhân các nước mà chẳng có đồ trang sức nào cả. Có một bà bộ trưởng muốn bán số đá rubi trang sức, tôi xin Tổng thống Diệm số tiền 6 ngàn đồng, để mua lại. Ông bằng ḷng, nhưng buộc phải viết giấy biên nhận, ghi đầy đủ lai lịch từng món. Đó là lần duy nhất ông Diệm cho tôi tiền, và bây giờ cũng không c̣n nhớ chúng thất lạc ở mô!”.
Bà Nhu kể lại: Dịp mùa xuân 1975, hệ thống Đài truyền thanh Mỹ, NBC có xin phỏng vấn 30 phút. Bà chấp nhận và đ̣i thù lao 10.000 USD và 2 vé máy bay khứ hồi hạng nhất Paris - Washington, để dẫn Lệ Quyên đi thăm ông bà ngoại, Trần Văn Chương. Đó là lần duy nhất bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất bà xuất hiện trên truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với bất kỳ báo chí Việt ngữ dưới bất kỳ h́nh thức nào.
Bà quả phụ Ngô Đ́nh Nhu đang viết dở một quyển hồi kư bằng tiếng Pháp do chính bà dịch sang tiếng Italia, Anh và Việt Nam. Bà cho biết, chỉ sau khi qua đời sách mới được phát hành
Quang Hưng
23/09/2009
Oakland, CA Fri Apr 16, 2010DHN
C̣n tiếp ...
Phần đọc thêm 14 - Yêu cầu Tướng Khánh trả lời trước lịch sử
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/ngodinhdiem30.jpg[/IMG][/CENTER]
Vài ḍng giới thiệu: Tôi vừa được đọc bài viết của tác giả Lữ Giang :”Yêu cầu Tướng Khánh trả lời trước lịch sử”.
Tôi xin phép tác giả Lữ Giang được cho vào Phần đọc thêm trong “ Đôi ḍng nh́n lại Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đ́nh Diệm”.
Trân trọng.
Quỳnh Hương (nvn)
Yêu cầu Tướng Khánh trả lời trước lịch sử
Hiện nay Đại Tướng Nguyễn Khánh, một nhân chứng lịch sử c̣n lại, vẫn đang khoẻ mạnh và tinh thần minh mẫn, nên chúng tôi viết bài này với ước mong Đại Tướng trả lời trước công luận về một quyết định lịch sử rất quan trọng và chính quyết định này đă đưa Miền Nam vào những cơn khủng hoảng liên tục, và sau đó chấm dứt sự nghiệp của Tướng Khánh, đó là:
Ai đă ra lệnh cho Bộ Tư Pháp soạn soạn thảo và ban hành một đạo luật man rợ, bất chấp các nguyên tắc căn bản của luật pháp, để giết ông Ngô Đ́nh Cẩn và một số người liên hệ đến chế độ Ngô Đ́nh Diệm?
Trước đây, chúng tôi đă có lần hỏi Đại Tướng ai đă ra lệnh nói trên, Đại Tướng trả lời rằng chuyện đó do bên Bộ Tư Pháp làm, ông không hay biết ǵ hết! Tôi làm trong chính quyền lâu năm, tôi biết rơ không bao giờ một cơ quan cấp bộ tự ư làm một chuyện quan trọng như vậy mà không có lệnh của cấp lănh đạo quốc gia.
DIỄN BIẾN LỊCH SỬ
Sau cuộc “chỉnh lư” ngày 30.1.1964, ngày 31.1.1964, Tướng Nguyễn Khánh lên làm Chủ Tịch Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội và theo chỉ thị của CIA, loại tất cả các tướng lănh thân Pháp đă được Mỹ dùng làm công cụ đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm.
Cuộc “chỉnh lư” nói trên, thường được gọi là “Pentagon Coup”, do Tướng Khiêm, một nhân viên CIA (agent) thứ thiệt, chủ động dưới sự chỉ đạo của CIA, c̣n Tướng Khánh chỉ “ăn có”. Do đó, tài liệu để lại cho thấy, theo sự chỉ đạo của Toà Đại Sứ Mỹ, Tướng Khánh sẽ làm Quốc Trưởng bù nh́n, c̣n Tướng Trần Khiêm làm Thủ Tướng nắm thực quyền. Nhưng Tướng Khánh không muốn làm Quốc Trưởng bù nh́n, nên ông quyết định đẩy Tướng Khiêm ra ngoại quốc rồi ông vừa nắm chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, vừa nắm chức Thủ Tướng.
Ngày 7.2.1964, Tướng Khánh ban hành Hiến Ước Lâm Thời số 2, cử Tướng Dương Văn Minh lên làm Quốc Trưởng bù nh́n và Tướng Khánh làm Thủ Tướng. Ngày 8.2.1964 Tướng Khánh công bố thành phần chính phủ.
Theo quy chế lúc đó, tất cả tổ chức chính phủ, kể cả quốc trưởng, đều nằm dưới quyền của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Tướng Khánh làm Chủ Tịch. Do đó, người lănh đạo tối cao của Miền Nam lúc đó, sau Đại Sứ Mỹ là Tướng Nguyễn Khánh. Vậy phải có lệnh của Tướng Khánh, Bộ Tư Pháp mới soạn ra đạo luật nói trên.
TIẾN TR̀NH CỦA LUẬT MAN RỢ
Trước khi nói chuyện tiếp với Tướng Nguyễn Khánh, chúng tôi xin tŕnh bày qua tiến tŕnh h́nh thành Sắc Luật số Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Ṭa Án Cách Mạng và nội dung của sắc luật này.
Sau khi đảo chánh thành công, Tướng Dương Văn Minh không quan tâm ǵ đến việc giải quyết những vấn đề của quốc gia mà chỉ lo vơ vét. Sau khi “chỉnh lư”, không biết tự ḿnh hay theo lệnh của ai, Tướng Nguyễn Khánh đă cho xúc tiến một cách khẩn cấp thủ tục thanh toán ông Ngô Đ́nh Cẩn và một số nhân vật liên hệ đến chế độ cũ chưa thể giết được trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963. Nhưng việc giết ông Cẩn và những người liên hệ gặp khó khăn, v́ các luật pháp hiện hành lúc đó không cho phép làm như vậy. Do đó, công việc trước tiên là phải h́nh thành một đạo luật mới, quy định một cách nào đó để có thể đưa ông Cẩn và những người liên hệ ra xét xử và tuyên án tử h́nh. Đây là một công việc rất phức tạp.
1.- Đưa Giám Đốc Nha Quân Pháp về làm Bộ Trưởng Tư Pháp
Công việc trước tiên là đưa Đại Tá Nguyễn Văn Mầu, Giám Đốc Nha Quân Pháp, lên làm Bộ Trưởng Tư Pháp.
Tại Việt Nam, Bộ Trưởng Tư Pháp thường được chọn trong các thẩm phán cao cấp hay các luật sư lăo thành v́ hai lư do: Lư do thứ nhất là người ở chức vụ này phải được mọi người kính nể, nhất là giới luật gia. Lư do thứ hai là người đó phải rất am tường về luật pháp và ngành tư pháp. Trường hợp của Đại Tá Nguyễn Văn Mầu là một biệt lệ. Ông ta chỉ chuyên về quân pháp nên không thể nắm vững t́nh trạng luật pháp rất phức tạp của Việt Nam thời đó được. Cấp bậc của ông ta lại thấp nên bị coi thường. Nhưng Tướng Khánh đă quyết định chọn ông ta v́ chỉ có ông ta mới chịu thi hành lệnh của Tướng Khánh, dù trái với các nguyên tắc căn bản của luật pháp. Một thẩm phán cao cấp hay một luật sư lăo thành không bao giờ chịu làm như vậy.
2.- Vượt lên trên nguyên tắc căn bản của luật pháp
Theo bộ Hoàng Việt H́nh Luật áp dụng tại Trung Phần hay H́nh Luật Canh Cải áp dụng tại Nam Phần, nếu truy tố “dư đảng Cần Lao” về các tội như bắt người trái phép, đả thương, tống tiền, kinh tài bất hợp pháp... th́ không thể tuyên án tử h́nh được. V́ vậy, Bộ Tư Pháp được lệnh phải soạn thảo và cho ban hành một văn kiện như thế nào để có thể xử tử h́nh ông Cẩn và những người liên hệ. Một nhóm luật gia đă được bí mật giao cho phụ trách công tác này.
Dự thảo luật đă đưa ra một số tội phạm mà họ cho rằng ông Ngô Đ́nh Cẩn và “dư đảng Cần Lao” đă vi phạm và ấn định những tội này có thể bị tử h́nh. Một sự quy định như thế dĩ nhiên là hoàn toàn trái với nguyên tắc bất hồi tố của h́nh luật (principle of non-retroactive of criminal law), tức h́nh luật không áp dụng cho những trường hợp xẩy ra trước ngày luật ban hành. Đây là một một nguyên tắc căn bản của h́nh luật được hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận và áp dụng, kể cả Hoàng Việt H́nh Luật và H́nh Luật Canh Cải của Việt Nam thời bấy giờ. Nguyên tắc này cũng đă được ghi vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị.
Điều 11, đoạn 2, của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền quy định như sau:
“Không ai có thể bị kết án về một tội h́nh sự do những điều ḿnh đă làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội h́nh sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành, mà cũng không bị tuyên phạt một h́nh phạt nặng hơn h́nh phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.”
Điều 15 của Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị quy định:
“Không ai có thể bị kết án về một tội h́nh sự do những điều ḿnh đă làm hay không làm nếu những điều ấy không cấu thành tội h́nh sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp dụng trong thời gian khi tội phạm xẩy ra. Cũng sẽ không bị tuyên một h́nh phạt nặng hơn h́nh phạt được áp dụng trong thời gian sự phạm pháp xẩy ra. Tuy nhiên, người vi phạm được hưởng sự khoan hồng hơn nếu luật mới ban hành sau ngày phạm pháp ấn định h́nh phạt nhẹ hơn.”
Mặc dầu có nhiều tranh luận, dự thảo Sắc Luật số 4/64 thiết lập Ṭa Án Cách Mạng cũng đă được Tướng Nguyễn Khánh kư và ban hành ngày 28.2.1964. Sắc Luật này đă đưa ra những quy định hoàn toàn trái với nguyên tắc căn bản của h́nh luật như đă nói trên.
Điều 1 của Sắc Luật quy định:
“Nay thiết lập một toà án Cách mạng có thẩm quyền xét xử trên toàn quốc những tội ác gây ra trong khoảng thời gian từ 26 tháng mười năm 1955 đến 1 tháng mười một năm 1963 bởi những bọn mật vụ, đại kinh tài, viên chức chính quyền cao cấp cùng nhân vật quan trọng dưới thời Ngô Đ́nh Diệm.”
Điều 2 quy định Toà Án Cách Mạng sẽ mở phiên xử đầu tiên trong tháng ba năm 1964, và hoạt động trong thời gian 3 tháng.
Điều 3 quy định 12 tội sẽ bị truy tố trước Toà Án Cách Mạng: gian nhân hiệp đảng; cố sát với trường hợp gia trọng; giết người bằng thuốc độc; tra tấn và phạm trọng tội; cố ư đả thương với mọi trường hợp gia trọng; hiếp dâm với mọi trường hợp gia trọng; bắt giam trái phép; cướp với trường hợp gia trọng; sách thủ tiền tài; đốt hủy sổ bộ, chứng thư, chứng khoán, thương phiếu; hối lộ và hối mại quyền thế, và lũng đoạn kinh tế quốc gia.
C̣n tiếp ...
Phần cuối (tiếp theo và hết)
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/ngodinhdiem30.jpg[/IMG][/CENTER]
Điều 4 định nghĩa lại các yếu tố tội phạm, phần lớn khác với định nghĩa của các điều luật đă áp dụng trước đó:
(1) Gian dâm hiệp đảng: những tổ chức khủng bố bí mật hay công khai;
(2) Đầu độc giết người: tội bắt giam người trong hầm có hơi độc, hay có chất độc hay thiếu không khí, để gây thiệt mạng;
(3) Mưu sát: Tội giết người đối lập về chính trị, việc tra tấn cho đến chết;
(4) Bắt giam trái phép: việc lưu đày một người mà không có án toà và ngoại trừ trường hợp dự liệu bởi Dụ số 6 ngày 11 tháng giêng năm 1956;
(5) Cướp: các việc tịch thu bất hợp pháp;
(6) Lũng đoạn kinh tế quốc gia: việc mang đi hay cho mang ra khỏi xứ, bất cứ bằng cách nào, các giá khoán động sản, giấy bạc Việt Nam, vàng, bạc, ngoại tệ, trái khoán, và bằng khoán; tổ chức kinh tài bất hợp pháp; sang đoạt công nho.
Điều 5 cấm toà án cách mạng không được quyền giảm khinh, cũng như không được phạt án treo.
Điều 15 quy định rằng Toà Án Cách Mạng tuyên án liền sau phiên họp nghị án, không đ́nh hoản. Những án khuyết tịch coi như đương tịch.
Điều 16 cấm các bị cáo không được kháng cáo hoặc thượng tố.
Hầu hết những quy định trên là những quy định mới, không được dự liệu trong các luật lệ đă có từ trước và đă được đem áp dụng để truy tố và xét xử ông Ngô Đ́nh Cẩn và “dư đảng Cần Lao” nên hoàn toàn trái với nguyên tắc bất hồi tố của h́nh luật. Điều này cho thấy những người đứng đàng sau vụ án đă có quyết tâm giết ông Ngô Đ́nh Cẩn và một số người liên hệ đến chế độ cũ bằng mọi giá.
Sau vụ này, trong các sách giáo khoa ở trường luật, các giáo sư thường nêu lên Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 như một văn kiện điển h́nh vi phạm nguyên tắc bất hồi tố của h́nh luật đă được đưa ra thi hành và các luật gia đă coi đó là một thứ luật man rợ, một vết dơ trong nền tư pháp Việt Nam Cộng Hoà. Ngay trong vụ án Saddam Hussein được Toà Án Đặc Biệt Iraq (Iraqi Special Tribunal) xét xử, trong bản án phúc thẩm ngày 26.12.2006, Toà Phúc Thẩm Iraq xác nhận nguyên tắc bất hồi tố của h́nh luật vẫn được tôn trọng. Nói cách khác, luật pháp của Iraq áp dụng cho tập đoàn Saddam Hussein c̣n văn minh và công bằng hơn luật pháp do Tướng Nguyễn Khánh đưa ra lúc đó.
Chúng tôi đă phỏng vấn nhiều thẩm phán và luật sư lăo thành thời đó xem nhóm luật gia nào đă được giao cho soạn thảo Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 và ai đă chỉ thị cho họ làm như vậy, nhưng không một tin tức nào được tiết lộ.
Tiếp theo, ngày 28.2.1964, Tướng Khánh kư Sắc Lệnh số 120-TP cử các tay chân bộ hạ của ông, sẵn sàng thi hành lệnh ông, vào thành phần xử án để thi hành quyết định của ḿnh, đó là Đại Tá Trần Văn Chương, Đại Tá Nguyễn Văn Chuân, Đại Tá Đặng Văn Quang, Trung Tá Dương Hiếu Nghĩa (ghi lầm là Nguyễn Văn Nghĩa), v.v.
LỆNH GIẾT PHÁT XUẤT TỪ ĐÂU?
Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng”, Tướng Trần Văn Đôn cho biết như sau:
“Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng đă quyết định đưa ông Cẩn đi ra ngoại quốc rồi. Ông Cẩn lại không có tội ǵ rơ rệt đến nổi sinh mạng ông bị đe doạ. Hai anh của ông ta chết, máu đổ thêm nữa có ích lợi ǵ?...” (tr. 248).
Thế th́ tại sao có lệnh phải làm một đạo luật man rợ để giết ông Cẩn?
Một số người cho rằng áp lực đ̣i nợ máu của nhóm Phật Giáo đấu tranh, nhất là hai Thượng Tọa Thiện Minh và Trí Quang, là động lực chính khiến Tướng Khánh phải ra tay, v́ Tướng Khánh vốn bị nhóm này tố cáo là “Cần Lao tái xuất giang hồ” , nên phải có hành động như thế để chứng minh ông ta không phải là Cần Lao.
Tuy nhiên, nhiều người tin rằng sự thúc đẩy hay khuyến cáo của một số viên chức Hoa Kỳ, nhất là Đại Sứ Cabot Lodge, là lư do chính khiến Tướng Khánh phải ra tay: Nếu ông Cẩn c̣n sống, các nhóm ủng hộ chế độ Ngô Đ́nh Diệm có thể làm đảo chánh và đưa ông Cẩn lên.
Trong công điện khẩn mang số 930 gởi cho Bộ Ngoại Giao ngày 5.11.1963 (sau khi ông Diệm vừa mới bị giết), ông Lodge nói ông Cẩn sẽ “được xét xử theo luật pháp” và “chính phủ Hoa Kỳ có thể trở thành người biện hộ cho tội ác, nếu toan tính làm việc xét xử ở đây bị trở ngại v́ ông Cẩn là khuôn mặt đáng phải chịu sự oán ghét mà ông ta đang phải nhận” . Điều này cho thấy ông Lodge đă quyết định giết ông Cẩn. Nhiều người tin rằng ông Lodge đă mượn tay Tướng Khánh để thực hiện âm mưu của ḿnh.
Thời đó, không có lệnh của Toà Đại Sứ Mỹ, Tướng Khánh không bao giờ dám đưa ra một quyết định quan trọng như vậy, dù bị áp lực của nhóm Phật Giáo đấu tranh đ̣i nợ máu. Trong công điện gởi về Washington ngày 30.4.1964, Đại Sứ Lodge kể lại rằng Tướng Khánh đă nói với ông:
“Chúng tôi người Việt Nam muốn người Mỹ chịu trách nhiệm với chúng tôi chứ không phải chỉ là những cố vấn”. (We Vietnamese want the Americans to be responsible with us and not merely be advisers).
GIẤU ĐẦU L̉I ĐUÔI
Năm 2005, khi bị chất vấn về vụ giết ông Cẩn, Tướng Nguyễn Khánh nói rằng quyền tha hay giết ông Cẩn là quyền của Tướng Dương Văn Minh, v́ lúc đó Tướng Minh là Quốc Trưởng. Riêng ông đă giúp ông Cẩn bằng cách đưa Đại Tá Đặng Văn Quang, con đỡ đầu của ông Cẩn, vào làm phụ thẩm Quân Nhân tại Ṭa Án Cách Mạng xét xử ông Cẩn. Nhưng Tướng Khánh đă nói láo.
Đại Tá Đặng Văn Quang sinh tại Ba Xuyên là người công giáo đạo gốc, đi lính Pháp với cấp cập hạ sĩ từ 1947 – 1949, sau đó đi học khoá 1 sĩ quan Đập Đá ở Huế cùng với Nguyễn Văn Thiệu.
Trong thời gian ở Huế, Đặng Văn Quang c̣n là Trung Tá, có người t́nh là cô Đỗ Thị Năm, người Nam, không có đạo. Cô Năm đă xin theo đạo để hợp thức hoá t́nh trạng hôn nhân theo luật đạo Công Giáo. Trung Tá Quang đă nhờ bà Ngô Đ́nh Thị Hiệp, em ông Diệm, vợ ông Tạ Văn Ấm và mẹ Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, đỡ đầu cho cô Năm khi chịu phép rửa tội và lấy tên thánh là Elisabeth, có lẽ để được ông Cẩn tin cậy và giúp đỡ! Như vậy không hề có chuyện ông Cẩn đỡ đầu cho Đại Tá Đặng Văn Quang như Đại Tướng Khánh đă nói. Ông Cẩn cũng không bao giờ đỡ đầu rửa tội cho bất cứ ai.
Về chuyện đổ tội cho Tướng Dương Văn Minh, chúng tôi đă nói với Tướng Khánh rằng lúc đó Tướng Minh chỉ là quốc trưởng bù nh́n, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Tướng Khánh làm Chủ Tịch mới có quyền đưa ra quyết định tối hậu. Nhưng ông vẫn đổ tội cho Tướng Minh.
Đại Tướng Khánh có biết ông Cẩn đă nh́n các sĩ quan được Đại Tướng cử làm phụ thẩm quân nhân tại Toà Án Cách Mạnh như thế nào không? Luật Sư Vơ Văn Quan người biện hộ cho ông Cẩn, cho biết, khi nh́n mấy tên phụ thẩm quân nhân ngồi xét xử, ông Cẩn đă nói với Luật sư Quan:
“Luật sư biết không, lúc mấy tên đó tới lui tại nhà tôi, khúm núm xưng “con”, xin xỏ, cầu cạnh. Bây giờ bọn nó tiếp tay để ngồi phiên xử này xử tôi, mặc dầu họ có thể từ chối. Đúng là một lũ phản phúc...”
Luật sư Quan cho biết thêm, lúc ở phiên toà, ông Cẩn ngồi dựa vào ghế, nh́n thẳng vào các phụ thẩm quân nhân. Một vài phụ thẩm quân nhân, khi nh́n xuống, chạm phải mắt ông Cẩn, liền quay về hướng khác.
C̣n Tướng Nguyễn Khánh th́ sao? Đại Úy Nguyễn Văn Minh, người phụ trách về an ninh của ông Cẩn lúc đó có kể lại năm 1956, sau khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh ở Huế, Tướng Khánh đến xin được vào chào ông Cẩn, nhưng không hiểu tại sao ông Cẩn không tiếp. Đại Tá Khánh liền áp dụng chiến thuật “lỳ”. Từ hôm sau, mỗi buổi sáng, đầu giờ làm việc, Tướng Khánh đều mặc quân phục chỉnh tề, tự ḿnh lái xe đến đậu ngay trước nhà ông Cẩn. Sau khi yêu cầu nhân viên gác cổng vào tŕnh xin cho ông được gặp, ông trở ra ngồi trên xe đợi hàng tiếng đồng hồ. Không được gặp, hôm sau Tướng Khánh lại lái xe đến và làm như thế, liên tiếp trong ba bốn sáng. Cuối cùng, ông đă được ông Cẩn tiếp.
Luật Sư Vơ Văn Quan Luật sư Quan đă kết luận bài biện hộ cho ông Cẩn như sau:
“Trong cuộc cách mạng năm 1789 của Pháp, quốc hội gọi là Convention National, bầu trong thời kỳ La Terreur (Khủng Bố) gồm đa số là những người do tên độc tài khát máu Robespierre dùng áp lực để đưa vào. Trước khi đem vua Louis XVI ra xét xử tại Quốc Hội, Robespierre đă tuyên bố là phải cho án tử h́nh. Trong phiên ṭa đặc biệt đó, nhiều người của Convention National đă cật vấn hằn học, mạt sát thậm tệ vua Louis XVI, cho biết trước rằng họ sẽ bỏ phiếu tuyên án tử h́nh. Khi đứng lên biện hộ cho vua Louis XVI, Luật sư Sège đă can trường nói thẳng với họ: “Je viens ici chercher des juges, mais je ne trouve que des bourreaux.” (Tôi đến đây t́m những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ).
Trong lịch sử tư pháp Việt Nam, chúng tôi chưa thấy có luật sư nào dám xúc phạm các quan ṭa như vậy. Nhưng v́ những điều Luật Sư Quan nói là sự thật nên các “phán quan” chỉ ngồi chịu trận chứ không có phản ứng nào.
Trong vụ án Đặng Sỹ, Đại Tướng Khánh cũng đă quyết định tuyên án tử h́nh. Nhưng khi bị áp lực của Khối Công Dân Công Giáo, Đại Tướng đă phải thay đổi quyết định của ḿnh.
Sáng 7.6.1964 một cuộc biểu t́nh lớn với khoảng 100.000 người tham dự đă được tổ chức tại công trường Lam Sơn, trước trụ sở Quốc Hội ở Saigon. Đoàn biểu t́nh đứng kéo dài trên đường Lê Lợi đến chợ Bến Thành. Trong cuộc biểu t́nh này người ta thấy có các biểu ngữ: “Lột mặt nạ bọn lợi dụng Cách Mạng để đàn áp Công Giáo”, “Mỵ dân là phải bội Dân Chủ”, “Ủng hộ cuộc đấu tranh của Công Giáo miền Trung” ,... Thỉnh thoảng có một vài biểu ngữ “Cabot Lodge cút đi” được đưa lên rồi hạ xuống.
Trước áp lực của khối Công Giáo, chiều 7.6.1964, Tướng Nguyễn Kháng đă cho Chuẩn Tướng Albert Nguyễn Cao, đại diện cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đến thông báo cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh, Linh mục Trần Tử Nhăn ở Ḍng Cứu Thế và gia đ́nh Đặng Sĩ biết Đặng Sỹ sẽ không bị tuyên án tử h́nh và đừng quan tâm đến bản án ṭa sẽ tuyên trong ngày mai. Ṭa chỉ tuyên án để thỏa măn những đ̣i hỏi của Phật Giáo mà thôi. Trong một thời gian ngắn, khi t́nh h́nh lắng dịu, Đặng Sỹ sẽ được trả tự do.
Điều này một lần nữa xác định Tướng Khánh là người nắm quyền quyết định về kết quả của các vụ án do Toà Án Cách Mạng xét xử.
Thiếu Tá Đặng Sỹ cho biết, sau khi tuyên án, ông Chánh Thẩm Lê Văn Thụ đă đi ngang qua chỗ ông đang đứng và nói: “Anh Sỹ, anh đừng buồn chúng tôi. Chắc anh đă hiểu!” Nói cách khác, ông Chánh Thẩm Lê Văn Thụ muốn nói với Thiếu Tá Đặng Sỹ rằng không phải ông muốn tuyên án như vậy, nhưng đó là lệnh. Một chánh thẩm của vụ án mà thanh minh như vậy, đâu c̣n là công lư nữa?
XIN TRẢ LỜI DỨT KHOÁT
Bây giờ chúng tôi đă thu thập đầy đủ những văn kiện liên quan đến ba vụ án quan trọng của thời đó là vụ án Phan Quan Đông, vụ án Ngô Đ́nh Cẩn và vụ án Đặng Sỹ, trong đó có bản cáo trạng, lời khai của các nhân chứng, các chứng tích được xuất tŕnh, bài căi của các luật sư và bản án. Chúng tôi cũng đă t́m được các báo cáo của Đại Sứ Cabot Lodge cho Washington trong thời gian vụ án Ngô Đ́nh Cẩn xẩy ra. Chúng tôi mong rằng Đại Tướng sẽ làm sáng tỏ lịch sử.
Đại Tướng Dương Văn Minh đă không thể chối căi việc ông đă ra lệnh giết Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung, Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu.
Các tài sử liệu chúng tôi đă đưa ra nói trên cũng cho thấy Đại Tướng Nguyễn Khánh là người đă quyết định số phận của Phan Quang Đông, Ngô Đ́nh Cẩn và Thiếu Tá Đặng Sỹ. Tướng Khánh cũng không thể chối căi được. Khi chúng tôi tŕnh bày hồ sơ của từng vụ án, Tướng Khánh sẽ thấy rơ hơn.
Dư luận thắc mắc là trong các vụ án nói trên, Tướng Khánh đă tự ư hành động hay đă làm theo lệnh của Đại Sứ Cabot Lodge hoặc áp lực của nhóm Phật Giáo đ̣i nợ máu? Nếu Tướng Khánh tự ư làm, xin cho biết lư do.
Chúng tôi muốn tạo cơ hội cho Đại Tướng trả lời một cách thẳng thắn trước lịch sử thay v́ chối quanh hay đánh bùn sang ao. Chúng tôi cũng xin nói rơ, với các tài liệu c̣n lưu lại, Đại Tướng không thể chối quanh hay đánh bùn sang ao được.
Nếu Đại Tướng không thể giải thích được, những sự kiện được chúng tôi dẫn chứng nói trên sẽ đi vào lịch sử và Đại Tướng sẽ phải lănh nhận sự lên án của các thế hệ tiếp theo như Tướng Dương Văn Minh.
(Cali ngày 12.4.2009)
Lữ Giang
[CENTER]- Hết -[/CENTER]