Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung[/B]
Chuyện Hồ có vợ con, nhiều người t́nh, thậm chí đa thê, th́ cũng chỉ là những chuyện b́nh thường, riêng tư, mà trong đám đàn ông, ai cũng có thể mắc phải, không có ǵ đáng nói và cũng không nên nói.
Nhưng đối với nhân vật Hồ Chí Minh trong lịch sử VN cận đại th́ lạt khác. Bởi v́ chính Hồ và đám con em đệ tử của ông ta, cho đến nay, vẫn ngoạc mồm ra ca tụng là "Bác Hồ hy sinh cho công cuộc cứu nước đến quên cả hạnh phúc riêng tư của ḿnh", "Bác Hồ là ông thánh", v.v… Thậm chí Hồ c̣n lấy hai bút hiệu là Trần Dân Tiên và T. Lan để viết bài tự ca tụng ḿnh một cách trâng tráo và thô bỉ (đó là các cuốn sách ô nhục "Đời hoạt động của Bác Hồ" và "Vừa đi vừa ngước nh́n").
Chính v́ những lư do đó mà người ta đă đi t́m và dần dần đă "bật mí" ra biết bao nhiêu điều tầm thường, đôi khi rất bẩn thỉu về các cuộc t́nh ái riêng tư của Hồ, một con qủy dâm dục và lường gạt. Và điều quan trọng nhất là từ Hồ trở xuống đến lũ đàn em, con cháu đều là một lũ nói láo, nói láo đến độ trơ trẽn, vô liêm sỉ.
Ngoài những "mối t́nh lớn" có cưới hỏi, có con được công nhận một cách bán chính thức đă được trưng dẫn với các bằng chứng hiển nhiên, chính xác như 4 người tạm gọi là "vợ chính thức" :
1- Tăng Tuyết Minh (Quảng Châu, Trung Hoa), từ tháng 10/1926 đến tháng 5/1927, sau đó "quất ngựa truy phong".
2- Nguyễn Thị Minh Khai (trong khoảng 1931-1933). Sau đó, Minh Khai đă bỏ Hồ để lấy Lê Hồng Phong. Mấy năm sau, cả hai vợ chồng này lần lượt đêu bị Pháp bắt, rồi bị xử bắn hay chết trong tù. Phải chăng chính Hồ đă dàn dựng để trả mối…hận t́nh ?
3- Nông Thị Ngát (người thiểu số, tại hang Pac Bó, Cao Bằng), trong khoảng 1940-1942, mẹ Nông Đức Mạnh.
4- Nông Thị Xuân (người thiểu số, tại Hà Nội), từ 1956-1957, mẹ Nguyễn Tất Trung, bị Hồ cho đàn em thủ tiêu v́ cô này đ̣i phải "công khai" mối t́nh này.
Ngoài ra c̣n cả chục mối t́nh nhỏ hơn, nhưng lại thuộc loại lem nhem, lén lút, đôi khi lại là màn cướp vợ của bạn bè, đồng chí, họ hàng với những thủ đoạn vô cùng bỉ ổi và đê tiện. Những vụ này rất ít người biết v́ những người trong cuộc đă bị thủ tiêu để bịt miệng. Tuy vậy vẫn c̣n người biết và lần hồi đă được kể lại, hoặc t́m thấy những tài liệu trong kho lưu trữ của t́nh báo, mật vụ Nga sau khi chế độ CS ở đây cáo chung. Ta có thể kể :
1- Marie Bière : Theo tác gỉa Thành Tín (tức Bùi Tín) trong tác phẩm "Về ba ông thánh", xuất bản tháng 5/1995, trang 149 : "Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh (tại Paris), ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên Marie Bière nào đó…".
2- Lư Huệ Khanh : theo một tài liệu, năm 1927 (thời gian Hồ vừa cưới Tăng Tuyết Minh được vài tháng), Hồ đă dụ dỗ em gái của Lư Huệ Quần (Tàu, vợ Lâm Đức Thụ, đồng chí thân thiết nhất của Hồ, và cũng là người đă làm mai Tuyết Minh cho Hồ). Có thể cộng thêm với vụ hợp tác cùng Hồ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, mà bản án tử h́nh đă treo trên đầu Thụ, để diệt khẩu. Năm 1945, sau khi Hồ trở thành Chủ tịch nước VN Dân chủ Cộng ḥa, Thụ về Hà Nội và đă được Hồ tiếp đón rất trọng thể, nhưng sau đó ít ngày th́ Thụ… biến mất. Từ đó, không c̣n ai gặp hay nghe nói tới Thụ nữa.
3- Lư sâm (Tàu, vợ của Hồ Tùng Mậu) : trong « HoChiMinh », tác gỉa William Duiker có kể câu chuyện về một phụ nữ tên Lư Sâm, lúc đó là vợ Hồ Tùng Mậu, mà Mậu vưà là anh em họ, vừa là đồng chí cốt cán của Hồ lúc đó. Theo William Duiker, Lư Sâm và Hồ đă bị cảnh sát Anh bắt khi đang ngủ chung trong một pḥng Hotel ở Hongkong vào hồi 2 giờ sáng ngày 6/6/1931 (thời gian này Hồ cũng đang gian díu với người đồng chí trẻ Nguyễn Thị Minh Khai). Lúc này Hồ mang tên là Tống Văn Sơ, nhưng bị mật vụ Anh nhận diện ra Sơ chính là Lư Thụy, là Nguyễn Ái Quốc. Pháp xin dẫn độ Hồ về VN để xử, nhưng v́ có sự chống đối mạnh của các nhóm cánh tả ở Anh nên nhà cầm quyền Hongkong phải đưa Hồ ra ṭa. Như vậy Hồ bị bắt v́ dụ dỗ cô em dâu họ vào Hotel để hành lạc chứ không phải v́ lư do « chống thực dân Anh » nhu lịch sử đảng CS sau này thêu dệt ra. Riêng Hồ Tùng Mậu, sau khi về VN hoạt động đă bị Pháp bắt và chết trong tù (Hồ Tùng Mậu là họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, và là cha của Hồ Đức Việt, đương kim Ủy viên Bộ Chính Trị khóa 10 của đảng CSVN hiện nay).
4- Vera Vasilieva (Nga) : cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham khảo cuả bà Sophia Judge, một sử gia Mỹ rành tiếng Việt đă bỏ ra nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về Hồ, nhất là 2 năm Hồ ở Moscou… Theo bà Sophia Judge, khi họp đại hội ở Nga, ngoài Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ c̣n có người t́nh Nga tên Vera Vasilieva. Vera đă có con gái riêng và sau này, cô kể cho bà Sophia Judge nghe (trong "Về ba ông thánh", trang 151) : "Vào dịp Đại hội 4 của Quốc tế CS, cô ta mới 10 tuổi, nhưng c̣n nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ lại trên ghế dài vào năm 1934…"
Nơi trang 153 sách cùng tên, Bùi Tín c̣n dẫn bài viết của bà Sophia Judge : "Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Anh c̣n để lại khi về nước môt valy quần áo anh sắm cho vợ toàn là loại hạng sang, cô bé Nga này lấy ra dùng bao nhiêu năm mới hết".
Trong hồi kư « Con rồng VN », Cựu hoàng Bảo Đại ghi : « HCM có một người vợ Nga và có chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến » (trang 205). Sở dĩ Cựu hoàng biết chuyện này là khi làm Cố vấn cho chính phủ Liên Hiệp, trong những dịp đi « công tác » với Vơ Nguyên Giáp vào năm 1945 và Giáp đă kể lại.
5- Đỗ Thị Lạc (đảng viên, theo Hồ về hang Pac Bó năm 1940). Như vậy trong thời gian này, ít nhất, Hồ đă có 2 phụ nữ trẻ bên ḿnh để giải quyết sinh lư là Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Ngát, tức Nông Thị Trưng (mẹ Nông Đức Mạnh).
Trong hồi kư "Một cơn gió bụi", học gỉa Trần Trọng Kim viết rằng ông Hồ có quan hệ t́nh cảm với một người tên Đỗ Thị Lạc và có con gái với bà này. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng cho biết như trên nhưng kết luận, "Nhưng sau đó th́ cả hai mẹ con bà này đều mất tông tích".
Trong sách "Năng động HCM", tác giả Thép Mới của CS cũng ghi (trang 143) : "Bác giới thiệu với bản làng người nữ cán bộ hôm qua cùng về với Bác : - Đây đồng chí Lạc thay cháu Nông Thị Trưng về đây ở với đồng bào !"
6- Những câu chuyện chưa thể kiểm chứng : Gần đây, trên hệ thống mạng, có luân lưu một vài tài liệu mà ta chưa thể kiểm chứng một cách chắc chắn, dù chính chúng tôi đă được tiếp chuyện nhiều lần với một Tata đă lớn tuổi (trên 70), khi nghe kể về bài viết này th́ Tata này chỉ nói : "Chuyện ấy đúng đấy ! Ngày xưa Tata cũng thế !"
Trước đây mấy năm, vị Tata này có lần đă kể với chúng tôi và một vài người nữa là hồi 1947-1950, khi Tata này khoảng 14, 15 tuổi đă được "tuyển" vào toán thiếu nhi luôn "quấn quưt" bên "Bác". Toán này có hai nhiệm vụ : ban ngày, mỗi khi "Bác" muốn đi ngang hay vào một làng nào th́ các cháu phải vào trước nghe ngóng t́nh h́nh ; c̣n nhiệm vụ buổi tối th́ vị Tata này chỉ vừa cười vừa nói : "C̣n phải hỏi".
Bài viết ngắn này mang cái tựa rất "xă hội chủ nghĩa" : "Lần gặp Bác Hồ tôi bị mất trinh" với mấy tấm ảnh rất đặc biệt, kư tên Huỳnh Thị Thanh Xuân. Nội dung kể lại câu chuyện năm 1964, một nhóm thiếu nhi thuộc những "gia đ́nh cách mạng" ở miền Nam được "tuyển" ra Bắc "tham quan" và gặp Bác Hồ. Huỳnh Thị Thanh Xuân, 15 tuổi, là giao liên cho biệt động thành Đà Nẵng và huyện uỷ Điện Bàn, Đại Lộc. Sau khi gặp Bác, các cháu gái lần lượt đều được Bác ưu ái tiếp riêng từng đứa trong "căn nhà sàn" và đều bị Bác… phá trinh "gây giống" ngay trong đêm.
Chuyện có vẻ như bịa, như đùa, nhưng nếu quư vị có đọc qua bài viết vào tháng 10/2006 của tác giả Hoàng Dũng, cán bộ VP trung ương (thời Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư) th́ sẽ thấy dưới chế đô CS, nhất là CSVN, chuyện ǵ cũng có thể xảy ra.
Theo Hoàng Dũng (do lời kể lạI của Nguyễn Văn Linh), "Bác Hồ" rất "ưa thích" gái Nam Bộ. Do vậy, Bộ Chính trị thời ấy do Lê Duẩn làm Tổng Bí thư, đă yêu cầu Xứ bộ miền Nam tuyển một số cháu gái trẻ đẹp để đưa ra Bắc "phục vụ" Bác. Sau khi "tuyển" xong, chính Vơ Văn Kiệt là người sẽ hộ tống "các cháu" ra Bắc... Nhưng v́ chiến tranh trở nên ác liệt, đường đi bị nghẽn nên chưa thể đưa ra ngay được. Và trong lúc chờ đợi, chính Kiệt đă "qua mặt Bác" làm cho một "cháu" đẹp nhất trong bọn có họ Phan mang bầu.
Do đó, cô cháu gái họ Phan này phải ở lại và sau sinh một tai, lấy họ mẹ, tức Phan Thanh Nam, một "đại gia" hiện đang "hét ra lửa, mửa ra đôla" từ nhiều năm nay ở VN.
Mà chuyện Phan Thanh Nam là con rơi của Vơ Văn Kiệt, do Kiệt đă sám "ăn hớt" phần của Bác Hồ th́ đám cán bộ trong "B" ai mà không biết. Cũng như chuyện Nguyễn Tấn Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh hay Trần Nam là con rơi của Trần Văn Trà, v.v…, v.v…
Nguyễn Y Vân (BNS Bạn Đường số 111 ngày 14/10/2010).
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Tăng Tuyết Minh, ngưởi vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc[/B]
by Hoàng Tranh — Cập nhật : 11/12/2008 23:45
Cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh lại trở thành thời sự khoa học và văn học với nghiên cứu của nhà sử học Nhật Bản Tsuboi và cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Dương Thu Hương. Nhân dịp này, chúng tôi công bố trên mạng bài báo đă đăng trên Diễn Đàn số 121 (tháng 9.2001).
[IMG]http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/ttmtre.jpg[/IMG]
Tăng Tuyết Minh ở tuổi 20
Tăng Tuyết Minh,
người vợ Trung Quốc
của Nguyễn Ái Quốc
Hoàng Tranh
“ Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đă sống độc thân suốt thời gian dài lâu nhưng hoàn toàn không phải Người suốt đời không lấy vợ. Thực ra, Hồ Chí Minh từng có một giai đoạn sống trong hôn nhân chính thức. Đó là vào thời ḱ những năm 20 đầu thế kỉ XX khi người tiến hành công tác cách mạng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Nói cụ thể là vào tháng 10 năm 1926, Hồ Chí Minh từng lấy cô gái Quảng Châu Tăng Tuyết Minh làm vợ, đă cử hành hôn lễ, sau khi cưới đă chung sống với nhau hơn nửa năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời Quảng Châu, Hồ Chí Minh đă mất liên lạc với vợ và từ đó không thể gặp lại nữa. Từ đó, đôi t́nh nhân ấy, người không bao giờ đi bước nữa, người không một lần nào nữa cưới vợ, mỗi người một phương trời, đều sống độc thân cho đến khi từ biệt cơi đời này.”
ttmtre
“ Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Hồ Chí Minh, quê ở huyện Mai tỉnh Quảng Đông, sinh tháng 10 năm 1905 ở thành phố Quảng Châu. Thân phụ của Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa, thời trẻ một ḿnh đến Đàn Hương Sơn (Honolulu) lúc đầu làm công, sau buôn bán ; khi tích luỹ được ít vốn liếng, trở về nước tiếp tục buôn bán, gia cảnh khấm khá, vui vẻ. Người vợ đầu của ông Tăng Khai Hoa họ Phan, sinh được hai trai một gái. Sau khi bà Phan bị bệnh mất, ông lấy bà vợ kế họ Lương là người huyện Thuận Đức sinh được 7 cô con gái nữa. Tăng Tuyết Mai là con út, bởi vậy những người quen biết Tăng Tuyết Minh thường gọi cô là “ cô Mười ”. Khi cô 10 tuổi th́ người cha qua đời, để lại một chút bất động sản. Bà Lương thị cùng Tuyết Minh sống qua ngày nhờ vào tiền thuê nhà, gia cảnh không được như trước. Năm 1918, mới 13 tuổi, Tuyết Minh đă bắt đầu theo chị là Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ sản khoa, học việc hộ lí và đỡ đẻ. Đầu năm 1923, người chị ấy đưa Tăng Tuyết Minh đến Phiên Ngu để học Cao đẳng tiểu học. Nửa năm sau, Tăng Tuyết Thanh chẳng may ĺa đời, Tăng Tuyết Minh mất đi nguồn chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy phải vào trường Hộ sinh Quảng Châu học tập. Tháng 6 năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường trợ sản, được ông hiệu trưởng giới thiệu đến trạm y tế La Tú Vân làm nữ hộ sinh. Chính thời gian này Tăng Tuyết Minh làm quen với Hồ Chí Minh lúc ấy đang tiến hành công tác cách mạng ở Quảng Châu.”
“ (...) Tháng 11 năm 1924, Hồ Chí Minh từ Mạc Tư Khoa đến Quảng Châu, lấy tên là Lư Thuỵ, làm việc tại pḥng phiên dịch của cố vấn Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn, trú ngụ tại nhà hàng của ông Bào tại quảng trường Đông Hiệu. Sau những giờ làm công tác phiên dịch, Hồ Chí Minh dành nhiều th́ giờ và tâm sức vào công việc liên kết và tổ chức các chiến sĩ cách mạng Việt Nam, sáng lập tổ chức cách mạng Việt Nam, huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam trong công tác. Trong thời gian ấy, những thanh niên cách mạng Việt Nam đến Quảng Châu trước như Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ đều trở thành trợ thủ đắc lực cho Người. Lâm Đức Thụ cùng người vợ Trung Quốc của ông là Lương Huệ Quần chính là ông mối bà mối cho cuộc hôn nhân của Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh.”
“ Lâm Đức Thụ vốn tên là Nguyễn Công Viễn, người huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B́nh, Việt Nam, sinh năm 1890 (cùng tuổi với Hồ Chí Minh). Hồ Chí Minh cùng với gia đ́nh Lâm Đức Thụ có thể nói là chỗ giao hảo nhiều đời. Hai người quen biết nhau từ thuở thiếu thời, lại cùng chí hướng. Năm 1911, Hồ Chí Minh đến châu Âu t́m chân lí cách mạng, gần như đồng thời, hưởng ứng lời hiệu triệu của nhà chí sĩ chống Pháp lăo thành Phan Bội Châu, Lâm Đức Thụ muốn Đông du qua Nhật, nhưng khi nổ ra Cách mạng Tân Hợi, Phan Bội Châu tới Trung Quốc, sáng lập Việt Nam Quang phục hội ở Quảng Châu, Lâm Đức Thụ theo Phan Bội Châu đến Quảng Châu và gia nhập hội đó. Đầu năm 1922, một số thanh niên nhiệt huyết trong Việt Nam Quang phục hội cảm thấy thất vọng về cánh già bảo thủ nên đă li khai Quang phục hội để lập ra một đoàn thể cấp tiến hơn là Tâm tâm xă. Sau khi đến Quảng Châu, Hồ Chí Minh rất nhanh chóng liên hệ được với Tâm tâm xă và quyết định cải tạo tổ chức này thành một tổ chức cách mạng chân chính của giai cấp vô sản Việt Nam. Hồ Chí Minh vốn quen biết Lâm Đức Thụ từ trước nên ở Quảng Châu Người coi Lâm là cốt cán có thể tin cậy.”
“ Lâm Đức Thụ hoạt động ở Quảng Châu một thời gian khá lâu. Ở đây ông đă lấy cô gái Trung Quốc Lương Huệ Quần làm vợ. Mẹ của Lương Huệ Quần là một thầy thuốc đă mở tại thành phố Quảng Châu một dịch vụ y tế. Lương Huệ Quần có làm công tác y tá tại đó. Năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường Bảo sinh trợ sản, qua sự giới thiệu của ông hiệu trưởng đă tới cơ sở dịch vụ y tế của mẹ Lương Huệ Quần làm cô đỡ nên đă nhanh chóng quen biết với Lương Huệ Quần và trở nên thân thiết. Lương Huệ Quần lớn hơn Tăng Tuyết Minh 3 tuổi nên cô thường gọi là “ chị Quần ”, hai cô đối xử với nhau như chị em ruột.”
napab
[IMG]http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/nguyenaiquocab.jpg[/IMG]
Nguyễn Ái Quốc ở tuổi 30
“ Lâm Đức Thụ sau năm 1927 đă từng bước phản bội, li khai hàng ngũ cách mạng Việt Nam làm không ít điều nguy hại cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhưng tại thời điểm mấy năm Hồ Chí Minh mới đến Quảng Châu th́ ông ta cũng là một thanh niên cách mạng hăng hái có triển vọng. Hồ Chí Minh chẳng những được Lâm Đức Thụ phối hợp và chi viện trong công tác mà c̣n được Lâm giúp đỡ cả về mặt kinh tế. Hồ Chí Minh thậm chí đă đem cả chuyện trăm năm của ḿnh phó thác cho Lâm Đức Thụ. Mùa hè năm 1926, Hồ Chí Minh đề xuất với Lâm Đức Thụ rằng do việc công quá bận rộn, anh cũng muốn t́m một cô gái Trung Quốc để tiện trong cuộc sống nơi cư trú có người chăm sóc. Lâm Đức Thụ cùng với vợ là Lương Huệ Quần bàn bạc thấy Tăng Tuyết Minh là đối tượng thich hợp bèn giới thiệu cho Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh làm quen với nhau. Hồ Chí Minh sau khi gặp mặt Tăng Tuyết Minh đă rất có cảm t́nh với cô gái Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng nơn điềm đạm, đoan trang, thông minh, sáng dạ, v́ vậy sau giờ làm thường hẹn gặp và tṛ chuyện với cô. Nơi gặp gỡ thường là nhà Lương Huệ Quần. Cảm t́nh của đôi bên ngày càng sâu sắc, nhanh chóng đi đến trao đổi về hôn lễ. Thời gian này Hồ Chí Minh thường đưa Tăng Tuyết Minh đến nhà hàng của ông Bào để gặp phu nhân họ Bào và tranh thủ ư kiến của bà về việc hôn nhân của họ. Phu nhân họ Bào nhiệt liệt tán thành việc kết hôn của họ. Thế nhưng bà mẹ Tăng Tuyết Minh ngay từ đầu không đồng ư cuộc hôn nhân này v́ thấy Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng phiêu lưu bạt xứ, ở không định nơi, con gái lấy người như vậy rồi sẽ khổ đau một đời. Đúng vào lúc ấy người anh hai của Tăng Tuyết Minh là Tăng Cẩm Tương, sau một thời gian sang Mỹ học tập đă trở về Quảng Châu. Anh gặp Hồ Chí Minh, dùng tiếng Anh tṛ chuyện, thấy Hồ Chí Minh có học vấn rất tốt, lăo luyện và cẩn trọng, lại tâm huyết với sự nghiệp, v́ thế anh đă thuyết phục bà mẹ đồng ư với cuộc hôn nhân này.”
“ Hồ Chí Minh gặp Tăng Tuyết Minh luôn luôn. Một mặt, cố nhiên, anh thích tính giản dị, đoan trang, thông minh, chăm chỉ của cô gái ; mặt khác anh cũng cảm thấy cô c̣n non nớt, cần phải giác ngộ chân lí cách mạng hơn, hiểu đời hơn nữa và nâng cao năng lực hoạt động hơn. V́ vậy anh động viên Tuyết Minh thôi việc nữ hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế và tham gia học tập ở một lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Lúc ấy Ban phụ vận của Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc do Hà Hương Nghi chủ tŕ, đang dự định mở một cơ sở huấn luyện vận động phụ nữ tại Quảng Châu nhằm bồi dưỡng cán bộ phụ nữ trong nước. Hồ Chí Minh thông qua sự quen biết trực tiếp với các vị Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, Lí Phú Xuân, Thái Sướng, xin được hai suất cho Tăng Tuyết Minh và Lương Huệ Quần cùng vào học lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Ḱ ấy, lớp khai giảng ngày 16 tháng 9 năm 1926 và kết thúc vào ngày 16 tháng 3 năm 1927, thời gian học tập là nửa năm. Quảng Châu thời ấy là trung tâm của cách mạng Trung Quốc. Trong quá tŕnh lớp huấn luyện phụ vận tiến hành, người ta chẳng những đă mời không ít các đồng chí có trách nhiệm của Đảng cộng sản Trung Quốc đến giảng mà c̣n tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động xă hội. Nhờ được học tập, quả nhiên Tăng Tuyết Minh tiến bộ rất nhanh, trong khoá học, được bạn đồng học là Trịnh Phúc Như giới thiệu, cô đă gia nhập Đoàn Thanh niên xă hội chủ nghĩa.”
“ Do Hồ Chí Minh lại thúc giục nên hôn lễ của hai người đă được cử hành vào tháng 10 năm 1926. Lúc ấy Hồ Chí Minh 36 tuổi, c̣n Tăng Tuyết Minh 21. Địa điểm tổ chức hôn lễ là nhà hàng Thái B́nh trước Ty Tài chính ở trung tâm thành phố. Đó cũng là địa điểm mà một năm trước đấy Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu mời khách đến dự lễ kết hôn của ḿnh. Tham dự hôn lễ có phu nhân Bào La Đ́nh, Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu và một bộ phận học viên khoá huấn luyện phụ vận. Phu nhân họ Bào tặng một lẵng hoa tươi. Mấy ngày đầu sau lễ cưới, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh tạm trú trong Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội, vốn là nơi nghỉ ngơi của Hồ Chí Minh. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đang chủ tŕ khoá huấn luyện chính trị đặc biệt thứ III của Việt Nam, do học viên khá đông nên địa điểm học tập đă chuyển từ Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội đến phố Nhân Hưng ở đường Đông Cao. Mấy ngày sau Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh dọn đến trú ngụ ở quán của ông Bào, lúc đầu dùng bếp tập thể, sau tự nấu nướng. Hồ Chí Minh bận rộn công tác, mọi việc nhà đều do Tăng Tuyết Minh quán xuyến. Cô chăm sóc chu đáo mọi sự ăn uống, sinh hoạt thường ngày của Hồ Chí Minh, giúp cho anh từ tuổi 21 đă xa nhà bôn tẩu, làm “ kẻ phiêu diêu ” góc bể chân trời, th́ nay sau 15 năm lại có được cảm giác ấm áp “ ở nhà ḿnh ”. Hồ Chí Minh rất măn nguyện về cô vợ Trung Quốc của ḿnh. Sau ngày cưới, Hồ Chí Minh từng nhiều lần đàm đạo với Lâm Đức Thụ, Lương Huệ Quần về vợ ḿnh, đều nói rơ điều đó.”
Uyên ương chia ĺa đôi ngả
“ Thế nhưng phúc chẳng dài lâu. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, mới nửa năm sau khi Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh kết hôn, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng, phát động cuộc chính biến phản cách mạng tại Thượng Hải, t́nh thế ở Quảng Châu cũng chuyển biến theo. Trước đó, chính phủ Quốc dân đă rời tới Vũ Hán. Trụ sở của đoàn cố vấn Lao Liên cũng rời tới Vũ Hán. Và tất nhiên, Hồ Chí Minh cũng phải chuyển đến Vũ Hán. Trung tuần tháng 5, Hồ Chí Minh lưu luyến chia tay với Tăng Tuyết Minh, trước lúc lên đường dặn đi dặn lại Tăng Tuyết Minh : “ Em phải bảo trọng, đợi tin tức của anh ; ổn định nơi chốn một chút là anh đón em ngay ”. Thế rồi, Hồ Chí Minh rời Quảng Châu, chuyển đến Vũ Hán, rồi lại chuyển đến Thượng Hải, đi đường Hải Sâm Uy, khoảng giữa tháng 6 năm 1927 đến Mạc Tư Khoa. Sau đó, Hồ Chí Minh lại vội vàng đến Đức, Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Italia... tạm ngừng công tác, cuối cùng, tháng 8 năm 1929, đến Thái Lan.”
[IMG]http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/lt-naq.jpg[/IMG]
“ Do Tưởng Giới Thạch phản bội, thành Quảng Châu rơi vào giữa một cuộc khủng bố trắng. Sau khi chia tay với Hồ Chí Minh, Tăng Tuyết Minh một ḿnh về sống với mẹ và những người thân. Trong hai năm, từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh vào trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung học nữ sinh Tân Á học tập. Thời gian đầu, cô c̣n giữ được liên hệ với một số đồng chí cách mạng quen biết ở cơ sở huấn luyện phụ vận. Về sau do Quốc dân đảng ngày càng đàn áp tàn bạo các đảng viên cộng sản, các đồng chí mà Tăng Tuyết Minh quen biết đều rời Quảng Châu, mối liên hệ về tổ chức của cô với đoàn viên Đoàn Thanh niên xă hội chủ nghĩa Trung Quốc cũng bị gián đoạn. Tháng 7 năm 1929, Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu, về quê nhà của mẹ ở Thuận Đức, làm nữ hộ sinh tại một trạm y tế tư ở thị trấn Lặc Lưu. Đầu năm 1930, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh ở y xá Quần An của Dư Gia Viên, thị trấn Lạc Ṭng, huyện Thuận Đức.”
“ Thời gian này, Hồ Chí Minh có hai lần nhờ người mang thư và gửi thư liên hệ với Tăng Tuyết Minh, nhưng đều không kết quả. [...] Sau khi đến Thái Lan, Người lấy tên là Đào Cửu, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trên đất Thái Lan. [...] đă hơn một năm Hồ Chí Minh li biệt với Tăng Tuyết Minh, nhớ nhung da diết. Nơi đây cách Trung Quốc tương đối gần, nhờ người chuyển thư cũng tiện, bèn cầm bút viết thư cho Tăng Tuyết Minh. Hồ Chí Minh cũng nghĩ đến thời cuộc biến loạn, t́nh huống thiên biến vạn hoá, thư có đến được tay vợ hay không, thật khó dự đoán. V́ vậy, anh quyết định dùng lời lẽ ngắn gọn, hàm súc viết một bức thư ngắn, bảo cho biết ḿnh vẫn b́nh an và thăm hỏi người thân. Nội dung bức thư đó như sau : “ Từ ngày chia tay với em, đă hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy ḍng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Anh trai vụng về, Thuỵ ”.
thubut
Thư gửi Tăng Tuyết Minh
bị Mật thám Đông Dương chặn được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix en Provence). Xuất xứ : Daniel Hémery, HO CHI MINH De L’Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.
PHIÊN ÂM : Dữ muội tương biệt, chuyển thuấn niên dư, hoài niệm t́nh thâm, bất ngôn tự hiểu. Tư nhân hồng tiện, Dao kư thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngă ngưỡng/sở vọng. Tinh thỉnh Nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thuỵ.
DỊCH : Cùng em xa cách Đă hơn một năm Thương nhớ t́nh thâm Không nói cũng rơ. Cánh hồng thuận gió Vắn tắt vài ḍng Để em an ḷng Ấy anh ngưỡng vọng. Và xin kính chúc Nhạc mẫu vạn phúc. Anh ngu vụng : Thuỵ (Bản dịch của N.H. Thành)
“ [...] Không rơ người mang thư sơ suất, hay là anh ta vốn dĩ không thể tin cậy, mà bức thư đó đă nhanh chóng lọt vào tay cơ quan mật thám Pháp ở Đông Dương, cuối cùng thành vật lưu trữ tại Cục hồ sơ can án quốc gia của nước Pháp. Năm 1990, trong dịp kỉ niệm 100 năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Gallimard ở Pháp đă cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Hồ Chí Minh - từ Đông Dương đến Việt Nam, giữa tranh ảnh minh hoạ trong sách có bản in chụp bức thư bằng Trung văn nói trên của Hồ Chí Minh gửi cho vợ, với những ḍng thuyết minh : “ Thư của Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết cho vợ. Chuyển tới cơ quan đặc vụ Đông Dương ngày 14 tháng 8 năm 1928 ”. [...] Một tác giả tên là Bùi Đ́nh Kế trên báo Nhân Dân của Việt Nam, số ra ngày 19 tháng 5 năm 1991 đă dẫn lại bức thư đó trong bài nhan đề Về một tài liệu liên quan sinh hoạt cá nhân của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo đă phân tích và phỏng đoán bức thư đó liệu có phải của Hồ Chí Minh hay không. Tuy nhiên, đă không đưa ra được kết luận rơ ràng. Thực ra, bức thư đó chính xác là do Hồ Chí Minh viết. Một là, đối chiếu với những thư cảo Trung văn của Hồ Chí Minh th́ bức thư đó hoàn toàn ăn khớp với bút tích của người. Hai là, lúc Hồ Chí Minh viết bức thư đó cách thời điểm chia tay với Tăng Tuyết Minh đúng là hơn một năm như nói ở trong thư. Ba là, tên kí dưới thư Thuỵ đúng là bí danh Hồ Chí Minh dùng trong thời gian ở Quảng Châu. Bốn là, Tăng Tuyết Minh từ nhỏ mất cha, chỉ có mẹ lúc ấy c̣n sống, và Hồ Chí Minh nắm rơ điều đó, nên trong thư chỉ vấn an nhạc mẫu. Căn cứ những điều trên, bức thư đó do Hồ Chí Minh viết, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Thư viết xong đă rơi vào tay mật thám Pháp, đó là điều Hồ Chí Minh đă không thể lường trước được.
[IMG]http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/thubut.jpg[/IMG]
Thư gửi Tăng Tuyết Minh
bị Mật thám Đông Dương chặn được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix en Provence). Xuất xứ : Daniel Hémery, HO CHI MINH De L’Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.
PHIÊN ÂM : Dữ muội tương biệt, chuyển thuấn niên dư, hoài niệm t́nh thâm, bất ngôn tự hiểu. Tư nhân hồng tiện, Dao kư thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngă ngưỡng/sở vọng. Tinh thỉnh Nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thuỵ.
DỊCH : Cùng em xa cách Đă hơn một năm Thương nhớ t́nh thâm Không nói cũng rơ. Cánh hồng thuận gió Vắn tắt vài ḍng Để em an ḷng Ấy anh ngưỡng vọng. Và xin kính chúc Nhạc mẫu vạn phúc. Anh ngu vụng : Thuỵ (Bản dịch của N.H. Thành)
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Tăng Tuyết Minh, ngưởi vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc
“ Lúc ấy, Hồ Chí Minh công tác ở Thái Lan đến tận tháng 11 năm 1929. Sau đó, Người được Quốc tế Cộng sản cử đến Hương Cảng, triệu tập hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản. “ Hội nghị thống nhất ” đă khai mạc tại Hương Cảng ngày 3 tháng 2 năm 1930, chính thức tuyên bố thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau hội nghị, tháng 3 năm đó Hồ Chí Minh trở lại Thái Lan, tháng 4 lại đến Hương Cảng. Sau, nhiều lần lại từ Hương Cảng đến Thượng Hải, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trong Việt kiều tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Lúc ấy, các đảng viên cộng sản Việt Nam Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng... cũng đang hoạt động trong Việt kiều ở Thượng Hải. Đầu tháng 5 năm 1930, Hồ Chí Minh lại viết một bức thư nữa từ Thượng Hải gửi Tăng Tuyết Minh. Bức thư này gửi qua Quảng Châu cho Tăng Tuyết Minh lúc ấy đang làm nữ hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế tại Gia Dư Viên, thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức. Nội dung yêu cầu Tăng Tuyết Minh mau mau đến Thượng Hải đoàn tụ. Trong thư có hẹn ḱ hạn và nói rơ nếu quá hạn đó mà Tăng Tuyết Minh không đến sẽ đành một ḿnh xuất ngoại. Thế nhưng, với cả bức thư này nữa, cũng đă xảy ra chuyện ngoài ư muốn, Tăng Tuyết Minh cũng không sao nhận được. Tài liệu hồi ức do Tăng Tuyết Minh viết cũng như lời kể lại của bà qua thư từ trao đổi với tác giả bài này đều nói tới hoàn cảnh của sự cố này.
“ Hoá ra, tháng 7 năm 1929 Tăng Tuyết Minh sau khi đă rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh ở trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn mới mở ra ở thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức, đến cuối năm. Đầu năm sau, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh tại y xá Quần An của Sa Khiếu ở thị trấn Lạc Ṭng cũng huyện Thuận Đức. Bức thư của Hồ Chí Minh chuyển đến cho trạm y tế của Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu th́ lúc ấy Tăng Tuyết Minh đă rời đi rồi. Trưởng trạm y tế Dư Bác Văn chẳng những không kịp thời chuyển thư đến Tăng Tuyết Minh mà ngược lại c̣n tự ư mở thư trước mặt vợ ḿnh, lại c̣n gọi thêm cả nữ y sĩ Hoàng Nhă Hồng, xem trộm nội dung thư, sau đó đem đốt đi. Nửa năm sau khi xảy ra chuyện đó, Tăng Tuyết Minh trở lại Quảng Châu thăm mẹ và nhận lời mời đến dự lễ khai trương cơ sở y tế tại nhà một bạn đồng học cũ. Tại đây cô bất ngờ gặp lại nữ y sĩ Hoàng Nhă Hồng, người đă từng làm việc cùng tại thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức. Nữ y sĩ đó đă đem toàn bộ sự việc tuôn ra hết ngọn ngành. Lúc ấy so với thời hạn Hồ Chí Minh hẹn gặp nhau ở Thượng Hải th́ đă qua nửa năm. Tăng Tuyết Minh chỉ c̣n biết kêu khổ khôn nguôi, nuốt nước mắt vào ḷng. Như vậy con người kia đă gieo tại hoạ khiến Tăng Tuyết Minh mất đi cơ hội được trở lại bên chồng, cũng gây cho cô một bi kịch suốt đời trong tương lai.”
loseby
[IMG]http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/loseby.jpg[/IMG]
Luật sư Loseby, người bảo vệ N.A.Q. ở Hồng Kông
“ Đến cuối năm 1931, rốt cuộc Tăng Tuyết Minh cũng có được một cơ hội gặp Hồ Chí Minh nhưng lại là tại toà án của nhà đương cục Anh ở Hương Cảng xét xử Hồ Chí Minh. Tăng Tuyết Minh chỉ có thể nh́n thấy Hồ Chí Minh từ rất xa, c̣n Hồ Chí Minh th́ hoàn toàn không biết vợ ḿnh có mặt tại toà. Cuối những năm 20 - đầu 30 hoàn cảnh của các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tại Hương Cảng rất tồi tệ. Trong hàng ngũ cách mạng có kẻ phản bội, các cơ sở bí mật bị phá hoại, chính quyền thực dân Pháp và nhà đương cục Anh ở Hương Cảng cấu kết với nhau bắt bớ các chiến sĩ cách mạng. Hồ Tùng Mậu bị các nhà đương cục Anh bắt rồi giao cho mật thám Pháp “ dẫn độ ” về Việt Nam giam cầm. Hồ Chí Minh cũng bị các nhà đương cục Anh bắt ngày 5-6-1931, lí do là làm tay sai cho hội Lao Liên, âm mưu tiến hành hoạt động phá hoại tại Hương Cảng. Sau khi Hồ Chí Minh bị bắt, Quốc tế Cộng sản thông qua hội Chữ thập đỏ quốc tế kêu gọi cứu giúp. Tổ chức đó lại mời một luật sư tiến bộ người Anh ở Hương Cảng là ông Loseby bào chữa cho Hồ Chí Minh. Sau vài tháng bị giam giữ, Hồ Chí Minh bị đưa ra xét xử. Lần này đến Hương Cảng, Người lấy bí danh là Tống Văn Sơ. Nhưng sau khi bị bắt nhà đương cục Anh đă phát hiện đó chính là Lư Thuỵ, cũng tức là Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng thời gian này, thân mẫu Tăng Tuyết Minh đang bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng trú tại cơ sở chữa bệnh của anh cả là Tăng Cẩm Nguyên. Đọc được tin toà sẽ xét xử chồng ḿnh là Lư Thuỵ liền nhờ bạn bè cũ cùng đến toà. Người đến dự thính xét xử rất đông. Tăng Tuyết Minh phải ngồi nghe cách xa pḥng xử án. Nh́n thấy h́nh dáng tiều tuỵ của người chồng xa cách đă năm năm mà ḷng khôn ngăn trăm mối ngổn ngang. Nhưng do khoảng cách khá xa, lại giữa toà án vợ chồng chẳng những vô phương tṛ chuyện mà Hồ Chí Minh thậm chí chắc chắn không hề biết Tăng Tuyết Minh đang ở trước mắt ḿnh. Tăng Tuyết Minh muốn đến thăm nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một trọng phạm chính trị không được phép thăm hỏi, gặp gỡ. Tăng Tuyết Minh hỏi ḍ nhiều nơi và biết được rằng hội Hồng thập tự quốc tế và luật sư Loseby đang t́m cách cứu Hồ Chí Minh, t́nh cảnh có lẽ cũng sẽ chuyển biến, đành cùng thân mẫu trở về Quảng Châu, ḷng hoang mang không biết làm sao.
troc
[IMG]http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/naqtroc.jpg[/IMG]
N.A.Q. khoảng năm 1934 khi ra tù, trở lại Moskva.
ttmb
[IMG]http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/ttmb.jpg[/IMG]
Bà Tăng Tuyết Minh (ảnh chụp năm 1965, ở tuổi 60)
“ Tháng 2 năm 1932, thân mẫu Lương thị của Tăng Tuyết Minh bệnh nặng qua đời, hưởng thọ 76 tuổi. Tăng Tuyết Minh chuyển đến công tác ở y xá Quần An ở huyện Đông Hoàn, vốn là cơ cấu phân chi của y xá Quần An huyện Thuận Đức, vẫn làm nữ hộ sinh. Lúc này, cha mẹ cô đều đă mất, anh em đông nhưng người th́ đi xa, người th́ chết sớm, Tăng Tuyết Minh côi cút độc thân, thật là buồn khổ. Năm 1943, sau tiết xuân, thầy giáo cũ là Trương Tố Hoa mở tại đường Long Tân ở Quảng Châu một pḥng chẩn trị, có lời mời Tăng Tuyết Minh đến giúp sức. Cô bèn xin thôi việc ở Đông Hoàn, đến pḥng chẩn trị của Trương Tố Hoa làm nữ hộ sinh và làm việc ở đó cho đến tận ngày (Trung Quốc) giải phóng. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, chính phủ tiến hành cải tạo và chỉnh đốn các cơ sở kinh tế tư nhân, thành lập các trạm vệ sinh bảo vệ sức khoẻ tại các khu. Tăng Tuyết Minh hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ, đă đến công tác tại trạm số 8 ở khu vực phía Tây. Về sau trạm này đổi gọi là Viện Vệ sinh Kim Hoa (nay là Viện Y học Trung y khu Lệ Loan). Tăng Tuyết Minh công tác ở đó, hành nghề nữ hộ sinh đến tận năm 1977 khi về hưu.”
Thế là từ sau lần trông thoáng thấy chồng ở Hương Cảng, không bao giờ Tăng Tuyết Minh gặp lại Nguyễn Ái Quốc nữa. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy h́nh Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên Nhân dân Nhật báo cùng với tóm tắt tiểu sử, bà tin chắc Hồ Chí Minh chính là chồng ḿnh, nhất là sau khi t́m mua được cuốn Truyện Hồ Chí Minh (nhà xuất bản Tân Hoa). Bà đă “ báo cáo với tổ chức ”, đồng thời gửi mấy bức thư cho chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan. Những bức thư ấy “ đều như đá ch́m biển khơi (...) thậm chí chúng có được gửi ra khỏi Quảng Châu hay không là điều c̣n đáng hoài nghi ”. Tuy nhiên, một cán bộ lănh đạo Quảng Châu đă tới gặp Tăng Tuyết Minh, trao cho bà lá thư của bà Thái Sướng (một trong những người đă tới dự tiệc cưới năm 1926 cùng với bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai) “ chứng thực Hồ Chí Minh chính là Lư Thuỵ cũng tức là chồng Tăng Tuyết Minh ”. Cán bộ này cũng “ giải thích (...) lí do tại sao không tiện liên lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hy vọng Tăng Tuyết Minh hiểu và lượng thứ việc này, yên tâm công tác ”. Vẫn theo sử gia Hoàng Tranh th́ về phần ḿnh, Hồ Chí Minh đă “ từng thông qua Tổng lănh sự Việt Nam tại Quảng Châu ḍ t́m tăm tích của Tăng Tuyết Minh, năm 1960 lại nhờ Bí thư Trung Nam cục Đào Chú ḍ t́m dấu vết của bà ” song “ việc trên đương nhiên không thể có bất ḱ kết quả ǵ ” v́ “ điều này vào thời ấy hoàn toàn không ḱ lạ ”.
Bà Tăng Tuyết Minh đă “ yên tâm công tác ” cho đến năm 1977 mới về hưu, sau 52 năm tận tuỵ với nghề nữ hộ sinh. Theo Hoàng Tranh, gia đ́nh bà theo đạo Công giáo từ đời ông nội, và bà “ thường xuyên đi lễ ở giáo đường ”. Bà “ có thói quen ăn uống đạm bạc, không dùng cá thịt ”, cuộc sống “ vô cùng giản dị ”, “ luôn vui vẻ giúp người ”...
“ 11 giờ 15 phút ngày 14 tháng 11 năm 1991, sau 86 năm trải qua con đường đầy lận đận long đong, tại nơi cư ngụ [687 đường Long Tân Đông, Quảng Châu], cụ bà Tăng Tuyết Minh đă b́nh yên nhắm mắt, thanh thản trút hơi thở cuối cùng ”.
Hoàng Tranh
Toàn văn bài này, Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh, đă đăng trên số tháng 11-2001 của tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), xuất bản tại Nam Ninh. Tác giả Hoàng Tranh (Huang Zheng) là nhà sử học, viện phó Viện Khoa học Xă hội Quảng Tây, tác giả cuốn Hồ Chí Minh với Trung Quốc (Nhà xuất bản Tân Tinh, Nam Ninh, 1990). Bản dịch của Minh Thắng. Theo thông tin từ Hà Nội, một tạp chí sử học có ư đăng bài này, những đă bị chặn lại.
NGUỒN : Diễn Đàn số 121 (tháng 9.2001), tr. 17-20.
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Hồ Chí Minh & các cuộc t́nh
Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh[/B]
Đôi lời: Một độc giả vừa gửi tới bản dịch có dẫn nguồn và cả bản gốc dưới đây cùng lời b́nh. Chúng tôi chỉ xin thêm mấy lời, rằng dường như đă thành lệ, cứ mỗi khi cần tác động gây sức ép về một vấn đề hệ trọng nào đó, phía Trung Quốc lại hé lộ những thông tin rất nhạy cảm mà đảng, nhà nước Việt Nam bấy lâu vẫn chưa muốn hoặc chưa có cách ǵ công bố sao cho tiện. Nhưng trước đây, ít nhất 2 lần, họ chỉ cho ṛ rỉ ở cấp tỉnh. Vậy lần này, cũng chỉ những thông tin như 2 lần trước, nhưng đặc biệt chưa từng thấy, lại cho đăng lại trên báo đảng trung ương Nhân dân Nhật báo, liệu có phải họ đang nhắm vào vấn đề có thể được coi là hệ trọng nhất, Biển Đông?
Lời độc giả: Đảng Cộng sản Việt Nam kỷ niệm 82 năm ngày thành lập của ḿnh 3/2/1930-3/2/2012. Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) năm 1930 đến Quảng Đông rồi Hồng Kông để chủ tŕ việc thống nhất thành lập đảng và chuyện t́nh với Lâm Y Lan xảy ra lúc đó, ĐCSVN phải nên tôn bà làm mẹ của đảng! Một chuyện t́nh đẹp trở thành một bi kịch. Qua bài viết dưới đây của Đinh Đông Vũ trên tờ báo có hàng triệu người đọc ở Quảng Đông (và được Nhân Dân Nhật báo đăng lại) mới đây có nói đến 3 người: Nguyễn Thanh Linh, Tăng Tuyết Minh và Lâm Y Lan. Về mối t́nh với Lâm Y Lan báo chí Trung Quốc đă nói nhiều (xem thí dụ ở đây), nhưng bài mới đây (12-11-2011) có rất nhiều người đọc, và liên quan đến hoạt động hợp nhất đảng của ông Hồ Chí Minh, nên có lẽ nhân dịp kỷ niệm 82 năm này cũng nên nhớ tới mối t́nh của 82 năm trước. (Bài thứ hai, Bi kịch của mối t́nh giữa Hồ Chí Minh và người yêu Trung Quốc, cũng có nội dung tương tự với vài chi tiết kỹ hơn song không chi tiết như các bài báo trước).
Cụ Hồ là một con người, không phải là thánh, cho nên việc phi thánh hóa Hồ Chí Minh là việc ĐCSVN nên làm. Chỉ hiểu rơ thông tin về cụ mới giúp thế hệ sau đánh giá đúng về cụ. Ngược lại, để thông tin mơ hồ bí ẩn tràn lan không những không thần thánh hóa được cụ Hồ mà có thể khiến tất cả những ai đă từng kính trọng cụ có thể bị sốc khi những thông tin trái chiều được tiết lộ đột ngột (có thể khiến cả hàng chục triệu người đột nhiên mắc chứng bệnh tâm lư có thể ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe của họ và v́ thế đến cả dân tộc). Và trong thế giới kết nối như hiện nay mọi mưu toan thần thánh hóa đều bị thất bại và nên bạch hóa thông tin một cách có bài bản để tránh những cú sốc tâm lư không cần thiết cho hàng chục triệu người Việt Nam.
Những thông tin do các tác giả Trung Quốc công bố là một căn cứ để tham khảo. Các nhà sử học Việt Nam cần có những nghiên cứu kỹ lưỡng, khách quan về vấn đề này và công bố cho dân chúng được biết.
Dưới đây là bản dịch (đă được Quốc Thanh hiệu đính) của 2 tài liệu (đính kèm).
Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh
胡志明的另一个中国爱人
Dương Thành Văn Báo (Báo Dương Thành buổi chiều) 羊城晚報, 12-11-2011
Tác giả: Đinh Đông Văn
Trần Hiểu Nông ghi lại lời của cha là Trần Bá Đạt[1]: “Thời trẻ Hồ Chí Minh đă từng kết hôn. Vợ ông ta là một người Hạ Môn, nhưng đă mất rất sớm. Sau đó ông ta sống độc thân một thời gian rất dài. Sau khi cách mạng Việt Nam thắng lợi, ông muốn cưới một người Phúc Kiến làm vợ, nhưng Trung ương Đảng Việt Nam không đồng ư, ông không thể không phục tùng quyết định của Trung ương Đảng Việt Nam, v́ vậy ông không bao giờ tái hôn nữa”.
Thực ra, người phụ nữ thứ nhất phải là Tăng Tuyết Minh. Người phụ nữ thứ hai là Lâm Y Lan.
Năm 1930, Hồ Chí Minh bị truy bắt ở Việt Nam, không chốn dung thân, thông qua liên lạc viên cầu sự trợ giúp từ Tỉnh ủy Quảng Đông Đảng Cộng sản Trung Quốc đang c̣n trong ṿng bí mật. Đào Chú[2] bố trí cho nữ đảng viên Đảng cộng sản (Trung Quốc) Lâm Y Lan giả làm vợ Hồ Chí Minh, đồng thời dặn ḍ nhất hiết phải đảm bảo an toàn cho Hồ Chí Minh.
Lúc đó Hồ Chí Minh 40 tuổi, ông cảm thấy Lâm Y Lan đặc biệt giống người yêu Nguyễn Thanh Linh đă hi sinh, ông viết trong nhật kư: “Cô ta giống hệt Nguyễn Thanh Linh cả về lời nói cử chỉ lẫn tính cách sở thích. Ánh mắt vừa chạm nhau, tôi đă tự thấy ḿnh sẽ không c̣n là một kẻ vô thần thuần túy nữa. Tôi cho đây tất cả đều là ư trời”.
Không lâu sau, Hồ Chí Minh bị bắt, trước lúc chia tay, ông lấy cuốn nhật kư của ḿnh giao cho Lâm Y Lan và nói: “Anh để trái tim ḿnh lại bên em, hăy nhận lấy đi!” Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được giải cứu. Ông hỏi Lâm Y Lan: “Đọc xong nhật kư của anh rồi chứ ǵ! Anh tin rằng đóa hoa lan trong trái tim anh sẽ không bao giờ khô héo”. Lâm Y Lan không ngăn được t́nh cảm nhào vào ḷng Hồ Chí Minh.
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, Lâm Y Lan đă là cán bộ cao cấp, nhưng vẫn ở một ḿnh. Khi Đào Chú quan tâm đến chuyện hôn nhân của bà, bà mới nói vẫn c̣n yêu Hồ Chí Minh. Đào Chú hỏi: “Ông ta có yêu bà không?” Đáp: “Ông ấy bảo tôi đợi ông”.
Hồ Chí Minh sang thăm Trung Quốc vào những năm 50, yêu cầu gặp lại người bạn cũ Lâm Y Lan. Mao Trạch Đông lập tức cho gọi Đào Chú và Lâm Y Lan lên Bắc Kinh. Đúng lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị lên máy bay về nước, Lâm Y Lan chạy đến bên ông, hai đôi bàn tay nắm chặt lấy nhau. Trước khi máy bay cất cánh, Lâm Y Lan lấy cuốn nhật kư trả lại cho Hồ Chí Minh, nhưng Hồ Chí Minh nhẹ nhàng đẩy lại và nói: “Bên ḿnh anh không có em, rất lâu rồi anh không c̣n viết nhật kư nữa, cứ để nó lưu lại nơi em làm kỷ niệm!”.
Năm 1958, Hồ Chí Minh 68 tuổi, có mời Đào Chú sang thăm cùng đi câu. Ông nói: “Tôi và Lâm Y Lan yêu nhau đă hơn 20 năm, v́ sự nghiệp cách mạng mà đă lỡ tuổi thanh xuân. Bây giờ tuổi đă cao, muốn nhanh chóng được đoàn tụ với Y Lan. Mong anh khi về nước thử thăm ḍ thái độ của Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai xem sao, nếu họ tán thành, tôi muốn đưa Y Lan đến Hà Nội cử hành hôn lễ bí mật để thỏa nỗi mong muốn đă ấp ủ từ nhiều năm”.
Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta khuyến khích tự do yêu đương, tự chủ hôn nhân. Thế nhưng việc này lại liên quan đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung-Việt, không thể khinh suất được”. C̣n khi Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam họp để thảo luận về việc này, số ư kiến phản đối đă vượt quá số ư kiến tán thành.
Hồ Chí Minh không biết làm thế nào đành viết thư cho Lâm Y Lan: “Y Lan thân yêu, chúng ta không có duyên tái hợp. Em đă nghe kể về t́nh yêu tinh thần của Plato chưa? Hăy để cho tâm hồn của hai chúng ḿnh măi măi ḥa làm một!”
Lâm Y Lan trả lời: Nếu là trên trời xin làm đôi chim liền cánh, nếu là dưới đất xin làm đôi cây giao cành. Trời dài đất rộng có lúc tận, c̣n mối t́nh này không bao giờ cạn. Năm 1968, Lâm Y Lan lâm bệnh mất. Trước lúc lâm chung, bà nhờ người gửi trả cuốn nhật kư cho Hồ Chí Minh. Một năm sau, Hồ Chí Minh cũng qua đời, trong lúc hấp hối vẫn c̣n gọi tên Lâm Y Lan.
(Trích từ “Tham khố văn sử” số 17 năm 2011)
[1] Trần Bá Đạt (1904 – 20.9.1989,
[2] Đào Chú
胡志明的另一个中国爱人
2011年11月12日 14:53 丁东文 来源:羊城晚报 热点专题 手机看新闻
□丁东文
陈晓农记录了其父陈伯达的说法:“胡志明年轻的时候是结过婚的。他的爱人是一个厦门人,但是很早就去世了。后来他很长时间是单身。越南革命胜利以后,他想再娶一个福建籍的女人为妻,但是越南的党中央不同意,他不能不服从越南党中央的决定,所以他就一直没有再结婚。”
其实,第一位女性应当是曾雪明。第二位女性是林依兰。
1930年,胡志明在越南遭到追捕,无处容身,通过联络员向处于地下的中共广东省委求助。陶铸安排女共产党员林依兰和胡志明假扮夫妻,并叮嘱一定要保证胡志明的安全。
胡志明时年40岁,感觉林依兰特别像已经牺牲的恋人阮清玲,他在日记中写道:“她的言谈举止、性格爱好和清玲完全相同。在那目光相撞的瞬间,我发觉自己已不再是个纯粹的无神论者。我认为这一切都是天意。”
不久胡志明被捕了,临别时,他取出日记本交林依兰说:“我把我的心留下来陪你,收下吧!”三天后,胡志明被营救出来。他问林依兰:“看过我的日记了吧!我相信心中的兰花永远不会枯萎。”林依兰情不自禁地扑到胡志明的怀里。
上世纪50年代,林依兰已是高级干部,仍然孤身一人。陶铸关心她的婚姻时,她才说,还爱着胡志明。陶铸问:“他爱你吗?”答:“他让我等他。”
胡志明50年代访问中国,要求和老友林依兰见面。毛泽东立即让陶铸、林依兰来北京。就在胡志明即将登机回国时,林依兰向他走来,两双手紧紧地握在一起。起飞前,林依兰取出日记还给胡志明,他轻轻挡回去:“身边没有你,我很久没写日记了,还是留给你作个纪念吧!”
1958年,68岁的胡志明邀来访的陶铸一起垂钓。他说:“我和依兰相恋20余载,因为革命事业耽搁了青春年华。如今年事已高,想尽快和依兰团聚。请你回去后询问一下毛泽东主席和周恩来总理的看法,倘若他们赞成,我想把依兰接到河内秘密举行婚礼,了却多年的夙愿。”
毛泽东说:“我们提倡恋爱自由、婚姻自主。不过事关中越两党两国的关系,不能掉以轻心。”而越共中央政治局为此开会讨论,反对意见超过了赞成意见。
胡志明无奈,只好给林依兰去信:“亲爱的依兰,咱们无缘再会。你听说过柏拉图的精神恋吗?就让我们彼此心灵永远融为一体吧!”
林依兰回信:在天愿为比翼鸟,在地愿为连理枝。天长地久有时尽,此情绵绵无绝期。1968年,林依兰病逝,临终前,托人将日记还给胡志明。一年后,胡志明去世,弥留之际还念叨着林依兰的名字。
(摘自《文史参考》2011年第17期)
丁东文
胡志明与中国恋人的悲剧情缘
Mối t́nh bi kịch giữa Hồ Chí Minh
với người yêu Trung Quốc
(Trích từ: 胡志明 [url]http://baike.baidu.com/view/63018.htm#4_4[/url])
Trong những năm tháng đặc biệt, lănh tụ Hồ Chí Minh của Cách mạng Việt Nam đă để lại mối t́nh cách mạng tấm tức suốt đời ở Trung Quốc.
Năm 1930, Trung Quốc đang lâm vào cảnh khủng bố trắng, Hồ Chí Minh đến Quảng Châu. Để yểm hộ cho việc triển khai công tác của Hồ Chí Minh ở Quảng Đông và Hồng Kông, Tỉnh ủy Quảng Đông đă bố trí nữ đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc Lâm Y Lan giả làm vợ Hồ Chí Minh. Lâm Y Lan đă chăm sóc hết mức mọi sinh hoạt ăn ở của Hồ Chí Minh, khiến cho ông vô cùng cảm kích, nhưng măi vẫn không dám thổ lộ t́nh yêu. Không lâu sau, Hồ Chí Minh bị bắt v́ bọn phản bội bán rẻ. Trước lúc chia tay, ông lấy cuốn nhật kư quư báu trao cho Lâm Y Lan và nói: “Anh để trái tim ḿnh lại bên em, hăy nhận lấy đi!” Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được giải cứu. Ông tặng hoa lan cho Lâm Y Lan và t́nh yêu của hai người cuối cùng đă bắt đầu.
Sau khi Trung Quốc mới được thành lập, Hồ Chí Minh về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng c̣n chưa hoàn thành. Sau khi xa cách Lâm Y Lan, nỗi nhớ của Hồ Chí Minh ngày càng nặng thêm. Khi được mời đến thăm Trung Quốc, ông xin Mao Trạch Đông bố trí cho gặp lại bạn cũ ở Quảng Đông để ôn lại t́nh xưa. Mao Trạch Đông lập tức gọi điện cho Tỉnh ủy Quảng Đông, Đào Chú và Lâm Y Lan… đến Bắc Kinh gặp mặt Hồ Chí Minh. Đúng lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị lên máy bay về nước, ông thấy Lâm Y Lan chạy về phía ḿnh. Hai người đắm đuối nh́n nhau rất lâu và đều không ngăn được những ḍng lệ.
Năm 1958, Hồ Chí Minh trịnh trọng nói với Đào Chú nguyện vọng muốn đón Lâm Y Lan đến Hà Nội để cử hành hôn lễ bí mật. Sau khi về đến Bắc Kinh, Đào Chú chuyển ư của Hồ Chí Minh lên Trung ương Đảng và Mao Chủ tịch. Mao Chủ tịch trầm ngân giây lát rồi nói: “Cá nhân tôi ủng hộ lời yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế nhưng việc này lại liên quan đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung-Việt, nên không thể khinh suất được”. Chu Ân Lai cũng nói: “Nên bàn bạc với các đồng chí bên Đảng Cộng Sản Việt Nam một chút, nếu như họ đồng ư, th́ chúng ta quyết không làm ḥn đá cản đường”.
Thế nhưng, trong pḥng họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Bắc Việt, một vị lănh đạo Đảng cộng sản Việt Nam (Lê Duẩn) đă điềm tĩnh nói với Hồ Chí Minh: “Anh đă từng nói rằng Việt Nam c̣n chưa giải phóng th́ anh sẽ suốt đời không lấy vợ, câu nói này có ảnh hưởng rất lớn, một khi Bác đă phản bội lại lời hứa đó, th́ có nghĩa là chúng ta đă từ bỏ sự nghiệp thiêng liêng giải phóng Miền Nam, điều này không chỉ làm tổn hại đến h́nh tượng Cha già dân tộc của anh, mà ngay cả Đảng cộng sản Việt Nam cũng sẽ v́ thế mà mất hết sạch danh tiếng. Cho nên, tôi thà bị anh trách móc, thù ghét, chứ không thể để cho dân chúng Việt Nam chửi mắng chúng ta là kẻ tội nhân ngàn đời”.
Nghe xong, Hồ Chí Minh vô cùng nản ḷng, cười một cách đau khổ, bỏ chỗ ngồi đi ra… Lâm Y Lan lúc này đang nằm trong bệnh viện thành phố của Quảng Châu mỏi mắt trông chờ, rồi điều bà trông đợi lại là một mẩu thư ngắn của Hồ Chí Minh: “Y Lan thân yêu, chúng ḿnh không có duyên tái hợp. Em đă nghe t́nh yêu tinh thần của Plato chưa? Xin hăy để linh hồn của hai đứa chúng ta măi măi ḥa làm một!” Y Lan đặt lá thư lên bậu cửa sổ, để cho gió lành cuốn nó đi. Bà nh́n theo lá thư bay lượn trong gió, lặng khóc thầm. Mối t́nh giữa Hồ Chí Minh và Y Lan đă đánh một cú quá lớn vào tinh thần Y Lan, bệnh t́nh của bà bắt đầu trở nên xấu đinăm 1968, Lâm Y Lan mất, trước lúc lâm chung, bà c̣n không quên nhờ người giao trả lại cuốn “Nhật kư t́nh yêu” mà Hồ Chí Minh đă tặng cho ḿnh, đồng thời dặn lại ông hăy gh́m nén nỗi đau. Hồ Chí Minh đă sốc khi nhận được tin người yêu mất, đau đớn chẳng muốn sống, nước mắt giàn giụa… Sau đó một năm, cũng chính là vào sáng sớm ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh cũng đă qua đời. Trong lúc hấp hối, ông c̣n đă gọi tên Lâm Y Lan…
(Trung Quốc) Bách Độ Bách Khoa.
胡志明与中国恋人的悲剧情缘
在特殊的年代,越南革命领袖胡志明在中国留下了唏嘘一生的革命情缘。1930年中国正处在白色恐怖之中,胡志明来到广州。为了掩护胡志明在广东、香港开展 工作,广东省委安排中共女党员林依兰假扮胡志明的妻子。林依兰无微不至地照料胡志明的生活起居,令其感激不尽,但他始终不敢表达爱意。不久,胡志明由于叛 徒出卖而被捕。临别时,他取出珍藏的日记本交给林依兰说:“我把心留下来陪你,收下吧!”3天后,胡志明被营救出来。他给林依兰送去兰花,两人的恋爱终于 开始。新中国成立后,胡志明回国继续他未竟的革命事业。离开林依兰之后,胡志明的思念与日俱增。他应邀访问中国时,请求毛泽东安排他和广东老友叙旧。毛泽 东立即致电广东省委及陶铸、林依兰等人,到北京与胡志明会面。就在胡志明即将登机回国时,他看见了林依兰向他走来。两个人久久凝视对方,都流下了眼泪。
1958年,胡志明郑重地对陶铸表达了想把林依兰接到河内秘密举行婚礼的夙愿。陶铸回北京后,向党中央、毛主席转达了胡志明的意思。毛主席沉吟片刻,说: “我个人支持胡志明主席的请求,不过,事关中越两党两国的关系,不能掉以轻心。”周恩来也说:“应该跟越南共产党的同志们协商一下,假如他们赞同,我们决 不做绊脚石。”然而,北越中央政治局会议室里,一位越共领导人(黎笋)心平气和地对胡志明说:“你曾说过越南不解放就终身不娶,这句话影响很大,一旦你违 背诺言,就意味 着我们放弃了解放南方的神圣事业,这不仅有损你的国父形象,连越南共产党也将从此名声扫地。所以,我宁可被你指责、憎恨,也不能让越南老百姓唾骂我们是千 古罪人!”胡志明闻听心灰意冷,他苦苦一笑,离座而去……身处广州市立医院的林依兰望眼欲穿,盼到的却是胡志明的一封短信:“亲爱的依兰,咱们无缘再会。 你听说过柏拉图的精神恋爱吗?就让我们彼此的心灵永远融为一体吧!” 林依兰把信笺放在窗台上,让清风将它带走。她望着风中飘舞的信笺,低声饮泣。 胡志明与林依兰的恋情,对林依兰的精神打击太大了,她的病情开始恶化,1968年,她告别了人世,临终时,她还没有忘记把胡志明赠给她的那本“爱情日记” 托人交还给他,并嘱咐他节哀顺变。胡志明惊闻恋人去世,痛不欲生,泪如雨下……时隔一年,也就是1969年9月2日凌晨,胡志明也溘然去世。弥留之际,他 还念叨着林依兰的名字……
Lâm Y Lan là người t́nh và được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh !?
Mối t́nh của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
Từ những năm 30 của thế kỷ trước, để tạo điều kiện cho Hồ Chí Minh công tác tại Quảng Đông, Hương Cảng, Trung Cộng đă bố trí một thiếu nữ là Lâm Y Lan đóng giả làm vợ để giúp đỡ việc sinh hoạt hàng ngày cho ông ta. Không lâu sau, hai người có t́nh ư với nhau. nhưng đó là thời kỳ năm 1938 đầy sóng gió, nên cuối cùng mối quan hệ luyến ái này không đi đến hôn nhân. LYL hoài niệm về mối t́nh xưa, nhớ thương HCM, lâu ngày không biết c̣n sống hay đă chết, sức khỏe suy giảm rồi qua đời vào năm 1968. HCM biết tin, vô cùng đau khổ, một năm sau cũng tạ thế. Lúc hấp hối ông có nhắc đến tên LYL….
[IMG]http://lh4.ggpht.com/_jg7fJSmPgNc/SoC9G_-Q6NI/AAAAAAAAAJM/qCVvp_GXyt0/t02.jpg[/IMG]
Tấm h́nh này đă được t́m thấy trên mạng từ lâu nhưng không có lời b́nh luận, phải chăng HCM đă bí mật đi thăm gia đ́nh bên LYL hay làm lể cưới … với Lâm Y Lan: Lễ Cưới…? Gia đ́nh bên vợ LYL …?
Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh
Sau đó, HCM từ từ kể lại mối t́nh mười năm với NTL gợi đến niềm tâm sự, nước mắt bỗng nhiên trào ra. LYL nghe tâm sự, bất giác cũng cảm như ḿnh lâm vào cảnh ngộ ấy, trong ḷng vô cùng cảm động. Tiếp đó, Tỉnh ủy Quảng Đông thông báo với HCM hiện tại Hương Cảng rất phức tạp, đặc vụ Quốc Dân Đảng có mặt khắp nơi, không có việc ǵ chúng không dám làm, nên dặn đi dặn lại LYL phải bảo vệ HCM an toàn. Lúc ấy, Đào Chú nửa đùa nửa thật bảo: “Các bạn nên nhớ, đến một ngày hai “vợ chồng” trăm tuổi, Y Lan tuyệt đối không được bỏ rơi “phu quân” mà không quản lư đấy nhé”, làm LYL, vốn là một tiểu thư chưa chồng, hai má đỏ lựng. Lấy danh nghĩa người “vợ”, LYL chăm sóc HCM trong sinh hoạt thường ngày vô cùng tận t́nh, chu đáo làm cho HCM đặc biệt cảm kích, đă có lúc muốn thổ lộ t́nh cảm, nhưng v́ thời cơ chưa chín muồi nên trong ḷng vẫn trù trừ. LYL thấy HCM nói với ḿnh những lời chân thành, thâm tâm đă có phần ưng ư, nhưng v́ là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Lúc chia tay, HCM ôm lấy LYL, dùng khăn tay lau nước mắt cho cô: “Hăy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi lấy quyển nhật kư đưa cho LYL: “Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng đi với em”…
[IMG]http://images.thien2012.multiply.com/image/zKyAI0BKefAjOH0WsvnWDA/photos/1M/300x300/9/tn-qualua19.jpg?et=tVXOb%2C6qWEFVT6c14zyRMw&nmid=0[/IMG]
HCM với bạn gái Đặng Dĩnh Siêu (bên phải) và Thái Sướng (bên trái) trong chuyến viếng thăm Lô Sơn bí mật của HCM và chưa 1 lần ghé thăm Tăng Tuyết Minh (vợ Tàu của NAQ) – Chụp lại từ “HCM sinh b́nh khảo” trang 251 ([url]http://xoathantuong.tripod.com/tn_qualua.htm[/url])
HCM chỉ mặt aó đại cán c̣n NAQ th́ thích thắt cravate.
Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là HCM chủ tŕ các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp… đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenine hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng h́nh thức, thậm chí c̣n có vẻ quê mùa. Đây là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.
[IMG]http://img10.imageshack.us/img10/2269/hcminparis.jpg[/IMG]
HCM (với áo đại cán) / Phạm Văn Đồng và phái đoàn tham dự đều thắt cravate tại “Hội nghị Fontainebleau 22.6.1946
[IMG]http://images.thien2012.multiply.com/image/-D+Qo3ryeFET9gXg1-urHw/photos/1M/300x300/22/NAQ1920.jpg?et=rNGUj3dFvBEYHYonS5me2A&nmid=0[/IMG]
NAQ tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xă hội Pháp tại Tours 25.12.1920
Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc NAQ 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đă chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, NAQ vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh c̣n lại được lưu trong hồ sơ của ông đă chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân t́nh của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: “Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn Judge ‘Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang’. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài ḥa khiến mọi người đều phải chú ư vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lăm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như c̣n ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện t́nh thời trai trẻ.
Nguồn: Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh)
Tác giả Hồ Tuấn Hùng / Thái Văn chuyển ngữ.
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Hồ Chí Minh & các cuộc t́nh
Với những tài liệu đă được gỉai mă th́ có 4 nhận định sai lầm về HCM:[/B]
1) HCM là người VN và có công dành độc lập / thống nhất cho dân tộc VN ?
Đúng ra Hồ Chí Minh là tên t́nh báo Tàu ( bí danh là thiếu ta t́nh báo Hồ Quang và tên thật là Hồ Tập Chương – câu chuyện Hồ Sĩ Tạo là ông nội của HCM cho nên Nguyễn Tất Thành đổi tên họ Hồ là chuyện lừa bịp của bọn sử nô / văn nô CSVN để đánh lạc hướng dư luận nghi ngờ cái tên Hồ có nguồn gốc Tàu của HCM !)
Trong sách “Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến” của Sophie Quinn‐Judge cũng có nói đến HCM có liên quan đến Khách Gia (Hakka) và vài tṛ thiếu tá t́nh báo Hồ Quan của Bát Lộ Quân/Hồng Vệ Binh:
…Người đàn ông ăn vận như một học giả và người đàn bà mặc trang phục Khách Gia (Hakka ‐ ND) [63]. Người Pháp nhận diện người đàn ông này là Hồ Chí Minh. Có thể là Hồ Chí Minh đă hy vọng gặp được hai đại diện từ Hà Nội tại biên giới.Nhưng theo lời kể của Giáp, ông và Đồng đă đợi ở Côn Minh cho đến đầu tháng 6 trước khi Hồ,giờ được gọi theo bí danh cũ từ Hồng Kông là Vương, xuất hiện…..
….Hồ được phong chức thiếu tá trong quân đoàn Bát Lộ Quân, dường như việc này đă giúp ông di chuyển dễ dàng hơn trong cơn hỗn loạn. Sau khi ở lại Diên An, ông t́m đường đi xuống phía nam để đến Trùng Khánh, nơi ấy ông tham gia vào đại đội của Chu Ân Lai vào đầu năm 1939. [26] King Chen nhớ lại rằng ông đă tham gia vào đoàn tuỳ tùng của tướng Diệp Kiếm Anh, vị tướng này sau khi rút lui khỏi Vũ Hán đă được bổ nhiệm trông coi Khoá Đào Tạo Chiến Tranh Du Kích Tây Nam tại Hành Dương (Heng Yang ‐ ND) thuộc tỉnh Hồ Nam [27]. Một tài liệu của Trung Quốc về hoạt động của Hồ trong tập đoàn Bát Lộ Quân nhấn mạnh rằng ông đă di chuyển dưới sự bảo trợ của ĐCS Trung Quốc, và đă nói rằng ông cũng hoàn tất mọi nhiệm vụ thường nhật trong một văn pḥng liên lạc, ở tại Quế Lâm cũng như Hành Dương, khoảng 350 dặm về phía bắc. Văn pḥng liên lạc Quế Lâm có lẽ đă được dùng làm nơi thu thập tin tức t́nh báo cho ĐCS Trung Quốc…
2) NĐM là con của HCM/Nông Thị Trưng và Nguyễn Tất Trung con của HCM / Nông Thị Xuân ?
Đúng ra NĐM là con rơi của 1 tên t́nh báo TQ với nào đó với Nông Thị Trưng. Nông Thị Trưng làm nữ giao liên giữa HCM với nhóm t́nh báo TQ ở bên kia biên giới nên có khả năng Nông Thị Trưng phải ăn nằm với nhiều tên t́nh báo TQ ở bên kia biên giời và đă có con với một trong nhưng tên t́nh báo người Tàu, c̣n Nguyễn Tất Trung cũng có khả năng là con rơi của NTX và BT-CA Trần Quốc Hoàn ( theo như bức thư của người t́nh của cô Vàng – em họ NTX – th́ Hoàn đă cưởng dâm NTX ngay từ lúc NTX vừa đưa đến Hà Nội ):
Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi ? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói : Đau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đă chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng : Sao cô ở đây một ḿnh ? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lăo đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là B́nh. Chị Đường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lăo Hoàn đă hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô B́nh làm vợ. Lăo lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, v́ sợ lăo vu cho tội ǵ bắt giam rồi thủ tiêu.
Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, c̣n đối với ḿnh th́ nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra th́ thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xơ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm gh́ lấy chị vào ḷng rồi hôn chị. Chị xô nó ra nói : “Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”. Nó cười một cách nhạo báng : “Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”. Rồi nó lại nói : “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ư. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi.” ( Bức Thư Mật Liên Quan Đến Cuộc Đời Của Hồ Chí Minh Đăng ngày 14 tháng 03 năm 2003 )
3) “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” là của HCM ?
Thật ra tài liệu này do nhóm tuyên vận t́nh báo TQ viết bằng tiếng Tàu và được ra mắt thế giới vào năm 1947 để chuẫn bị chính thức “mạo danh” HCM là Nguyễn Ái Quốc VN.
4) Hồ Chí Minh Toàn Tập hay Di chúc HCM là do HCM tự viết ?
Đúng ra toàn bộ những bài viết bằng tiếng VN la do thư kư Vũ Kỳ ( cũng là người Tàu và làm phụ tá t́nh báo cho HCM) và Biên Tập báo Nhân Dân (Tổng Biên Tập là Hoàng Tùng ) viết thay cho HCM và HCM không viết được tiếng Viết là yếu điểm của HCM.
Sau đây là 11 lư do để khẳng định HCM không phải là người VN:
1) Trong là thơ thứ 2 viết tay gởi cho Stalin xin chỉ thỉ và giúp đở CCRD HCM viết tên ḿnh theo âm Tàu ( Ho Shi Min ) và kư tên bằng tiếng Tàu với danh nghĩa là cho cá nhân ḿnh, c̣n là thớ thứ nhất là đại diện cho Đảng lao động Việt Nam (Tiền thân đảng CSVN ) th́ HCM kư tên ḿnh bằng tiếng việt là Hồ Chí Minh và đây mới là bút tích thật sự của HCM ( [url]http://baotoquoc.com/2010/12/27/hai-…ruộng-dất/[/url] ):
[IMG]http://img3.imageshack.us/img3/2614/buttichhcmvknaq.jpg[/IMG]
Các bạn hảy nh́n cho kỷ con số 9 trong ba là thư viết tay của HCM – Vũ Kỳ – Nguyễn Tất Thành th́ đúng là 3 cách viết con số 9 khác nhau.
2) HCM không viết được tiếng VN nhưng nói và viết tiếng Tàu như tiếng mẹ đẻ:
Vâng, tôi xin nói đơn giản, hôm nay (ngày 7/11/2008) đồng chí Chủ tịch LHHNVN Vũ Xuân Hồng tặng tôi Kỷ niệm chương “V́ ḥa b́nh hữu nghị giữa các dân tộc”. Lần đầu tiên tôi sang Việt Nam là vào tháng 11/1965, sang học tiếng Việt. Hồi đó Việt Nam đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Mỹ đang ném bom bắn phá miền Bắc Việt Nam. Ba tháng sau khi sang Việt Nam (tháng 2/1966), đích thân Bác Hồ đă mời lưu học sinh Trung Quốc chúng tôi đến Phủ Chủ tịch ăn cơm với Bác, Bác ân cần hỏi từng người một. Nếu ai quê ở Quảng Đông th́ Bác nói tiếng Quảng Đông, nếu quê ở Bắc Kinh th́ Bác nói tiếng phổ thông, quê ở Thượng Hải th́ bác nói tiếng Thượng Hải. Bác có thể nói được rất nhiều tiếng địa phương của Trung Quốc và chúng tôi cảm thấy rất thân mật. Sau đó chúng tôi cử một đại biểu đại diện phát biểu với Bác và tôi là người được vinh dự đứng lên phát biểu. Kỷ niệm đó đối với tôi không bao giờ quên. Sau này, chúng tôi c̣n được gặp Bác hai lần nữa, một lần Bác vào thăm Đại sứ quán Trung Quốc và một lần Bác đi thăm lưu học sinh chúng tôi, sau đó th́ Bác sức khỏe yếu nên chúng tôi không được gặp Bác nữa.
Nguồn: Tṛ chuyện với Đại sứ Trung Quốc Hồ Càn Văn – 21/11/2008
Một phần tác phẩm “Ngục trung nhật kư” là của HCM – Một phần của NTNK là của một người tù được nhốt chung với HCM.
Tóm lại: NAQ viết rành tiếng Việt và Pháp và hoàn toàn không viết được tiếng Tàu và Nga trước năm 1933 và HCM th́ ngược lại sau năm 1933: HCM viết rành tiếng Tàu và Nga nhưng không viết được tiếng Việt và Pháp. Các bạn thử t́m ra cho được một bản nháp viết tay bằng tiếng Việt hay Pháp của HCM sau năm 1933 !!!
3) HCM chưa một lần đi thăm Tăng Tuyết Minh, người vợ Tàu của Nguyễn Tất Thành nhưng có th́ giờ đi thăm gia đ́nh và những bạn gái người Tàu cũng như gia đ́nh LYL.
4) HCM chưa bao giờ chánh thức về thăm quê nhà của Nguyễn Tất Thành. Câu chuyện HCM đă 2 lần “không chánh thức” về Nghệ An với tác phong như 1 tên trộm là hoàn toàn bịa cũng như câu chuyện bà chị có đến Hà Nội thăm người em NTT của ḿnh và bác Bùi Tín vẩn c̣n tin là chuyện có thật và cũng là lư do để bác bỏ sách viết của Hồ Tuấn Hùng:
Tôi đưa ra vài dẫn chứng: sau khi ông Hồ về ở Hà Nội tháng 8-1945, bà Thanh chị ruột ông Hồ ra gặp ông, 2 người lập tức nhận ra nhau, và ông Hồ trở lại nói hoàn toàn giọng Nghệ An, với âm sắc riêng của vùng Thanh Chương – Nam Đàn, hỏi thăm rất nhiều người trong họ đă chết và c̣n sống.
Bà Thanh c̣n nh́n 2 tai ông , mũi và cằm ông, nói: “đúng là 2 tai, mũi và cằm của thằng Công thời trẻ”.
Rồi năm 1957, khi ông Hồ về thăm quê cũ ở Kim Liên, ông đi ngay vào ngơ bên trái nhà ông khi xưa, không đi vào cổng mới làm sau này, sau đó tự ông sang ḷ rèn phía trái để hỏi thăm các cụ ở ḷ rèn xa xưa, nơi ông thường qua lại khi c̣n bé.
Làm sao một người Tàu quê ở đảo Đài Loan lại có thể nói tiếng Nghệ An, lại theo thổ âm Nam Đàn, và nhập vai trọn vẹn là em ruột bà Thanh, và về quê Kim Liên xa lạ, lại am hiểu địa h́nh và nhân vật làng quê cũ xa xưa thuần thục đến như vậy! ( Nguồn x-cafevn.org )
5) Nguyễn Tất Thành bị bệnh lao nặng vào năm 31/32 và ở thời điểm này chưa có thuốc trị bệnh lao:
Theo GS Hồ Tuấn Hùng , tác gỉa sách “Hồ Chí Minh Sanh B́nh Khảo”, th́ NAQ đă chết v́ bệnh lao phồi nặng ( trước đệ nhị thế chiến chưa có thuốc để trị bệnh lao phổi) và đă được làm lễ truy điệu và an táng ờ LX vào năm 1932. Sau đó HCM / Hồ Tập Chương là 1 người Tàu đă âm thầm “chuyển hoa ghép cây” biến thành nhân vật NAQ với sự đồng t́nh của CSLX/CSTQ để tiếp tục sứ mạng “Phát triển sự liên hợp trận tuyến giữa 2 đảng CSTQ và CSVN”.
6) HCM chi mặc áo đại cán như Mao/Chu và chưa bao giờ bận áo dài khăn đóng VN cũng như bộ đồ Vét như NAQ :
NAQ rất thích chưng diện áo vét thắt cà vạt c̣n HCM chỉ xuất hiện trước công chúng trong bộ quần áo đại cán và theo như lời của GS Hồ Tuần Hùng th́ người ta chưa bao giờ thấy HCM mặt áo vét thắt cà vạt như NAQ thời trai trẻ.
7) HCM chưa bao giờ vinh danh những vị anh hùng VN như Quang Trung – Trần Hưng Đạo – Ngô Quyền.
8) HCM đă ra lệnh cho BT-CA TQH giết Nông Thị Xuân v́ đă phát hiẹn hay nghi ngờ HCM không phải là người VN và không dám chung đụng với phụ nử VN v́ sợ phát hiện ra được gốc Tàu của ḿnh.
9) HCM ra lệnh “toàn quốc kháng chiến” đánh Pháp sau WW2 củng như sau đó đánh Mỹ cho đến hết người VN cuối cùng là hoàn toàn sai lầm và không cần thiết. HCM dùng VN như ṿng day bảo vệ cho TQ và làm đường ra biển đông sau này
10) HCM lúc chết đi chỉ mong được gặp Các Mát / Lê Nin chớ không phải về với ông bà tổ tiên theo truyền thống của dân tộc VN hay về với các vị anh hùng VN.
11) HCM lúc gần chết chỉ mong được một y tá TQ hát cho nghe một bài ca TQ:
Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đă có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui ḷng Bác, v́ t́nh hữu nghị Trung-Việt, tôi đă hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.
Nguồn: [url]http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61…8/Default.aspx[/url]
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh)[/B]
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn chuyển ngữ
-
Thiên IV #1 :
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân t́nh ái (Hôn nhân luyến t́nh đích bi ca)
Hồ sơ hôn nhân Hồ Chí Minh
Trong bài “Nguyễn Ái Quốc (NAQ) chết rồi sống lại”, tôi đă nhấn mạnh, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc chết v́ bệnh lao phổi; người xuất hiện sau này tuyệt đối không phải NAQ mà chính là Hồ Tập Chương, làm nhiều chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh (HCM) đặt câu hỏi nghi ngờ. Trong quá tŕnh viết cuốn sách này, tôi đă tham khảo không chỉ một vài tài liệu mà thực chất đă tiếp cận hàng đống hồ sơ, do đó đă phát hiện ra những điều bất hợp lư thậm chí mâu thuẫn nhau trong cuộc đời nhân vật lịch sử này. Vấn đề quan trọng nhất là cần phải khách quan và trung thực trên cơ sở những chứng cứ khoa học, đồng thời hết sức tránh thái độ cực đoan do thành kiến, nhằm loại trừ những sai lầm để t́m ra sự thật.
Nghiên cứu hồ sơ hôn nhân, t́nh ái của Hồ Chí Minh chính là để làm sáng tỏ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, người này không thể là người kia và ngược lại. Hôn nhân, t́nh ái của Nguyễn Ái Quốc cần được phân biệt giữa Breiere, Tăng Tuyết Minh với Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK). Hôn nhân t́nh ái của Hồ Chí Minh cũng phải được phân biệt giữa Lâm Y Lan (LYL), Đỗ Thị Lạc (ĐTL) và Nông Thị Xuân (NTX). Một số cuộc hôn nhân, t́nh ái này đă được đề cập rải rác trong “Truyện Hồ Chí Minh” của Willam J.Duiker và “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích” của Sophie Quinn – Judge, quyển 2, nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu” (Đại lục) với bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, nguyệt san “Nhân Dân Văn Trích” (Đại lục) có bài “Mối t́nh sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Về phía Việt Nam (VN) có tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, “Việt duệ Hoa nhân Lĩnh Nam di dân” chuyên san có bài “Thê thiếp và t́nh nhân của Hồ Chí Minh”. Nói chung, các tác phẩm trên đều có những phát hiện và tŕnh bày, phân tích về t́nh trạng hôn nhân, t́nh ái của Hồ Chí Minh tương đối đúng sự thực. Tuy nhiên, về phía nhà nước VN, những người lănh đạo cao cấp đều ra sức phản bác, cũng như lúc sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao giờ thừa nhận ḿnh từng có vợ có con. Họ coi Hồ Chí Minh là thần thánh, biểu tượng tối cao của sự nghiệp cách mạng, nên sẵn sàng nhắm mắt, bịt tai trước sự thật lịch sử. Hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hiện thực khách quan, được bạch hóa tại nhiều hồ sơ lưu trữ, không thể xóa bỏ được vết hằn lịch sử.
Từ sau năm 1933 cho đến lúc qua đời, Hồ Chí Minh không bao giờ thừa nhận các quan hệ hôn nhân, gia đ́nh, nhưng trước năm 1933, t́nh trạng hôn nhân của NAQ lại được công khai rơ ràng. Nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) cường điệu chuyện Hồ Chí Minh v́ sự nghiệp độc lập giải phóng dân tộc mà hy sinh t́nh cảm cá nhân, bởi v́ họ không muốn và cũng không dám đối mặt với một sự thật chết người, ấy là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một. Không c̣n cách nào khác, các nhà lănh đạo cao cấp, thông qua bộ máy tuyên truyền, đă lợi dụng những chuyện cường điệu, bịa đặt về thứ t́nh yêu “đồng chí cộng sản” để nấp sau tấm màn nhung, điều khiển vở hài kịch “trộm rồng đổi phượng”, “dời hoa tiếp cây”…
Chuyện hoang đường về đạo đức thánh nhân
Trong nhận thức của một số người, ấn tượng phổ biến về việc ông HCM không có vợ con là bởi sự nghiệp cách mạng, v́ độc lập dân tộc nên dă hy sinh hạnh phúc gia đ́nh. Đại sứ Trung Quốc (TQ) Lư Gia Trung đă viết trên tờ “Thế Giới Tân Văn” ngày 11 tháng 7 năm 2005 như sau: “HCM v́ sự nghiệp cách mạng chấp nhận sống độc thân, không xây dựng gia đ́nh, không vợ không con”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, vào những năm năm mươi, các nhà lănh đạo VN đă từng có ư sắp đặt một nữ tthanh niên ưu tú bên cạnh Bác để giúp đỡ Người trong công tác cũng như sinh hoạt. Thế nhưng, khi người phụ nữ ấy được đưa đến, HCM lại bảo: “Bác ở đây không có việc ǵ, cháu hăy về cơ quan công tác cho tốt”. Có lần HCM tâm sự với các nhân viên phục vụ về nguyên nhân ḿnh không xây dựng gia đ́nh: “Thời trẻ, Bác bôn ba nước ngoài, đi đến đâu cũng được phụ nữ để ư, chỉ hiềm lúc ấy Bác đang họat động bí mật, sẽ có ngày trở về nước làm cách mạng, một khi thành gia thất th́ rất khó bảo vệ được bí mật”. Lư Đại sứ viết tiếp: “HCM v́ tự do độc lập của nhân dân mà chấp nhận cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, không màng đến sự sống chết và hạnh phúc cá nhân, cho nên chấp nhận suốt đời sống độc thân”. Việc không có vợ con của HCM có đúng như Lư Gia Trung nhận định là chỉ v́ nền độc lập dân tộc hay là c̣n có lư do khác quan trọng hơn mà họ cố ư giấu nhẹm sự thật, tạo ra chung quanh một ṿng hào quang để biến ông thành vị thánh sống?
Căn cứ vào những hồ sơ từ thời thực dân Anh Pháp để lại, mới được giải mật gần đây, th́ NAQ và HCM đă có thời kỳ hôn nhân tốt đẹp, đồng thời cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn trong các mối quan hệ. Tuy nhiên, nhà nước cộng sản (CS) Liên Xô (LX), TQ và VN cho đến nay chẳng những không chịu thừa nhận thực trạng hôn nhân của HCM mà c̣n cố ư làm sai lệch các hồ sơ trên. Họ làm vậy mới mục đích ǵ? Lần lượt phân tích các hồ sơ qua nội dung đă được bạch hóa, có thể suy đoán, Nga cộng, Trung cộng, Việt cộng, không dám công bố sự thật hôn nhân HCM là bởi họ đă hiểu NAQ và HCM là hai người khác nhau. Một khi các chuyên gia nghiên cứu về HCM công bố trước thế giới sự thật này th́ thân phận HCM sẽ trở thành một “song bào án”, h́nh tượng HCM bỗng chốc sụp đổ, làm ǵ c̣n đủ tư cách “cha già dân tộc”!
Những năm ấy Quốc tế cộng sản (QTCS) phải khó khăn lắm mới tạo ra được vở kịch “mượn xác hoàn hồn” với kế hoạch cài cắm một phái viên của QTCS vào VN nhằm thực hiện mục đích “nhuộm đỏ” khu vực Đông Nam Á (ĐNA), nay có nguy cơ bị vạch trần nên tất yếu họ t́m mọi cách bưng bít.
Vào những năm dầu thế kỷ XXI (năm 2000), sự thực về hôn nhân, t́nh ái của HCM c̣n được Sophie Quinn- Judge trong “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích”, quyển I, ở phần mở đầu, giới thiệu tóm tắt đă viết: “HCM không phải là ḥa thượng độc thân, qua thẩm xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, ông ta từng có quan hệ chính thức với hai người phụ nữ”. Phần tổng kết, tác giả nhắc lại: “HCM tuyệt đối không phải là một vị thánh của Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) chỉ v́ ông ta không có cơ hội chung sống cùng phụ nữ mà thôi”. Một tác giả người Việt là nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng trong tác phẩm “Ông Hồ có bao nhiêu vợ?”, đă viết: “HCM cũng chỉ là một người b́nh thường. Ông đă từng trải qua mấy cuộc hôn nhân, có vợ có con, thậm chí có đến mấy bà vợ cùng nhân t́nh”. Trong xă hội VN năm sáu mươi năm về trước, đây là hiện tượng cực kỳ phổ biến. Chỉ có điều, đă trót suy tôn ông ta là “nhà chính trị kiệt xuất”, “cha già dân tộc”, “biểu tượng của cách mạng VN” nên bắt buộc phải giấu biệt các mối quan hệ hôn nhân, t́nh ái, vô h́nh chung Cộng sản Việt Nam (CSVN) đă biến ông Hồ thành kẻ phụ t́nh, bất nghĩa, thoái thác trách nhiệm làm chồng làm cha, một lẽ thường của đạo nhân luân.
Cầu trả về cầu, đường trả về đường
Qua những sự thực lịch sử về t́nh trạng hôn nhân của HCM, cẩn thận xem xét, kiểm nghiệm kết hợp với so sánh, đối chứng, ta có thể thấy rơ, NAQ và HCM có những quan hệ hôn nhân, t́nh ái vào các thời kỳ khác nhau. Nếu đem hai người có t́nh trạng hôn nhân ở hai thời kỳ khác nhau gộp lại cho một người rồi đồng nhất cùng một thời gian th́ chẳng khác ǵ câu chuyện dân gian “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, làm biến dạng bản chất sự việc. Muốn làm rơ việc này cần phải lấy năm 1932 làm mốc phân ranh giới giữa NAQ và HCM. Trước năm 1932, thuộc hôn nhân, t́nh ái của NAQ với Breiere, Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK). Từ năm 1933 về sau, thuộc hôn nhân t́nh ái của HCM với Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Đem NAQ ghép với HCM là không thể. Để loại trừ những kết luận chủ quan, sai lầm, cần phải đối chiếu thời gian, t́m hiểu các mối quan hệ, phân tích dữ liệu một cách cẩn trọng trong đống hồ sơ lưu trữ về HCM để trả lại sự minh bạch cho lịch sử như tục ngữ của người TQ là “cầu trả về cầu, đường trả về đường”. Xin độc giả tham khảo những tư liệu sau đây:
1 – Năm 1921, NAQ ở trọ tại biệt thự Qua Bách Lâm thủ đô Paris nước Pháp, làm quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là t́nh nhân của NAQ.
2 – Năm 1925, tại Quảng Châu, NAQ quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của M. Brodin.
3 – Năm 1930, tại Hương Cảng, NAQ mang theo từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, NAQ và NTMK cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến của các đồng chí đến từ Tây Cống và Đông Kinh.
4 – Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ 7- QTCS. Thời gian này NAQ bị bệnh đă qua đời, NTMK với tư cách là vợ của NAQ, khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đă kết hôn với một người đồng chí có tên PC. Lin. Hội nghị kết thúc, NTMK ở lại Liên Xô, đến pḥng đăng kư giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lănh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).
5 – Cuối năm 1944, HCM trở lại căn cứ địa cách mạng Bắc Kỳ. Trong số 18 cán bộ ṇng cốt theo HCM về VN có một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc (ĐTL), mọi người quen gọi “chị Thuận”. Tại Cao Bằng, HCM và ĐTL sống chung với nhau một thời gian.
6 – Năm 1955, một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng, quê Ḥa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân (NTX) đượ cử làm y tá bên cạnh HCM. Hai người sống chung với nhau gần một năm th́ cô Xuân sinh hạ một bé trai. Đứa bé lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này thư kư riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng tại nhà ḿnh.
7 – Năm 1965, nhân việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của HCM viếng thăm Hà Nội, ông Hồ có nhờ Đào Chú t́m giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông là Lâm Y Lan để nối lại t́nh xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về TQ báo cáo việc này với Tổng lư Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy không c̣n mặn mà như trước v́ cuộc “Đại cách mạng văn hóa” nên đề nghị của ông Hồ tạm thời bị xếp lại.
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Hồ Chí Minh & các cuộc t́nh
Mối t́nh đầu của Nguyễn Ái Quốc với cô Breiere
[/B]
Breiere và Bourdon
Breiere có phải là người t́nh đầu tiên của NAQ hay không, việc này xác minh không khó. Qua quá tŕnh thẩm xét, các hồ sơ liên quan đến NAQ đều cho thấy, Breiere đúng là người t́nh đầu tiên của NAQ. Mối quan hệ t́nh ái này, cả trong tác phẩm của William Duiker và Nguyễn Thế Anh đều không được đề cập đến, bởi các nhà nghiên cứu quan niệm, chuyện yêu đương thời kỳ đầu của Nguyễn thường là giả tạo, thậm chí c̣n bị tô vẽ phóng đại với mục đích chính trị.
Người t́nh đầu tiên của NAQ là một phụ nữ Pháp tên Breiere, chẳng hiểu vô t́nh hay hữu ư đă bị lẫn lộn với mối t́nh của nữ chiến sĩ cách mạng NTMK. Việc làm này rơ ràng có ư đồ tạo ra một giả tượng đồng nhất HCM với NAQ. Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong tác phẩm “Con đường chính trị của Hồ Chí Minh”, khẳng định người t́nh đầu tiên của NAQ là cô Bourdon, c̣n William Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 76 lại ghi người t́nh đầu tiên của NAQ là cô Bourdon Breiere. Có nhiều khả năng, từ tiếng Pháp chuyển dịch sang tiếng Trung, danh xưng này bị phiên âm khác đi. Theo các tài liệu lịch sử để lại, cô Breiere và cô Bourdon đều là người t́nh của NAQ thời kỳ đầu đến nước Pháp thực chất chỉ là một người. William Duiker dẫn theo tài liệu thời kỳ đầu c̣n Nguyễn Thế Anh dẫn theo tài liệu ở thời kỳ kết thúc của mối t́nh này nên mới có sự bất đồng.
Mối t́nh đầu của Nguyễn Ái Quốc
Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong “Con đường chính trị của HCM” có ghi chép về mối t́nh đầu của HCM như sau: “Năm 1923, HCM từng bị thất t́nh với một cô gái người Pháp là Bourdon. Cô này đă trách móc Hồ v́ việc Hồ tuyên bố với mọi người cô là vợ ḿnh. Từ một bức thư đề ngày 10 tháng 5 năm 1923, HCM gửi cho Bourdon có thể biết được mối quan hệ t́nh ái của họ trong thời gian ấy: “Nhận được thư của em làm anh vô cùng sung sướng. Anh cũng gửi đến em lời cảm ơn về những tấm ảnh đẹp. Anh tạm gửi lại em hai tấm, c̣n giữ lại ba tấm, nếu có thời gian sẽ in tráng. Mong em cho phép anh in tráng hai bộ, một bộ gửi em, một bộ anh giữ để làm kỷ niệm t́nh đồng chí của chúng ta”. Sau đó hai người c̣n thư từ qua lại với nhau một thời gian nữa, hẹn sẽ có ngày gặp mặt. Có khả năng, theo lá thư đề ngày 11 tháng 6 năm 1923 gửi cho Bourdon, HCM viết: “Vừa nhận được thư cô, xin cô hăy giữ ǵn các tấm ảnh, nhưng không cần thiết phải phóng đại số ảnh ấy. Đọc thư, tôi rất sửng sốt, không sao hiểu được ư tứ của những lời nói ấy. Nếu cô nghĩ rằng tôi làm việc ấy, xin mời cô hăy đến quán ăn, ta sẽ làm rơ sự thật”. (Tác giả nhận định, thời gian ấy, NAQ làm việc tại một hiệu ảnh, c̣n cô Bourdon có thể làm làm bồi bàn trong một nhà hàng). Trích dẫn từ một lá thư do Cục Bảo An Pháp thu được, hiện bảo tồn tại Trung tâm hồ sơ Pháp quốc hải ngoại (SLOTFOM), hàng thứ 2, ḥm số 4, William J. Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, chương 2, trang 76, viết: “Năm 1921, NAQ quyết định gia nhập đảng Cộng sản Pháp (ĐCSP), việc này đă tạo ra sự căng thẳng với nhóm người cùng ngụ trong biệt thự Qua Bách Lâm. Họ xem Nguyễn là nhân vật cấp tiến và hành động của anh ta có mùi vị súng đạn. Thời kỳ Hội nghị Versailles, NAQ có kể với người đồng hương là Trần Tiến Nam về người bạn gái bất đồng quan điểm với ḿnh v́ cô cho rằng anh ta có tư tưởng cực đoan. Cũng cuốn sách trên, trang 593 (chú giải số 49), có ghi: “Căn cứ Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại của Trung tâm viễn chinh quân bảo hộ, tủ thứ 36, ngày 27 tháng 12 năm 1920, Deveze viết như sau: “Người bạn gái là Breiere, cảnh sát tin là nhân t́nh của Nguyễn Ái Quốc”.
Mối t́nh đầu giữa NAQ và Breiere là t́nh yêu chân chính của những người tuổi trẻ. Nó thường bị lợi dụng gắn kết với mối t́nh giữa NAQ và NTMK, cố ư gây lẫn lộn, làm mối t́nh đầu thất bại này mang phong vị lăng mạn, tạo ra một h́nh ảnh HCM thánh nhân, đạo đức “đất nước chưa độc lập thống nhất, HCM không thể xây dựng gia đ́nh riêng”. Theo các đề mục ở phần sau của tác phẩm “HCM v́ sao không lấy vợ?” và “T́nh yêu vượt qua Hồng Hà” (Truyện Hồ Chí Minh), hai thiên này rất không đúng sự thực, chứng tỏ ṿng hào quang chung quanh HCM chỉ là thần thoại giả tạo.
Nghi án ái t́nh giả tạo
HCM v́ sao suốt đời không lấy vợ?, tờ “Nhân Dân Nhật Báo” Trung Quốc, bản hải ngoại (bản số 3, ngày 16 tháng 9 năm 2000), Hồ Văn Sinh viết: “Năm 20 tuổi HCM lên một chiếc tàu thủy đến nước Pháp, bắt đầu t́m thấy chân lư ở chủ nghĩa Marx – Lenine. Trên đường đi, ông làm quen với một cô gái xinh đẹp người Viêt, dáng mảnh mai, tính t́nh nhu thuận. Họ nhanh chóng có t́nh cảm với nhau. Khi HCM tham gia “Phong trào vận động giải phóng dân tộc Việt Nam” th́ người bạn gái yêu thương bị kẻ thù giết hại một cách thảm khốc. Một hôm, ông đến gặp các nhà lănh đạo chủ chốt của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (VNTNCMĐCH) trịnh trọng tuyên bố: “Một khi VN chưa giải phóng, đất nước chưa thống nhất th́ đời này, kiếp này tôi nhất định không thành gia thất”. Từ Đại lục, “Phúc Kiến Kiều Báo” có đăng tải bài “T́nh yêu vượt qua Hồng Hà, chuyện t́nh Hồ Chí Minh” với nội dung như sau: “Năm 20 tuổi, HCM rời quê hương Nghệ An ra đi trên một chiếc tàu thủy đến nước Pháp t́m chân lư qua nghĩa Marx- Lenine để giải phóng dân tộc. Hai tháng lênh đênh trên biển, ông làm quen với một cô gái con nhà gia thế, dáng vóc xinh đẹp, tính t́nh nhu thuận. Ông Hồ là một thanh niên cao thượng, phong cách tao nhă, làm việc cần mẫn không nghỉ, quyết chí hiến thân cho lư tưởng quốc gia độc lập, dân tộc giải phóng, làm người thiếu nữ vô cùng cảm động và ái mộ. Năm 1923, HCM đi Liên Xô học tập. Một thời gian sau người yêu của ông cũng được cử qua đường Liên Xô về nước truyền bá ngọn lửa cách mạng. Cặp t́nh nhân níu áo, rơi lệ từ biệt nhau. Sau đó, HCM từ Liên Xô trở về Quảng Châu TQ vận động thành lập VNTNCMĐCH và “Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Á Đông Bị Áp Bức” (HLHCDTAĐBAB). Đúng vào lúc HCM toàn tâm toàn ư hoạt động cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt th́ một tin dữ truyền đến, người yêu của ông bị kẻ thù sát hại một cách thảm khốc. HCM đau đớn tưởng như không thể sống được nữa. Một ngày, ông đến gặp các cán bộ chủ chốt của VNTNCMĐCH trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam chưa giải phóng, đời này, kiếp này, tôi quyết không thành gia thất”.
(C̣n tiếp)
© Thông Luận 2010 – Ngày: 24/12/2010
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Hồ Chí Minh & các cuộc t́nh
Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc
[/B]
Câu chuyện hôn nhân, ái t́nh của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Quảng Châu đổi tên thành Lư Thụy. Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh (TTM) đến trụ sở “Hội Phụ nữ Vận động Diễn tập” t́m gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lư Thụy ở chỗ rẽ cầu thang. Khi ấy, hai người chẳng để ư ǵ đến lễ tiết mà cùng đối mặt nh́n nhau. Lư Thụy bị phong thái cao nhă, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không nén được bèn hỏi Thái Sướng: “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là ǵ và có quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lư Thụy dường như đă có t́nh ư với TTM nên Thái Sướng đă có nhă ư giới thiệu nhân thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối cho cuộc nhân duyên này.
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà buôn, đă từng kinh doanh ở Đàn Hương Sơn (nước Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đ́nh. Từ năm 1912 đến năm 1917, Tăng Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa xuân năm 1923, TTM vào học trường Nữ Hộ Sinh, năm 1925 tốt nghiệp. Sau khi được Hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân, Quảng Châu. Lúc ấy, TTM vừa tṛn hai mươi tuổi. Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ Vận động Diễn tập”. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, TTM thường đến trụ sở Hội nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng.
TTM có người anh thứ hai là Tăng Cẩm Tương là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lư Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lư Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt t́nh, có viễn kiến, lịch duyệt và biết nhiều ngoại ngữ, ông đă thay mặt gia đ́nh tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng 10 năm 1926, hôn lễ được cử hành long trọng tại nhà hàng Thái B́nh Dương trước sự chứng kiến của đông đảo quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ tŕ. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.
Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lư Thụy khấp khởi mừng thầm v́ sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ TTM là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đă t́m mọi cách ép nàng phá thai. Tuy TTM có những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, c̣n lại đều sống xa gia đ́nh. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, v́ chữ hiếu, nàng khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đă gặp Lư Thụy nói sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của ḿnh, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.
T́nh h́nh cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện Trung Sơn Hạm triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng truy sát các đảng viên cộng sản, tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước t́nh h́nh nghiêm trọng, Lư Thụy nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, theo đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để sang Mạc Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.
Năm 1929, Lư Thụy đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của QTCS, thành lập ĐCSVN tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống Văn Sơ t́m cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc ḿnh bị câu lưu. Được tin, các chị gái TTM nhiệt t́nh giúp đỡ bằng cách mời luật sư biện hộ để em rể thắng kiện trước ṭa. TTM theo các chị đến nơi mới biết Tống Văn Sơ chính là Lư Thụy, chồng ḿnh, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp đành gạt nước mắt ra về.
Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo, trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lănh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lănh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rơ, Lư Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh đă từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng đến t́nh hữu nghị Trung – Việt, sự việc mới lắng xuống.
Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn c̣n sống hay không? V́ sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ t́m người vợ đă mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua sóng gió Cách mạng Văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một ḿnh cho đến năm 1991 th́ qua đời ở tuổi 86.
Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lư Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong kư ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh t́nh cảm nam nữ rồi quá tŕnh tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quư và bức thư ngày trước viết cho HCM mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi c̣n có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lư Thụy đă tặng lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa được cố vấn Mikhail Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đ́nh tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào dịp kỷ niệm ngày sinh 111 năm của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là thành viên Sở Nghiên cứu Văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp Thành phố, là nhà thư pháp, hiểu rất rơ trách nghiệm và nghĩa vụ của ḿnh khi soạn cuốn sách này. Bởi v́ cuốn sách chính là tấm ḷng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng nhớ đến người cô TTM, cho dù t́nh cảm bị tổn thương vẫn một ḷng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu sống độc thân, và lănh tụ HCM, chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi v́ sự nghiệp cách mạng dân tộc, v́ sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng ḿnh. Dù thời gian qua đi nhưng t́nh cảm của hai người vẫn không thay đổi, một ḷng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.
Hồ sơ về hôn nhân, t́nh ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Viết về hôn nhân và t́nh ái của HCM, có thể điểm đến các tác phẩm“Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập phê b́nh, chú giải tại Nguyệt san“Vũ Hán Văn sử Tư liệu”, năm 2001, kỳ 1; William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí Minh”gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, ḥm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).
Phần thứ nhất, chương 4 – “Long đích truyền nhân” (Người nối ḍng rồng), trang 143, nội dung như sau: “Mùa xuân, năm 1927, NAQ dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông ta đă trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi và các lănh tụ Quốc Dân Đảng cánh tả (là đảng viên ĐCSTQ) Liêu Trọng Khải v.v. Đến lúc ấy, chẳng những NAQ đă ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà c̣n muốn t́m một người vợ để học Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đ́nh. Không lâu sau, một người đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu với NAQ một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đ́nh có giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. NAQ bất chấp mọi phản đối, quyết định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một pḥng trên tầng 2 biệt thự của Mikhail Borodin. Việc này đă được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.
Thư gửi Tăng Tuyết Minh
Thư gửi Tăng Tuyết Minh bị Mật thám Đông Dương chặn được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix en Provence). Xuất xứ Daniel Hémery, HO CHI MINH De L’Indochine
Một phần khác, ghi chép tại chương 6 – “Xích sắc Nghệ Tĩnh” (Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết: “T́nh yêu giữa NTMK và NAQ không phải mọi người đều biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức”. Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đă rời TQ, vẫn c̣n chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại. Theo một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một người quen ở Cục Bảo An: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không hợp với ḿnh, đồng ư kết hôn chỉ v́ lư do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi NAQ rời Quảng Châu có gửi cho TTM một bức thư: “Hai ta phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy t́nh cảm chẳng khác ǵ ngày trước. Anh viết gửi em mấy ḍng này làm vật chứng, xin em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ hôn nhân của NAQ và TTM chấm dứt, vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là NTMK, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đă dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và HCM. Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng, ông đă viết trên tờ“Đông Nam Á tung hoành”(Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12, tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí Minh đích xác có một người vợ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh.
Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh
NAQ và TTM, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy v́ sao, người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử liệu và quá tŕnh nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đă bị ban lănh đạo Cộng sản Việt Nam bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo An Pháp như sau: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không phù hợp với ḿnh, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đă vu khống t́nh yêu chân chính (sinh tử luyến) và tấm ḷng trung trinh của TTM với NAQ, bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với W.J. Duiker. V́ thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê b́nh, đăng tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định t́nh cảm của bà cô TTM đối với NAQ trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đă làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn t́m cách che giấu sự thật lịch sử này.
Nguyệt san
Vũ Hán Văn Sử Tư Liệu
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết: “Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn Hối Báo” thấy in ảnh chân dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Trung ương ĐCSTQ và Chủ tịch Mao Trạch Đông (MTĐ) kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy bà mới biết, h́nh bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp, nhân t́nh của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “ Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đă mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lănh đạo Trung Cộng cự tuyệt.
Theo tinh thần của bài viết, rơ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng v́ muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám để TTM gặp mặt ông ta. Người chủ tŕ hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rơ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lư Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rơ TTM đau khổ mà không làm ǵ được.
Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả – một vụ án kép
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” có đoạn: “Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lănh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói: “người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng”, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lănh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ TQ Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rơ, Lư Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận TTM và HCM đă từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lư không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên.
Liệu HCM có biết TTM vẫn c̣n sống hay không? V́ sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ t́m người vợ đă mất tin nhiều năm?
Trong“Mối t́nh nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đă hơn 20 năm, v́ sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Thủ tướng Chu Ân Lai và các vị lănh đạo cao cấp cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía ḿnh, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính Trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này.
Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958.“Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của TTM và NAQ bị hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính NAQ bị biến thành HCM theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối t́nh nồng thắm của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về việc HCM nhờ ĐCSTQ nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và t́nh ái trên đă thể hiện rất rơ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và t́nh yêu cũng không giống nhau. T́nh yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, Mikhail Borodin, Trung Cộng và QTCS chứng kiến. T́nh yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam biết rơ.
Có thể khẳng định, bất cứ ai, nếu không biết rơ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đă tŕnh bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối có kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có ḍng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lư Thụy, tức NAQ treo trước tủ gương th́ hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh NAQ chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung NAQ và tấm chân dung TTM để trong hộp gương gần như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rơ về tấm ảnh bên cạnh: “HCM và bạn bè thanh minh, suốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, HCM bảo ḿnh chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lư trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi v́, từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằng NAQ và HCM chỉ là một người nên mới có chuyện nghi ngờ HCM suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng định NAQ và HCM không phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của ông ta?
Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là HCM chủ tŕ các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp… đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenine hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng h́nh thức, thậm chí c̣n có vẻ quê mùa. Đây là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.
Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc NAQ 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đă chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, NAQ vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh c̣n lại được lưu trong hồ sơ của ông đă chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân t́nh của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: “Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn Judge ‘Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang’. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài ḥa khiến mọi người đều phải chú ư vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lăm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như c̣n ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện t́nh thời trai trẻ.
(C̣n tiếp)
© Thông Luận 2010 – Ngày: 25/12/2010
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Khói lửa chiến tranh chứng kiến t́nh yêu – Nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai[/B]
Tự khúc bi ca ái t́nh
T́nh yêu và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc (NAQ) và Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK) vào năm 1930-1931 trước sau cộng lại không đầy một năm v́ hai người từ biệt nhau đến Hương Cảng th́ bị cảnh sát bắt giam, kết thúc giai đoạn hôn nhân ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân tuy không dài nhưng lịch sử đă ghi lại rất rơ ràng, trong khói lửa chiến tranh, t́nh cảm của đôi lứa thật chân thành. Năm 1932, NAQ bị bệnh qua đời là sự thực, c̣n NTMK, đến năm 1935 cải giá, kết hôn với Lê Hồng Phong (LHP), cùng là sự thật. Sự việc này vốn dĩ rất b́nh thường nếu như không có bàn tay Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) thao túng, bí mật đạo diễn màn kịch “hồn Trương Ba – da hàng thịt”, cùng giới chóp bu Trung cộng và Việt cộng, tạo ra chung quanh Hồ Chí Minh (HCM) ṿng hào quang, biến ông thành một vị thánh, phỉ báng mối t́nh đẹp đẽ của NAQ và NTMK.
Hồ sơ hôn nhân của Nguyễn Thị Minh Khai
1/ William J. Duiker viết về quan hệ hôn nhân, t́nh ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh” viết: “Hồ sơ về t́nh yêu, hôn nhân của NAQ và NTMK gồm ba phần. Tư liệu của ba phần này đều dẫn từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, ḥm số 367 và “Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam” của Đạt Ni Ai Nhĩ Hách Mai Lư, do NXB Galimard-Paris, ấn hành năm 1990.
Phần thứ nhất
Tại chương 6 “Màu đỏ Nghệ Tĩnh” (“Xích sắc Nghệ Tĩnh”), trang 85 viết: “Tháng 10 năm 1930, tại nhà trọ “Nhất Đống”, phố Khai Di, Cửu Long, Hương Cảng, khai mạc Hội nghị Trung ương, NAQ là đại biểu QTCS được cử làm Chủ tịch ĐCSVN. Cùng dự c̣n có một nữ đảng viên trẻ tuổi, mắt sáng, da ngăm ngăm, được ủy nhiệm làm trợ lư cho NAQ là NTMK”.
Phần thứ hai
Cũng tại chương 6, trang 198-199, tác giả viết: “NAQ tại Hương Cảng chờ tin tức. Từ khi NTMK làm trợ lư cho NAQ, hai người đă nảy sinh t́nh cảm. Minh Khai tuổi trẻ, ngoại h́nh hấp dẫn đă làm NAQ mê đắm. T́nh yêu của NAQ và NTMK đến khá nhanh chóng. Vào mùa xuân năm 1932, hai người đă báo cáo với Cục Viễn Đông đề nghị được kết hôn. Đại biểu QTCS là Hải Lai Nhĩ Nặc Lâm đă gửi thư thông báo cho NAQ vào tháng tư. Tuy nhiên, không lâu sau, NTMK v́ bị t́nh nghi có liên can đến hoạt động phiến loạn, bị cảnh sát Hương Cảng bắt chuyển về Quảng Châu tống giam vào nhà tù QDĐ.
Phần thứ ba
Tại chương 7 “Đứng trước những biến động”, trang 224- 225, viết: “Ngày 25 tháng 7 năm 1935, khai mạc Hội nghị QTCS lần thứ 7 tại Mạc Tư Khoa, ĐCSĐD cử ba đại biểu là LHP, NTMK và Hoàng Văn Nọn (Nông) tham gia hội nghị. Ban tổ chức Hội nghị yêu cầu cả ba đại biểu đều đọc tham luận. NAQ lúc ấy là thư kư Cục Viễn Đông, đến Hội nghị với tư cách quan sát viên, không được phép phát biểu, như một diễn viên phụ, đóng vai tṛ bàng quan.
Trước khi Hội nghi khai mạc mấy tháng, Ban lănh đạo ĐCSĐD có gửi cho bí thư thứ nhất Đông Phương Cục một bức thư, kèm theo bản báo cáo mật, nội dung đề cập đến “Nguyễn Ái Quốc phu nhân”, một đại biểu tham gia Hội nghị. Lời văn ám chỉ NAQ và NTMK, năm 1932, tại Hương Cảng, trước khi bị cảnh sát bắt đă từng là vợ chồng. Có lẽ như Tô Duy Ai, tác giả “Quoc’s wife”(Vợ của Quốc), từng suy đoán, trên đường sang Mạc Tư khoa, NTMK ái mộ phong độ anh tuấn của LHP rồi nảy sinh t́nh yêu chăng? Có khả năng, vào mùa xuân năm 1931, sau khi khi chia tay với NAQ rồi bị bắt, đến lúc ấy đă qua 4 năm, t́nh cảm hai người không c̣n đằm thắm như trước. Cho dù sự thực thế nào, th́ sau khi Hội nghị 7 bế mạc không lâu, LHP và NTMK đă kết hôn tại Mạc Tư Khoa.
Thời gian NAQ và NTMK sống với nhau, có thể nói, nhân thân của NAQ có nhiều vấn đề khó lư giải. Trở lại một số năm trước, ông chưa từng nói với các đồng chí về mối quan hệ này. Tuy nhiên các nhà lănh đạo Hà Nội lại ra sức phủ nhận hai người đă từng có quan hệ vợ chồng. Cũng không loại trừ trường hợp, NAQ và NTMK chưa kịp cử hành hôn lễ chính thức mà chỉ có sự chứng kiến của một số ít đồng sự làm cơ sở pháp lư. NAQ cùng một lúc mất cả vợ lẫn quyền lănh đạo (Liệu có đúng?!), phải chăng, như một nhà quan sát từng nói “hai lần tủi nhục”.
2/ Sophie Quinn Judge viết về quan hệ hôn nhân, t́nh ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
Trong tác phẩm “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích”, tài liệu mà Sophie Quinn Judge dùng để thuật lại quan hệ hôn nhân của NAQ và NTMK gồm hai phần. Phần một, dẫn từ hồ sơ số 367 của “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, ngày 12 tháng 2 năm 1931 do Victor viết gửi về. Phần hai, dẫn từ “Lịch sử hiện đại Liên Xô” của “Trung tâm Nghiên cứu và Lưu trữ” 495/154/688, trang 14, từ các ngày 14, 17 tháng 12 năm 1934 và ngày 31 tháng 3 năm 1935 của Cục Hải Ngoại gửi về Mạc Tư Khoa.
Phần một, chương 5 “Cao trào cách mạng”, trang 182, viết: “Mùa đông năm 1930, NAQ báo cáo với Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Ngày 12 tháng 1, Cục Viễn Đông gửi văn bản trả lời, nội dung là NAQ phải thông báo thời gian chính xác trước hai tháng. V́ thư hồi đáp không ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện hôn sự của HCM. Sang tháng hai, HCM bàn với NTMK, đầu năm mới, chuẩn bị đón khách từ Tây Cống và Đông Kinh đến thăm.
Phần hai, chương 6, có tiêu đề “Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa?” (trang 202- 203), viết: “Ngày 8 tháng 12 năm 1930, ba đại biểu của ĐCSĐD đến Mạc Tư Khoa. Những người này phân biệt rơ rệt với các thành viên của Cục Hải Ngoại, là LHP, NTMK và Hoàng Văn Nọn. Tổng Bí Thư ĐCSĐD Hà Huy Tập gửi thư cho QTCS nói, NTMK là vợ NAQ. NTMK sau khi đến Mạc Tư Khoa, điền vào tờ khai cá nhân, ở mục hôn nhân là đă có chồng tên là PC.Lin, chính là một trong những bí danh của HCM. Về điểm này có thể nói, thời gian quan hệ vợ chồng đằm thắm của hai người chỉ như hạt sương mai trên ngọn cỏ. Tuy nhiên HCM chưa bao giờ được những người cộng sản chính thức công nhận đă từng có vợ. NTMK ở Mạc Tư Khoa thường dùng bí danh Phan Lan.
3/ Tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, ngày kỷ niệm Quốc tế Phụ nữ năm 2005, NXB Tổng hợp Tp HCM ấn hành có liên quan đến chuyện t́nh ái và hôn nhân, viết như sau:
- Vào một tháng của năm 1930, là thời kỳ NAQ tham gia giảng dạy tại khóa huấn luyện chính trị. Hôm ấy là một ngày mưa băo, khắp các đường phố, cây cổ thụ bị băo đánh bật tung gốc. MTMK trong nhóm học viên nḥm qua ra sổ, nói: “Hôm nay có khả năng đồng chí Lư Thụy không đến được”. Nhưng chỉ một lúc sau đă thấy đồng chí bước vào, tay cầm ô, áo quần ướt sũng nước. Đồng chí ấy đă lên lớp đứng giờ. MTMK nh́n thân thể gầy yếu của Lư Thụy, trong ḷng vô cùng lo lắng.
- Ngày 29 tháng 4 năm 1932, NTMK bị bắt, ba năm liền giam trong ngục, không nhận được bất cứ tin tức nào. MTMK nhớ lại những ngày sau khi bị bắt ở Hương Cảng, từ nhà giam, cô định gửi cho các đồng chí mảnh giấy nhắn tin, nhưng rồi lại nghĩ, liệu có được chuyển đến tay người nhận hay không? Chắc là không thể được nên đă thu lại mảnh giấy mà chỉ gửi lời nhắn. Cách đấy không lâu, ngày 6 tháng 6 năm 1932, đồng chí NAQ bị mật thám Anh bắt tại Cửu Long. Cô nghĩ đến người lănh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam phải đối diện với hiểm nguy, ḷng đau như cắt.
- NTMK và các đồng chí trong đoàn đại biểu tham gia Hội nghị 7 QTCS, từ đoàn trưởng LHP đến Hoàng Văn Nọn, đều không ai có đủ quần áo ấm. Minh Khai tranh thủ thời gian, cố gắng đan cho Hoàng Văn Nọn chiếc áo len cộc tay và LHP chiếc khăn quàng cổ. Hoàng Văn Nọn tham gia rất nhiệt t́nh vào lễ thành hôn giản dị những vô cùng vui vẻ, thắm t́nh đồng chí của LHP và NTMK. Sau này, trong hồi kư của ḿnh, Hoàng Văn Nọn kể về hôn lễ của LHP và NTMK: “Lúc trở về nhà, nh́n thấy mâm cơm chiều có nhiều món ăn hơn so với ngày thường, tôi hỏi: “Hôm nay Minh Khai làm cô dâu nên chiêu đăi anh em phải không?”. Minh Khai đỏ mặt không nói ǵ, chỉ lắc đầu cười. Khi mọi người đă ngồi vào bàn, Hà Huy Tập đứng lên trịnh trọng tuyên bố: “Hôm nay, Đảng v́ anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long”.
Sự thật về quan hệ hôn nhân giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
1/ William J. Duker viết: “Năm 1931, NAQ và NTMK bắt đầu yêu nhau, sau đó đề nghị Cục Viễn Đông cho phép kết hôn.
2/ Sophie Quinn Judge viết: “Mùa đông năm 1930, NAQ báo cáo Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Cục Viễn Đông có thư trả lời nhưng v́ thư hồi đáp không ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện hôn sự của HCM. Trong ṿng hai tháng, HCM bàn với vị hôn thê, sau năm mới chuẩn bị đón khách từ Tây Cống và Đông Kinh đến thăm.
3/ Nhà văn Nguyệt Tú, trong “Chị Minh Khai” viết: “Hoàng Văn Nọn kể lại: Tham dự lễ cưới đơn giản nhưng vô cùng vui vẻ, thắm t́nh đồng chí của LHP và NTMK, anh Hà Huy Tập trịnh trọng tuyên bố: ‘Hôm nay, Đảng v́ anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long’ ”.
Tổng hợp các ghi chép trên, có thể thấy, báo cáo của NAQ về việc kết hôn với NTMK vào mùa đông năm 1930 với Cục Viễn Đông và hôn lễ được cử hành tại Hương Cảng vào mùa xuân năm 1931 là có thực. Nguyệt Tú dẫn lại hồi ức của Hoàng Văn Nọn đă bất ngờ làm rơ việc ĐCSVN cố t́nh ẩn giấu sự thực hôn nhân giữa NAQ và NTMK. Bản ư của Hoàng Văn Nọn cho rằng, năm 1931, hôn lễ của NAQ và NTMK là sự thực, c̣n việc LHP kết hôn với NTMK tại Mạc Tư Khoa chỉ là lễ cưới giả. Những người chủ trương ẩn giấu sự kiện hôn nhân NAQ và NTMK không ngờ đến mấy ḍng ghi chú phần cuối: “Vương huynh” chỉ LHP, “Duy tỉ” chỉ NTMK đă vô t́nh làm lộ tẩy chân tướng.
Khảo cứu kỹ lưỡng nhiều lần các từ “Vương huynh” và “Duy tỉ” có thể thấy, “Vương huynh” chỉ “lăo Vương” hoặc “đồng chí Vương”, “Duy Tỉ” là “Chị Duy” hoặc “A Duy”, bí danh của NTMK. Danh xưng “Vương huynh “ và “Duy Tỉ” được dùng vào những năm 1924 đến 1931 lúc NAQ và NTMK công tác tại Quảng Châu, Hương Cảng. Trong khi ấy, LHP dùng biệt danh Litvinov, Tuệ An, Gia Chính, Hạ Dương v.v… nhưng chưa bao giờ dùng “Vương huynh” làm bí danh (gần đây, khi bí mật trên bại lộ, những người viết tiểu sử LHP đă thêm cho ông bí danh “Vương…” để phản bác những ư kiến đối lập, nhằm hợp lư hóa thân phận HCM và LHP. Xin tham khảo mục “Lê Hồng Phong” trên từ điển mở Wiki). Điều này làm cho người ta không khỏi nghi ngờ. Hà Huy Tập vào năm 1935, không có khả năng xuất hiện tại Mạc Tư Khoa trong hôn lễ LHP và NTMK. Tháng 6 năm 1934, Hà Huy Tập giữ chức Tổng Bí Thư, sau khi chủ tŕ Hội nghị Áo Môn, đến năm 1938 bị bắt, năm 1942 bị xử tử và chưa bao giờ đến Mạc Tư Khoa, làm sao có thể chủ tŕ hôn lễ của LHP và NTMK? Điều này chứng tỏ, Ban lănh đạo cao cấp ĐCSVN cố t́nh che giấu sự thật hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai.
Hôn ước của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai
1/ William J. Duiker viết: “Ngày 25 tháng 5 năm 1935, khai mạc Hội nghị lần thứ 7 QTCS tại Mạc Tư Khoa, LHP, NTMK và Hoàng Văn Nọn là đại biểu chính thức của ĐCSĐD. Hội nghị kết thúc, LHP và NTMK ở lại Mạc Tư Khoa, không lâu sau, hai người đến Pḥng đăng kư giá thú làm thủ tục kết hôn.
2/ Nhà văn Nguyệt Tú viết:
- Sau khi Hội nghị 7 QTCS kết thúc, LHP từ biệt NTMK trở về Việt Nam công tác tại Xứ ủy Nam Kỳ, lấy bí danh là Lư, với tư cách đại biểu Trung ương. LHP và đồng chí Quang ở cùng một nơi. Hai người phụ trách phong trào vận động công nhân, cùng ở trong một gian pḥng b́nh dân khu chợ Sắt Tây, ít lâu sau lại chuyển đến Ngă Sáu. Đồng chí Quang rất thông cảm với Minh Khai, ngẫu nhiên được gặp chồng mà chỉ bàn bạc công việc, rất khó để cùng ăn với nhau một bữa cơm. Pḥng của LHP chỉ đủ kê chiếc giường bạt, ban ngày gấp lại, tối đến mới mở ra để ngủ.
- Tết Nguyên Đán năm 1940, Minh Khai ở chợ Tân Thành, gần đường Mạch Khắc mă Hồng (tác giả dự đoán đây là tỉnh Tân Tri, thuộc Nam Kỳ) trong nhà hộ sinh Hồng Phúc nổi tiếng. Tại đây NTMK sinh hạ bé gái. Đứa bé ra đời được 5 ngày th́ NTMK đặt tên cho con là Nguyễn Thị Hồng Minh, chính là tên lót của LHP và NTMK ghép lại. Ngày 30 tháng 7 năm 1940, NTMK bị cảnh sát Pháp bắt giam tại nhà tù Phú Mỹ. NTMK bao giờ cũng mặc bộ đồ trắng đến pḥng hỏi cung. Ngày 28 tháng 8 năm 1941, NTMK bị dẫn ra pháp trường Phúc Môn B́nh Lăng Cương xử tử. LHP nhận được tin vợ thọ nạn, một năm sau, vào một ngày tháng 9 năm 1942, bị tra tấn dă man cũng chết ở nhà tù Côn Đảo.
Theo ghi chép ở trên, quan hệ hôn nhân của LHP và NTMK là chính xác. Năm 1935, sau Hội nghị 7 QTCS, hai người đă đăng kư kết hôn, Tết năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai sinh con gái Nguyễn Thị Hồng Minh, năm 1941 bị thực dân Pháp xử bắn. LHP chết ở nhà tù Côn Đảo năm 1942.
Bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc
Năm 1934, bí danh P.C.Lin (hoặc P.C.Lâm) của HCM chắc chắn không phải là NAQ. Tại chương 2 “Màn kịch trộm rồng đổi phượng”, ở mục 3 “Ve sầu thoát xác, thực giả nhân sinh”, tôi đă dẫn những chứng cứ về việc NAQ bị lao phổi đă chết vào mùa thu năm 1932, c̣n HCM, từ Hạ Môn qua Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa là một người khác. Nói rơ hơn, khoảng thời gian từ mùa xuân đến mùa hè năm 1933, người đến Mạc Tư Khoa mang bí danh Linov hoặc P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, không phải NAQ. QTCS đă cử người thay thế NAQ dùng bí danh thay cho thân phận ông ta. Trong khi ấy, Ban lănh đạo ĐCSVN cố t́nh đề cao mối t́nh Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai, giấu kín và ra sức phủ nhận quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, dẫn đến hệ quả là: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh, ba người nhưng lại có bốn thân phận trong quan hệ hôn nhân, làm cho t́nh h́nh trở nên vô cùng phức tạp. Điều này khiến cho các tác giả viết truyện kư về Hồ Chí Minh, mỗi người đều tự t́m ra những nhầm lẫn trong sử liệu để giải thích về các mối quan hệ hôn nhân đầy nghi vấn của họ.
1/ Năm 1934, sau khi đến Mạc Tư Khoa, NTMK phải điền vào tờ khai nhân thân là đă có chồng tên P.C.Lin. Nếu NTMK biết bí danh của NAQ là P.C.Lin th́ làm sao lại có thể công khai kết hôn với LHP để làm mất mặt NAQ? NAQ và HCM cùng mang bí danh P.C.Lin, vậy v́ sao, năm 1935, khi cùng đến Mạc Tư Khoa dự Hội nghị 7 QTCS, NTMK lại coi NAQ gần như người xa lạ? Việc này nhất định không hợp t́nh hợp lư. Chỉ có một cách giải thích là QTCS đă chơi tṛ bỡn cợt “dời hoa tiếp cây” (di hoa tiếp mộc), giấu nhẹm mối t́nh cao đẹp, trong sáng của NAQ và NTMK mà đề cao cuộc hôn nhân giữa LHP với NTMK.
2/ NAQ với tư cách Bí thư Cục Viễn Đông, tham dự Hội nghị 7 QTCS với tư cách quan sát viên, không được quyền phát biểu, chỉ lẳng lặng ngồi một bên nh́n thế sự. Rơ ràng là, trong thời gian NAQ và NTMK có quan hệ thân mật, người ta đă dự liệu sẵn một kế hoạch nào đó. NAQ cùng một lúc bị tước quyền lănh đạo Đảng và mất vợ. Chuyện đúng sai khoan hăy bàn, nhưng khi nghe một nhà phân tích nhận định ông “bị hai lần tủi nhục” th́ bản thân người đọc cũng thấy bất b́nh.
Lời bàn:
NAQ, bí danh P.C.Lin, đến Hội nghị 7 QTCS với tư cách quan sát viên, không được phát biểu, từ đầu đến cuối chỉ lẳng lặng ngồi nghe các đồng chí của ḿnh đăng đàn, trái ngược hẳn với Hội nghị lần thứ 5. Khi ấy, NAQ lấy danh nghĩa QTCS, vận động các nguyên thủ quốc gia, một ḿnh thượng đài, ra sức tranh thủ diễn đàn phát biểu chính kiến, thật là có sự khác nhau giữa hai người. Như trên đă nói, hiện tượng rất không b́nh thường trên chỉ có thể giải thích hợp lư nhất là, người tham dự Hội nghị 7 QTCS năm 1935 không phải Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương mang bí danh P.C.Lin.
3/ NAQ lấy bí danh P.C.Lin trong thời gian làm việc tại Viện Nghiên Cứu “Các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Thời gian ấy, NTMK và năm học viên đang học trong trường Đại học Phương Đông. Trong những ngày diễn ra Hội nghị 7 QTCS, NAQ đă tận t́nh giúp đỡ sửa chữa, biên tập văn bản tham luận Hội nghị, góp phần làm cho Đoàn đại biểu ĐCSĐD hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc làm cho LHP và NTMK thật sự cảm động.
Sau khi tổ chức hôn lễ, công việc của LHP vô cùng bận rộn, một trong số đó là lập kế hoạch trù bị cho Đại hội Thanh niên Cộng sản Quốc tế làn thứ 6, đồng thời đề cử NTMK tham gia với tư cách đại biểu của phụ nữ của ĐCSĐD. NAQ được mời làm đại biểu dự thính. Ngày bế mạc, Đại hội tuyên bố, ĐCSĐD chính thức trở thành một chi bộ của QTCS. LHP được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành QTCS. Trong buổi liên hoan giữa Đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp (ĐCSP) và Đoàn đại biểu ĐCSĐD, NTMK và LHP cùng song ca một bài do LHP viết nhạc, NTMK đặt lời. (Nguyệt Tú, “Chị Minh Khai”, trang 76, 82,83, 89 và 90).
Lời bàn:
Cuốn sách “Chị Minh Khai” của Nguyệt Tú luôn luôn ẩn giấu mối quan hệ hôn nhân của NAQ và NTMK, đồng thời tô vẽ mối t́nh giữa LHP và NTMK. Tuy nhiên sự thực lịch sử không giống như lời kể trên. Chuyện rắc rối ở đây là, từ NAQ, LHP (P.C.Lin) đến NTMK, ba người lại có đến bốn thân phận công khai hoạt động. NTMK và LHP biểu hiện mối t́nh nồng thắm, với NAQ (P.C.Lin), hai người kính trọng như khách, xem ra rất hợp lư. Rốt cuộc, P.C.Lin này chính là Hồ Tập Chương cùng NTMK đến Mạc Tư Khoa xem như mới quen biết nhau nên tỏ thái độ kính trọng là hợp lẽ. Với NAQ, NTMK ngoài t́nh đồng chí c̣n là t́nh nghĩa vợ chồng cao đẹp, một người cộng sản như NTMK không thể cầm tay LHP cùng vui vẻ song ca ngay trước mặt ông chồng đáng kính, bởi hành vi ấy chính là làm nhục NAQ…
(C̣n tiếp)
© Thông Luận 2010 Ngày: 26/12/2010
Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
[B]Giao chỉ quận Vương HCM và Hậu cung
Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng – Lâm Y Lan tiểu thư[/B]
Hồ sơ về mối t́nh Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
Chuyện t́nh của HCM và Lâm Y Lan chủ yếu căn cứ vào ghi chép của Lương Ích Tân qua bài viết “Mối t́nh nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Lương Văn Nguyên viết “Thế giới lịch sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc” năm 2004, đăng trên Nguyệt san “Nhân Dân Văn Trích”, kỳ 12, dài khoảng ba ngàn ba trăm chữ, là bài viết muộn nhất cung cấp cho bạn đọc tư liệu về chuyện t́nh ái của Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết, từng đoạn, từng đoạn kể về cuộc t́nh của Hồ Chí Minh (HCM) với Lâm Y Lan (LYL). Nội dung tác phẩm được thể hiện qua nhiều chi tiết khá lư thú, làm xúc động ḷng người. Chỉ tiếc, các sử liệu được vận dụng, chỗ th́ lắp ghép một cách khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp tŕnh bày nhảy cóc, nhất là đoạn nói về mối t́nh với Nguyễn Thanh Linh trong những năm 1930. Việc làm này dường như tác giả có ư đồ tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc, đồng nhất hai người làm một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên thực tế, Nguyễn Thanh Linh chỉ là nhân vật hư cấu. William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh”, chương 5 “Quyết chiến tối tiền tuyến”(…), trang 554- 555, có những chi tiết tương đồng với các tư liệu báo chí đă công bố. Từ đó có thể khẳng định, mối t́nh của HCM và LYL là có thực.
Mối t́nh của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
Từ những năm 30 của thế kỷ trước, để tạo điều kiện cho Hồ Chí Minh công tác tại Quảng Đông, Hương Cảng, Trung Cộng đă bố trí một thiếu nữ là Lâm Y Lan đóng giả làm vợ để giúp đỡ việc sinh hoạt hàng ngày cho ông ta. Không lâu sau, hai người có t́nh ư với nhau. nhưng đó là thời kỳ năm 1938 đầy sóng gió, nên cuối cùng mối quan hệ luyến ái này không đi đến hôn nhân. LYL hoài niệm về mối t́nh xưa, nhớ thương HCM, lâu ngày không biết c̣n sống hay đă chết, sức khỏe suy giảm rồi qua đời vào năm 1968. HCM biết tin, vô cùng đau khổ, một năm sau cũng tạ thế. Lúc hấp hối ông có nhắc đến tên LYL.
Lời đầu (Dẫn tử)
Mùa đông, Mạc Tư Khoa tuyết rơi không ngừng. HCM ở một ga xe bên sườn núi ngoại thành, dầm ḿnh trong cái lạnh khốc liệt của tiết trời băng giá, nước mắt lă chă rơi thấm ướt cả lá thư. Bức thư báo tin dữ, người bạn gái thân thiết Nguyễn Thanh Linh (NTL) vừa bị giặc sát hại. Ông nghĩ đấy không phải là sự thật, mắt trừng trừng nh́n vào ḍng chữ, đọc đi đọc lại nhiều lần từng chữ một. Không sai, thư viết rất rơ ràng, NTL đă bị ngộ hại tại VN.
Bạn gái Nguyễn Thanh Linh bị sát hại
HCM và NTL bắt đầu quen nhau vào mùa xuân năm 1930. Năm ấy HCM đang bôn ba hải ngoại t́m chân lư cách mạng, trên đường về Việt Nam ngẫu nhiên gặp NTL. NTL chẳng để ư đến việc gia đ́nh phản đối, kiên quyết hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, truyền bá ngọn lửa cách mạng, trở thành người bạn thân thiết và trợ thủ đắc lực của HCM. Tại Việt Nam, NTL vận động giới phụ nữ tham gia đấu tranh chống thực dân, đế quốc áp bức bóc lột, trở thành một cán bộ đảng rất có uy tín. Thời kỳ HCM sang Liên Xô học tập kinh nghiệm cách mạng, do bị một kẻ phản bội khai báo, NTL chẳng may bị địch bắt. Đối mặt với những dụ dỗ, truy bức, cô vẫn kiên trinh bất khuất, đến chết vẫn không chịu cúi đầu. Cuối năm ấy, trong cuộc họp VNTNCMĐCH của lưu học sinh Việt Nam, HCM tuyên bố trước mọi người: “Đồng chí Nguyễn Thanh Linh đă hy sinh anh dũng nhưng đồng chí vẫn sống măi trong ḷng chúng ta. Ḍng máu đỏ của đồng chí không chảy phí hoài mà nó càng tô thắm ngọn cờ giải phóng dân tộc. Tôi tuyên bố với thể giới, một khi nước Việt Nam chưa được giải phóng th́ đời này, kiếp này sẽ không xây dựng gia đ́nh”. HCM không thể ngờ, câu nói trên lại ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân sau này. Nó giống như trái núi lớn đè nặng lên tâm lư, không thể chống đỡ làm ông đau khổ cho đến lúc qua đời.
Trốn tránh truy bắt, ẩn ḿnh ở Quảng Châu
Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc Dân Đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. HCM lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đă mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này th́ khác, HCM bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ c̣n cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông – Đào Chú đă bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ HCM để bảo vệ an toàn cho ông ta. Khi ấy HCM trở về nhà trọ thu xếp hành lư t́m đến nơi ở mới. Vừa vào đến cửa ông sững lại bởi cô gái đứng trước ḿnh có khuôn mặt hao hao giống Nguyễn Thanh Linh, người yêu của ḿnh đă bị địch xử tử năm nào. Cô gái không biết làm cách nào giải thích cho đối phương mà chỉ hỏi: “Ông là HCM tiên sinh phải không? Tôi họ Lâm, thường gọi là Lâm Y Lan”. HCM biết ḿnh nhận lầm người, vội nói: “Xin lỗi cô Lâm, tôi lầm”.
Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh
Sau đó, HCM từ từ kể lại mối t́nh mười năm với NTL gợi đến niềm tâm sự, nước mắt bỗng nhiên trào ra. LYL nghe tâm sự, bất giác cũng cảm như ḿnh lâm vào cảnh ngộ ấy, trong ḷng vô cùng cảm động. Tiếp đó, Tỉnh ủy Quảng Đông thông báo với HCM hiện tại Hương Cảng rất phức tạp, đặc vụ Quốc Dân Đảng có mặt khắp nơi, không có việc ǵ chúng không dám làm, nên dặn đi dặn lại LYL phải bảo vệ HCM an toàn. Lúc ấy, Đào Chú nửa đùa nửa thật bảo: “Các bạn nên nhớ, đến một ngày hai “vợ chồng” trăm tuổi, Y Lan tuyệt đối không được bỏ rơi “phu quân” mà không quản lư đấy nhé”, làm LYL, vốn là một tiểu thư chưa chồng, hai má đỏ lựng. Lấy danh nghĩa người “vợ”, LYL chăm sóc HCM trong sinh hoạt thường ngày vô cùng tận t́nh, chu đáo làm cho HCM đặc biệt cảm kích, đă có lúc muốn thổ lộ t́nh cảm, nhưng v́ thời cơ chưa chín muồi nên trong ḷng vẫn trù trừ. LYL thấy HCM nói với ḿnh những lời chân thành, thâm tâm đă có phần ưng ư, nhưng v́ là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Lúc chia tay, HCM ôm lấy LYL, dùng khăn tay lau nước mắt cho cô: “Hăy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi lấy quyển nhật kư đưa cho LYL: “Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng đi với em”.
Trong hoạn nạn thấy sự chân thành
Ba ngày sau khi HCM được cứu thoát, LYL nh́n đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của ông, hỏi: “Chí Minh, sao không đợi tôi đến đón?”. HCM nói: “Tôi nghĩ, càng về nhanh càng chóng được gặp muội”. Nói rồi HCM đưa cho LYL một nhành hoa lan: “Xin tặng muội, chúc mọi sự vui vẻ”. Thấy LYL có vẻ bối rối, HCM lại nói: “Muội đă đọc nhật kư chưa? Ḷng tôi luôn tin tưởng hoa lan không bao giờ bị héo”. LYL nhận hoa, không nén được t́nh cảm, ngă vào ḷng HCM.
Những năm 50 của thế kỷ XX, Trung Quốc đại lục đă được giải phóng, lúc này LYL là cán bộ cao cấp của Tỉnh ủy Quảng Đông. HCM trở về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng chưa hoàn thành. Bấy giờ, Đào Chú là Bí thư Trung ương Cục Hoa Nam kiêm Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, thấy LYL vẫn sống cô đơn đă đứng ra làm mối vài đám nhưng lần nào cũng bị cô khéo léo từ chối. Lúc ấy Đào Chú không hiểu tâm trạng LYL, sau nhiều lần cân nhắc, cuối cùng ông hỏi thẳng cô ta: “Giấy không bọc được lửa, hơn nữa, việc này cũng chẳng có ǵ là bí mật. Nói thật đi, người ấy là ai?” LYL thong thả bảo: “Hồ Chí Minh”. Đào Chú nghe xong thất kinh, măi một lúc sau mới hỏi lại: “Chủ tịch ĐCSVN Hồ Chí Minh? Ông ta yêu cô phải không?”. LYL gật đầu: “Hồ Chí Minh nói là tôi hăy đợi ông ấy”. Nghe xong, Đào Chú tự trách ḿnh: “Ôi chao! Chỉ tại ngày ấy tôi hồ đồ giao nhiệm vụ cho cô, nào ngờ dẫn đến chuyện hai người ở hai phương trời thương nhớ lẫn nhau…”
Không di lưỡng đại tương tư
LYL vẻ mặt rạng rỡ hạnh phúc, cười khẽ: “Việc này không thể trách đồng chí. Tôi và HCM hai người đă dốc ḷng cùng nhau, hồng nhạn đưa tin, thế nào cũng có ngày tái ngộ. Huống hồ, t́nh cảm của hai người đă là vĩnh cửu, há đâu phải một sớm một chiều (Lưỡng t́nh nhược thị trường cửu thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ). Tôi tin tưởng t́nh yêu qua thời gian đă được thử thách”. Đào Chú chỉ biết xoa tay. Ông đă rơ chuyện, chỉ đợi xem t́nh huống phía Việt Nam. Mối nhân duyên này, có thể nói, sự thành công là không dám chắc. Ông hiểu rơ ḿnh gánh trọng trách, hơi thiếu cẩn trọng, rất có thể sẽ gây nên bi kịch di hận ngàn thu.
Dịp may đă đến. Đó là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch HCM vào ít năm sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu Mao Trạch Đông sắp xếp cho ông và nữ cố nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập tức gọi điện cho Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông – Đào Chú, LYL và những Ủy viên Thường vụ khác về Bắc Kinh. LYL nhận được tin báo vui mừng đến phát cuồng. HCM kết thúc chuyến thăm Trung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên ông nh́n thấy LYL vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên lời. Hai người nh́n nhau rất lâu, ḷng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước lúc phi cơ khởi tŕnh, LYL lấy cuốn nhật kư ngày nào đưa trả lại HCM, nhẹ nhàng bảo: “Không có anh bên cạnh, lâu rồi tôi không ghi nhật kư, xin gửi lại anh”.
Ủy thác Đào Chú làm mối
Vào một ngày đẹp trời năm 1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông già lặng lẽ buông cần câu. Họ chính là HCM và Đào Chú. Lúc ấy HCM thần sắc có vẻ khác thường, trịnh trọng nói với Đào Chú: “TQ có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và LYL biết nhau đă hơn hai mươi năm, v́ sự nghiệp cách mạng đành tạm gác t́nh riêng. Đến nay chúng tôi cũng đă có tuổi, muốn đón LYL sang Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa ư nguyện từ những năm trước”. Sau khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo sự việc với Trung ương ĐCSTQ. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ư nguyện của HCM đến Tổng lư Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng Quốc vụ viện, các vị lănh đạo đều vô cùng kinh ngạc.
Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ
Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nói cho cùng, chính là chúng ta đề xướng ra đoạn t́nh duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng nguyện vọng của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.
Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam
Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên là các Ủy viên Bộ Chính Trị. Sự việc được đưa ra nhưng mọi người đều im lặng không nói. Cuối cùng HCM đập bàn, đứng lên: “Tôi chịu đựng đủ rồi. Thật t́nh tôi không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có quyền quyết định việc riêng của ḿnh, v́ vậy, đề nghị các đồng chí không nên thuyết phục nữa”. Lê Duẩn tuy bất b́nh nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn b́nh tĩnh nói: “Thưa Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân nhắc kỹ rồi hăy hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là v́ lo cho Bác. Bác từng nói ‘Việt Nam chưa giải phóng th́ đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đ́nh’. Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn. Một khi Bác làm trái lời thề th́ ư nghĩa của sự nghiệp thần thánh Giải phóng miền Nam cũng như uy tín ‘cha già dân tộc’ của Bác sẽ bị tổn thương, không những thế uy tín của Đảng ta trước phe XHCN cũng như cộng đồng quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê Duẩn vô cùng mâu thuẫn, ông ta không muốn ép HCM, nhưng v́ ở cương vị Bí thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.
Thiểu số phục tùng đa số
HCM thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào hạnh phúc riêng tư của ḿnh, không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng đa số, đề nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt nh́n sang hai bên. Ư kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn ngồi im. Mọi người đều chăm chú theo dơi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy Lê Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ thơng xuống, thở dài nói: “Tôi không thể làm mất uy tín của Bác”. Điều làm Lê Duẩn giật ḿnh là, HCM không nổi trận lôi đ́nh, trái lại, ông chỉ cười nhạt rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.
Bi kịch t́nh yêu kết thúc
Tại bệnh viện Quảng Châu, LYL trông ngóng HCM nhưng chỉ nhận được bức thư vài ḍng ngắn ngủi: “Y Lan thân mến! Chúng ta vô duyên không thể tái hợp. Muội đă nghe nói đến t́nh yêu theo kiểu Platonic chưa? Tuy không được ở bên nhau nhưng tâm hồn hai ta măi măi dung ḥa nhất thể”. LYL cầm lá thư ném xuống bệ cửa sổ, nh́n theo lá thư vờn bay theo gió, hai ḍng lệ lă chă tuôn rơi. Sau đó LYL viết thư hồi đáp HCM, trong thư, bà sử dụng hai câu trong “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị:
“Trên trời xin làm chim chắp cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành; Trời cao đất dày rồi cũng tận, t́nh này vĩnh viễn măi không nguôi”.
(Tại thiên nguyện vi tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lư chi; Thiên trường địa cửu hữu tận thời, thử t́nh miên miên vô tuyệt kỳ).
Bà chuyển chữ “hận” cải thành chữ “t́nh” để chứng tỏ tấm ḷng thủy chung như nhất của ḿnh đối với HCM. Bức thư bất đắc dĩ của HCM là một đ̣n nặng nề đánh vào tinh thần LYL khiến bà bị suy sụp rồi mắc trọng bệnh, năm 1968 th́ qua đời. HCM nghe tin người yêu mất th́ vô cùng ân hận và thương cảm. Sau đấy một năm, vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, lúc hừng đông, HCM bỗng nhiên thở dài, lúc hấp hối ông đă gọi tên Lâm Y Lan.
Trở lên là câu chuyện t́nh của HCM và LYL. Chuyện ly này là do Lương Ích Tân viết trong tác phẩm “Mối t́nh nồng cháy của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”.
Sự thật về mối t́nh của Lâm Y Lan
Trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 554-555, William J.Duiker viết: “Tháng 8 năm 1965, Đào Chú thăm Hà Nội, HCM có nhờ ông làm mối cho một phụ nữ trẻ, người Quảng Đông trước đây từng quen biết nhau. Khi trở lại Trung Quốc, Đào Chú báo cáo với Chu Ân Lai lời thỉnh cầu trên. Chu Ân Lai bèn cùng với lănh đạo Bắc Việt thương thảo việc này nhưng cuối cùng không có kết quả”. William J. Duiker viết đoạn này, nếu đem đối chiếu với các bài “Mối t́nh nồng cháy của HCM và LYL”; “Ủy thác Đào Chú làm mối”; “Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam”v.v. th́ các chương mục gần như có nội dung thống nhất. Chi tiết Hồ Chí Minh yêu cầu Đào Chú tác thành với một người phụ nữ Quảng Đông để làm bạn là xác thực với những sự việc báo chí dă đưa tin. William J.Duiker viết tại chương này: (Hán văn trang 668) chỉ rơ nguồn gốc là “Chu Đào chi mê” của tác giả Quách Trinh, đăng tải trên tạp chí “Văn học Quân sự Tây Nam”, kỳ 72, Thành Đô 1995. Trong phần chú giải phụ thêm, William J. Duiker có một đoạn như sau: “Từ Cách mạng Văn hóa cho đến lúc trước khi bị thanh toán là lănh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông. Bà và HCM trước đây từng rất thân thiết nhau. Tôi căn cứ vào văn bản suy đoán, sự kiện này xảy ra vào mùa xuân hoặc mùa hạ năm 1966”.
Trong bài viết “Mối t́nh nồng cháy giữa HCM và Lâm Y Lan”, ở phần “Trốn tránh truy bắt, ẩn ḿnh ở Quảng Châu”, có đoạn: “Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc Dân Đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. HCM lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đă mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này th́ khác, HCM bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ c̣n cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông – Đào Chú đă bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ HCM để bảo vệ an toàn cho ông ta”. Ở mục: Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ Hồ Chí Minh” và “Trong hoạn nạn thấy sự chân thành” đều có viết: “Không lâu sau, do một kẻ phản bội khai báo, HCM bị bắt nhưng ba ngày sau lại được cứu thoát”.
Những phần ghi chép trên nói rơ là, vào đầu năm 1930, HCM đúng là bị bắt ở Quảng Châu. Đối chiếu với “Hồi ức Trịnh Siêu Lân” về sự kiện HCM bị bắt ở Quảng Châu vào năm 1931, đồng thời so sánh với bài viết “Hồ Tập Chương, đến từ Miêu Lật – Đài Loan bị bắt ở Quảng Châu, giam tại nhà ngục Nam Thạch Đầu” trên “Đài Loan Nhật Nhật Tân Báo” th́ thấy rất rơ ràng, nhân vật nam chính trong bài “Mối t́nh nồng cháy giữa HCM và LYL” chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật – Đài Loan. [Xem lại Thiên III “Ve sầu lột xác, thật giả kiếp người” (Kim thiền thoát xác chân giả nhân sinh), “Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Châu”, và Thiên IV “Những năm tháng phiêu bạt” (Phiêu bạt lưu lăng đích tuế nguyệt) đăng tải trên “Đài Loan Nhật Nhật Tân Báo”.]
Theo nhận định của William J. Duiker, các bài viết “Nhờ Đào Chú làm mối” và “Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ” của tác giả Lương Văn là xác thực. Nh́n lại cuộc đời hoạt động chính trị thăng trầm của Đào Chú cũng có thể gián tiếp khẳng định, Chu Đào và LYL là một người. Đào Chú lănh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông từ mùa xuân năm 1951 đến năm 1966, từng là “phong cương đại lại” rồi nhảy nhanh lên Ủy viên Bộ Chính Trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, Bộ trưởng Tuyên truyền, Cố vấn Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa, thứ bậc chỉ xếp sau Mao, Lâm, Chu, ngồi ghế thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính Trị, có thể nói vận số vô cùng hanh thông. Thế nhưng, tai vạ bỗng đâu ập đến, trong Đại Cách mạng Văn hóa, Đào Chú bị “Lũ bốn tên” vu cáo thuộc phe “bảo hoàng”. Chúng xúi giục Hồng Vệ Binh đấu tố, hạ nhục ông cho đến lúc thân tàn ma dại rồi chết một cách tức tưởi vào ngày 30 tháng 11 năm 1969. Cùng thời kỳ sóng gió ấy, Chu Đào bị hạ phóng ra biên giới Tây Nam.
Theo nội dung các bài “Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam” và “Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh không nhỏ”, có thể thấy một sự thực là, Đảng Cộng sản Việt Nam đă sử dụng câu nói ‘Một ngày đất nước chưa độc lập, tôi quyết không kết hôn’ làm cái cớ gây áp lực mạnh lên ư nguyện xây dựng gia đ́nh của Hồ Chí Minh.
(C̣n tiếp)
© Thông Luận 2010 Ngày: 27/12/2010