Khôn ngoan đá đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
[QUOTE=Nguoidan;133686]Lạy hồn. Hồn phân tích thời sự chính trị như vậy th́ mời hồn về học lại lịch sử rồi hăy lên tiếng b́nh luận. Chống cộng kiểu của hồn th́ đúng như ai đó nói : Có mà đến tết Công Gô. Sợ hồn thật đấy.:D[/QUOTE]
Bác à, bác đọc Hồi kư của Tran Trọng Kim chưa?. Sở dĩ nước VN chia rẽ là do sự độc tài áp bức mà Bắc Việt áp dụng lên dân VN. Bắc Việt chỉ làm những việc hại dân hại nước, ai mà lên tiếng sẽ bị tù đày.
Tôi xin bác hăy đừng khôn nhà dại chợ nữa. Dân miền Nam không có vui thú ǵ khi phải bắn giết người VN với nhau hai, ba chục năm.
Bác hăy để dành hơi sức mà xây dựng nước VN giàu mạnh, toàn vẹn lănh thổ, chống Tàu xâm lược, đừng v́ một chủ nghĩa ngoại lai nào mà ức hiếp dân ḿnh. Không có cộng sản chủ nghĩa nào mà được áp dụng ở các nước mang danh CS từ quá khứ cho đến nay. Tất cả chỉ là chiêu bài giả dối lừa gạt nhân dân thôi bác à.
Chúng ta đừng gây chia rẽ người VN với nhau bằng những từ: CS, đảng viên.
Những từ đó Bắc Việt du nhập từ bên Lien Xô.
Tàu nó cũng không phải là anh em đồng chí ǵ đâu bác.
Yêu nước bằng că tấm ḷng hay chỉ yêu nước bằng miệng
[COLOR="#FF0000"][/COLOR]
Suốt 4000 năm lịch sử , khi nào TQ mạnh th́ họ t́m cách xâm lược và thống trị Việt Nam . Khi nào TQ yếu th́ dân tộc Việt Nam lại khởi nghĩa đánh đuổi xâm lược chạy về Tàu . Từ khi Pháp chiếm VN hiệp định biên giới Pháp Thanh cũng chỉ có tính sơ lược , trên giấy , người Pháp chỉ quan tâm đến chính trị và khai thác kinh tế , trong khi Trung Quốc lúc nào cũng ḍm ngó đất đai , t́m mọi cách xâm lấn theo tầm ăn dâu , những cột móc đơn xơ bị họ lén lút di dời lấn đất . Khi dân tộc VN lo chiến tranh giải phóng đất nước họ cũng âm thầm lấn chiếm . Đến sau năm giải phóng Việt Nam bắt đầu cũng cố và xây dựng đồn biên pḥng chặt chẻ . Chiến tranh biên giới Việt Nam Trung Quốc nổ ra năm 1979 . Biên giới VN và Trung Quốc luôn căng thẳng . QĐNDVN cũng chiến đấu rất anh dũng , hàng ngàn chiến sỹ đổ máu hy sinh để bảo vệ biên giới . Tuy nhiên duy tŕ măi chiến tranh biên giới cũng không có lợi cho việc xây dựng và phát triển kinh tế cho că đôi bên . V́ vậy VN và TQ lại hoà với nhau . Đây là một cơ hội để VN bàn việc xác định lại cột móc biên giới . Toàn dân VN ai cũng biết nhà ḿnh cạnh nhà một anh vừa đông người , vừa tham lam , lúc nào cũng ŕnh lấn đất . Th́ việc làm khôn ngoan và hiệu quả nhất là xây lại hàng rào cho cụ thể , cho rỏ ràng , có sự chứng kiến của xóm làng là việc làm có lợi cho người yếu thế .
Nhà Nước Việt Nam đă khôn ngoan làm một việc hết sức khó khăn để cùng với Trung Quốc đàm phán , phân định biên giới trên bộ và trên biển , hai bên căn cứ vào những yếu tố vừa mang tính chất luật pháp quốc tế , vừa mang tính phù hợp với cư dân sinh sống ở đường biên , với phương châm VN không để mất đất và cũng không lấn đất , tuy nhiên có những nơi cần phải đàm phán nhường nhịn cho că hai bên v́ vấn đề đi lại và sinh hoạt của người dân biên giới . Những vấn đề căng thẳng hơn , phái đoàn đàm phán phải hỏi ư kiến của các vị lăo thành , các vị bô lăo , rồi mới dám quyết định . Các cột móc đều được xây dựng lại chắc chắn , có khối lượng lớn được đổ bằng bê tông chắc chắn để không di dời được và mỗi cột móc đều được định vị bằng vệ tinh , tại Hà Nội có thể kiểm tra và quan sát được . Số lượng cột móc cũng tăng lên chưa từng thấy với khoảng cách giữa hai cột không quá 500 mét , hai cột liền nhau phải nh́n thấy được bằng mắt thường để dể tuần tra . Đây là một việc làm có lợi cho VN hơn . Các anh có thể tham khảo ở các tài liệu sau đây :
[url]http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,20526.50.html[/url]
[url]http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,20526.70.html[/url]
[url]http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,20526.80.html[/url]
Yêu nước bằng că tấm ḷng hay chỉ yêu nước bằng miệng
[COLOR="#FF0000"][/COLOR]
Để phục vụ cho những anh em không có nhiều thời gian để nghiên cứu toàn bộ việc đàm phán xây dựng cột móc biên giới , tôi xin trich những phần quang trọng :
2.3. Đàm phán kư kết Hiệp ước biên giới trên đất liền năm 1999
Thực hiện Thoả thuận về nguyên tắc năm 1993, từ năm 1994 đến cuối năm 1999, hai bên tiến hành 6 ṿng đàm phán cấp Chính phủ và 16 ṿng đàm phán ở cấp Nhóm công tác liền hợp, 3 ṿng họp Nhóm soạn thảo Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Hai bên thành lập Nhóm công tác liên hợp (Nhóm chuyên viên) để đàm phán. Từ năm 1994, Nhóm công tác liên hợp đă xúc tiến các cuộc đàm phán giải quyết các vấn đề cụ thể về biên giới.
Vấn đề đầu tiên cần phải giải quyết là xây dựng hoặc lựa chọn bộ bản đồ địa h́nh làm cơ sở thể hiện đường biên giới theo Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895. Hai bên thống nhất tiến hành việc thể hiện biên giới theo Công ước Pháp - Thanh lên bản đồ theo quan điểm và nhận thức của mỗi bên về vị trí đường biên giới. Thực tế là hai bên tự xác định "đường biên giới chủ trương" của ḿnh rồi cùng nhau trao đổi. Phía Việt Nam đă đề nghị hai bên cùng đo vẽ lập bản đồ địa h́nh tỷ lệ 1/50.000 ở khu vực biên giới, trên cơ sở đó sẽ thể hiện đường biên giới chủ trương để làm cơ sở đàm phán.
Thực tế tại thời điểm này phía Việt Nam chưa có một bộ bản đồ địa h́nh hoàn chỉnh nào bao trùm toàn bộ chiều dài biên giới hai nước (mọi tỷ lệ). Các loại bản đồ khu vực biên giới hiện có th́ có độ chính xác không cao. Phía Trung Quốc đồng ư tỷ lệ bản đồ địa h́nh để thể hiện đường biên giới là tỷ lệ 1/50.000 và để tiết kiệm thời gian, Trung Quốc sẽ trao cho phía Việt Nam bộ bản đồ địa h́nh tỷ lệ 1/50.000 hiện có, nếu phía Việt Nam chấp nhận th́ sẽ lấy bộ bản đồ đó để thể hiện đường biên giới chủ trương của mỗi bên và coi bộ bản đồ này là bộ bản đồ công tác của hai bên.
Sau khi nhận bộ bản đồ địa h́nh tỷ lệ 1/50.000 của Trung Quốc, các cơ quan kỹ thuật của Việt Nam đă kiểm tra và đối chiếu địa h́nh thực tế và kiến nghị có thể sử dụng bộ bản đồ này làm bộ bản đồ công tác giữa hai bên.
Về phần địa danh trên bản đồ, phía Việt Nam đề nghị sẽ tiến hành hiệu chỉnh phần địa danh phía Việt Nam bằng tiếng Việt và kết quả giải quyết biên giới lănh thổ giữa hai nước sẽ thể hiện trên bản đồ đă được phía Việt Nam hiệu chỉnh địa danh.
Ngày 30-6-1994, hai bên đă trao cho nhau bộ bản đồ thể hiện đường biên giới chủ trương do mỗi bên tự xác định trên cơ sở căn cứ vào việc giải thích các Công ước Pháp - Thanh. Qua đối chiếu, phần lớn đường biên giới chủ trương của hai bên trùng khớp với nhau. Các khu vực khác biệt không nhiều, gồm ba loại: Loại A là các khu vực khác nhau do lỗi kỹ thuật; loại B là các khu vực cả hai bên cùng chưa vẽ tới; loại C là các khu vực khác nhau do hai bên có quan điểm khác biệt. Cụ thể:
Trong tổng chiều dài 1.406 km đường biên giới th́ đường chủ trương của hai bên trùng khớp nhau gần 900 km, tức là không có tranh chấp (chiếm khoảng 67% tổng chiều dài đường biên giới bộ giữa hai nước). C̣n lại khoảng 506 km (33%) đường biên giới c̣n có sự khác biệt giữa hai bên, gồm 289 khu vực, cụ thể:
+ Loại A có 74 khu vực do hai bên vẽ chồng lấn lên nhau (gọi là các khu vực do lỗi kỹ thuật, tổng diện tích khoảng 1,87 km2).
+ Loại B có 51 khu vực do cả hai bên đều chưa vẽ tới (tạo thành vùng bỏ trắng, với tổng diện tích khoảng 3,062 km2).
+ Loại C có 164 khu vực do hai bên có nhận thức khác nhau, có tranh chấp, tổng diện tích khoảng 227 km2.
Tổng diện tích các khu vực loại A và loại B không lớn (chỉ khoảng 5 km2). Hai bên chủ yếu tập trung vào bàn giải quyết các khu vực C (tổng diện tích rộng khoảng 227 km2).
Trong đàm phán, đối với các khu vực loại A và các khu vực loại B, hai bên thống nhất giải quyết khá nhanh. Riêng các khu vực loại C, do quan điểm của hai bên khác nhau và c̣n có một số khu vực đang có tranh chấp ở trên thực địa nên giải quyết khó khăn.
Đến ṿng họp 12 của Nhóm công tác liên hợp (từ ngày 26-5-1998 đến ngày 5-6-1998), hai bên đă hoàn thành việc đối chiếu sơ bộ hướng đi của đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc đối với 164 khu vực C nói trên. Qua đối chiếu sơ bộ th́ thấy việc giải quyết các khu vực này không thể giải quyết được theo thẩm quyền của Nhóm. V́ vậy hai bên nhất trí báo cáo lên cấp trên giải quyết. Theo đó, trong cuộc họp ṿng VI cấp Chính phủ, hai bên đă thoả thuận phân loại 164 khu vực C thành ba loại và thống nhất nguyên tắc giải quyết đối với từng loại cụ thể như sau:
Lấy các Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và năm 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo cũng như các mốc giới cắm theo quy định làm căn cứ để đối chiếu và phân các khu vực hai bên có nhận thức khác nhau thành loại "rơ ràng" và loại “không rơ ràng" để giải quyết theo hướng:
+ Loại rơ ràng th́ căn cứ vào các quy định của hai Công ước Pháp - Thanh để giải quyết, nếu bên nào giải quyết quá th́ trao lại cho bên kia.
+ Loại không rơ ràng th́ sử dụng tổng hợp các yếu tố khác nhau (lịch sử, quản lư, địa h́nh, bản đồ lịch sử, mốc giới, tiện lợi cho quản lư) để giải quyết theo tinh thần thông cảm, nhân nhượng lẫn nhau, công bằng, hợp lư.
Các khu vực dân cư hai bên đă sinh sống lâu đời th́ duy tŕ cuộc sống ổn định của dân cư.
Đối với những đoạn biên giới theo sông, suối, những đoạn đă được hai công ước Pháp - Thanh quy định rơ ràng th́ theo hai Công ước, c̣n những đoạn chưa được hai Công ước quy định rơ ràng th́ giải quyết theo những nguyên tắc của pháp luật quốc tế và thực tiễn quốc tế, cụ thể là:
+ Đường biên giới trên các đoạn sông, suối, tàu, thuyền đi lại được th́ theo trung tâm luồng chính tàu thuyền qua lại.
+ Đường biên giới trên các đoạn sông, suối tàu thuyền không đi lại được th́ đi theo trung tâm của ḍng chảy hoặc ḍng chính.
Đối với các khu vực có pháo đài lịch sử của các bên th́ giải quyết trên cơ sở tôn trọng quyền của bên hữu quan đối với các pháo đài đó.
Cũng trong cuộc họp ṿng VI cấp Chính phủ, hai bên thoả thuận thúc đẩy nhanh cường độ đàm phán, số lần đàm phán để hoàn thành việc đối chiếu xử lư 164 khu vực C tuần tự từ Tây sang Đông để có báo cáo kết luận cuối cùng lên cuộc họp ṿng VII cấp Chính phủ vào năm 1999 để thực hiện quyết tâm của lănh đạo cấp cao hai nước là sẽ kư Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc trước năm 2000.
Thực hiện quyết tâm của lănh đạo cấp cao hai nước, Nhóm công tác liên hợp về biên giới Việt Nam - Trung Quốc đă tập trung lực lượng, thời gian cùng nhau nghiên cứu đề xuất các giải pháp tŕnh lănh đạo các cấp giải quyết dứt điểm các vấn đề.
Theo các nguyên tắc đă đạt được trên đây, các vấn đề lần lượt được hai bên tháo gỡ, giải quyết. Hai bên đă cơ bản giải quyết xong toàn bộ các khu vực có nhận thức khác nhau và thống nhất được một đường biên giới duy nhất được thể hiện trên bản đồ, trong đó có bốn khu vực đường biên giới c̣n vẽ nét đứt (186, 188, 189, 289) sẽ giải quyết sự quy thuộc cồn băi theo nguyên tắc sông, suối khi hai bên tiến hành phân giới, cắm mốc.
Đối với các khu vực loại C, là những khu vực phức tạp, nhạy cảm, hai bên đă tập trung nhiều thời gian đàm phán giải quyết, kết quả cụ thể như sau: Trong 164 khu vực (với tổng diện tích thực tế là 225,4 km2), quy thuộc cho Việt Nam khoảng 110,6 km2, quy thuộc cho Trung Quốc khoảng 114,8 km2. Về số lượng khu vực đă giải quyết có 46 khu vực theo đường biên giới chủ trương của Việt Nam, 44 khu vực theo đường chủ trương của Trung Quốc và 70 khu vực theo địa h́nh và thực tế quản lư. Trong đó có 18 khu vực gắn với đường chủ trương của Việt Nam, 21 khu vực gắn với đường chủ trương của Trung Quốc, 31 khu vực theo đường "đại để chia đôi" trên cơ sở đường chủ trương của cả hai bên.
Đối với một số ít khu vực dân cư hai bên đă sinh sống lâu đời th́ duy tŕ ổn định cuộc sống của dân cư, kể cả ở khu vực dân cư Việt Nam ở giữa đường biên giới pháp lư.
Các khu vực sông, suối được giải quyết theo các nguyên tắc đă nêu ở trên và trong Hiệp ước sau này cũng chỉ ghi nguyên văn các nguyên tắc đó.
Đối với các pháo đài của chính quyền Pháp và nhà Thanh th́ của bên nào, thuộc bên đó. Đối với các điểm cao có chốt quân sự Trung Quốc đóng sau năm 1979, giải pháp đạt được là: Phù hợp với quy định của Công ước Pháp - Thanh, các điểm cao nằm trong lănh thổ Việt Nam được trả lại cho Việt Nam, c̣n đối với các điểm cao nằm trên đường biên giới th́ đường biên giới đi qua chúng, theo luật pháp quốc tế không bên nào được phép đóng quân trên đường biên giới. Riêng ở khu vực 74C thuộc xă Thanh Thuỷ, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (có bốn chốt quân sự của Trung Quốc) th́ đường biên giới đi theo đường chủ trương của Việt Nam, chỉ tránh một phần nhỏ (khoảng 0,77 ha) đối với một đỉnh cao.
Khu vực cửa khẩu Hữu Nghị (khu vực 249 C) bao gồm cột km số 0 điểm nối ray đường sắt được giải quyết như sau: ở khu vực cửa khẩu biên giới đi qua cột km số 0; ở khu vực đường sắt biên giới đi qua phía Bắc điểm nối ray và "nhà mái bằng" mà phía Trung Quốc xây tháng 5 năm 1992 khoảng 148 m (tức là điểm nối ray, "nhà mái bằng" đề nằm ở phía Việt Nam).
Từ năm 1998, đồng thời với việc đàm phán giải quyết các khu vực có nhận thức khác nhau, hai bên xúc tiến ba ṿng đàm phán tập trung soạn thảo Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Tại các cuộc họp ṿng I và ṿng II của Nhóm soạn thảo Hiệp ước, hai bên đă cơ bản thống nhất được khung pháp lư của Hiệp ước gồm 8 điều, trong đó riêng điều II được quy định để mô tả hướng đi của đường biên giới và phân chia biên giới thành 61 đoạn, thống nhất được 62 giới điểm.
Tại cuộc họp ṿng III, trên cơ sở kết quả đạt được của Nhóm công tác liên hợp và đường biên giới được hai bên thống nhất trên bộ bản đồ địa h́nh tỷ lệ 1/50.000. Nhóm soạn thảo Hiệp ước đă hoàn thành toàn bộ việc soạn thảo văn bản Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Ngày 30-12-1999, Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đă được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đại diện Chính phủ Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đường Gia Triền, đại diện Chính phủ Trung Quốc cùng nhau kư kết tại Hà Nội.
Nội dung của Hiệp ước gồm Phần mở đầu và 8 điều khoản, trong đó có 7 điều mang tính nguyên tắc chung và một điều mô tả chi tiết hướng đi của đường biên giới (Điều II). Những nội dung chủ yếu của Hiệp ước là:
Phần mở đầu của Hiệp ước đă khẳng định mục đích của việc kư kết hiệp ước này là nhằm giữ ǵn và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước, xây dựng đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc thành biên giới hoà b́nh, ổn định và bền vững măi măi trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, b́nh đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hoà b́nh.
Điều I xác định cơ sở để hai bên giải quyết vấn đề biên giới và xác định lại đường biên giới đất liền giữa hai nước là dựa vào các Công ước lịch sù về biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc (Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và năm 1895), các nguyên tắc pháp luật quốc tế được công nhận và các thoả thuận đạt được trong quá tŕnh đàm phán về vấn đề biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Việc hai bên lấy các Công ước lịch sử về biên giới hiện nay giữa Việt nam và Trung Quốc làm cơ sở để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước đă thể hiện sự thừa nhận của hai nước đối với tính pháp lư của đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc đă được hoạch định trong hai Công ước trên.
Điều II là điều khoản quan trọng nhất và cũng là điều khoản dài nhất của Hiệp ước. Điều này mô tả chi tiết, cụ thể hướng đi của đường biên giới.
Đường biên giới được mô tả trong Điều II cơ bản như đường biên giới đă được chính quyền Pháp và nhà Thanh hoạch định trước đây, tức là đi theo đường phân thuỷ, theo sống núi, theo sông, suối hoặc theo các dạng địa h́nh đặc trưng khác.
Phân chia toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc thành 61 đoạn có chung tính chất về địa h́nh, được xác định bằng 62 giới điểm, đánh số từ giới điểm số 1 đến số 62 theo hướng từ Tây sang Đông, trong đó:
Có 21 giới điểm có độ cao xác định.
Có 19 giới điểm ở giữa sông, suối biên giới.
Có 9 giới điểm ở hợp lưu sông, suối.
Có 5 giới điểm ở khe núi, đỉnh núi.
C̣n lại là các giới điểm ở các địa điểm khác (như giữa đường giao thông, bằng khoảng cách bởi điểm cao xác định).
Trừ giới điểm số 62 là điểm cắt của trung tuyến luồng chính tàu thuyền đi lại được của sông Ka Long với đường đóng cửa sông cũng là điểm tiếp nối đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lănh hải của hai nước Việt Nam và Trung Quốc. C̣n lại từ giới điểm số 1 đến giới điểm số 61 đều được mô tả xác định vị trí trên cơ sở các điểm chuẩn ở gần đường biên giới, mỗi giới điểm được xác định bằng ba điểm chuẩn nằm trong lănh thổ hai nước (thông thường là ở giới điểm này có một điểm chuẩn nằm trên lănh thổ Việt Nam và hai điểm chuẩn nằm trên lănh thổ Trung Quốc th́ ở giới điểm khác sẽ có một điểm chuẩn nằm trên lănh thổ T rung Quốc và hai điểm chuẩn nằm trên lănh thổ Việt Nam). Theo đó, các điểm chuẩn có độ cao xác định với tổng số 183 điểm trong đó có 96 điểm trong lănh thổ Việt Nam và 87 điểm trong lănh thổ Trung Quốc.
Ngoài ra, Hiệp ước c̣n mô tả đường biên giới đi qua 496 điểm có độ cao xác định. Tổng số các điểm chưa có độ cao xác định nêu trong Hiệp ước là 679 với độ cao thấp nhất là 100 m, cao nhất là trên 2.000 m.
Điểm cực Đông của đường biên giới đất hến giữa hai nước là điểm gặp nhau giữa đường trung tuyến luồng chính tàu thuyền đi lại được của sông Bắc Luân với điểm tiếp nối của hai đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lănh hải của Việt Nam và Trung Quốc. Điểm cực Tây là vị trí ngă ba biên giới ba nước Việt Nam, Trung Quốc và Lào.
Những cồn băi trên sông, suối đă được xác định thuộc bên này hoặc bên kia th́ được thể hiện trên bản đồ kèm theo Hiệp ước, đồng thời lời văn hiệp ước cũng khẳng định rơ là những cồn băi nằm hai bên đường đỏ trên bản đồ làm theo hiệp ước đă được quy thuộc.
Toàn bộ đường biên giới được thể hiện trên bộ bản đồ tỷ lệ 1/50.000 gồm 34 mảnh có chữ kư của đại diện toàn quyền hai nước, là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước.
Việc thống nhất mô tả đường biên giới giữa hai nước theo Điều II của Hiệp ước này cho thấy hai bên đă có nhận thức giống nhau về đường biên giới khi hoạch định giữa hai nước. Điều này có nghĩa là trong khoảng 1.350 km đường biên giới đă được hoạch định trong hai Công ước Pháp - Thanh, ngoài hai phần ba đường biên giới (khoảng 900 km) hai bên đă thống nhất th́ c̣n khoảng một phần ba đường biên giới hai bên có nhận thức khác nhau nhưng đă được giải quyết xong. Việc giải quyết này dựa vào thoả thuận mà hai bên đạt được trong quá tŕnh đàm phán từ năm 1993 đến năm 1999.