Phần 2. Chương 17C (tiếp theo)
[B]
[CENTER] [/CENTER]
[/B]Đảng cộng sản Yougoslave cũng đả chịu quá nhiều đau khổ do các cuộc khũng bố của Staline ra lịnh. Năm 1921 đảng cộngsản này đả chính thức bị cấm hoạt động, các đảng viên thọat đầu di tản sang Vienna vào các năm từ 1921 đến 1936, rồi sang Paris từ năm 1936 đến 1939. Nhưng một số đông đảng viên đả chạy qua moscou vào năm 1925 và nơi đây được coi là trung tâm. Họ là các học viên trường đại học của các dân thiểusố cộng sản, của trường Quốc tế chính sách Lénine, và của trường Đại học cộng sản Serdlov.Đến năm 1929, vị vua Yougoslave la Alexandre thiết lập chế độ độc tài, lại thêm một lớp mới dân Yougoslave chạy qua sô-viết, tăng cường thêm số người Yougoslave đả sống tại đây. Trong các năm của thập niên 1930, tại liên bang sô-viết đả có từ 200 đến 300 người dân Yougoslave sinh sống và là các cán bộ của cơ quan Komintern, hay trong các tổ chức quốc tế khác và rieng cho tổ chức thanh niên cộng sản Quốc tế. Lẽ dĩ nhiên các tổ chức này đưu do đảng cộng sản sô-viết thống nhứt lănh đạo. Các người cộng sản Yougoslave viết tắt là PCY. Trong nhiều trường hợp đả phải có sự can thiệp của tổ chức Komintern vào các cuộc tranh giành, các cuộc can thiệp đả thường xuyên diễn ra và nhiều khi có tính cách cưỡng bức. Vào giữa năm 1925 đả diễn ra một cuộc liễm soát - khai trừ ( tên gọi là Tchistka ) ở trong tổ chức KUMMZ, các học viên của trường Đại học này có khuynh hướng thiên về phía các người thuộc nhóm Công giáo chống đối. Opposition Ouvrière, chống lại viện trưởng làb Maria J. Fzoukina. Vài người học viên đả bị đuổi ra khỏi trường và bị khiển trách, có bố người trong số này đả bị bắt giam ( Ante , Ciliga, Dedic, và Eberling đả bị bắt và đưa đi đày tại Sibérie ). Đến năm 1932, lại xảy ra một cuộc thanh trừng trong đảng PCY và 16 người lănh tụ khác đả bị khai trừ.
Sau khi Kirov bị ám sát, việc kiễm soát các người dân thuộc nước ngoài trên b́nh diện chính trị đả được tăng cường vào mùa Thu năm 1936. Các người lănh tụ của PCY đều phải chịu sự kiễm thật ( vérification ) trước khi họ chịu sự khủng bố. Khác với số phận các người công nhơn vô danh, số phận của các người di dân thuộc diện chính trị đả cho biết rỏ : 8 người thư kư của ũy ban trung ương PCY, và 15 thành viên của ũy ban trung ương củng 21 người thư kư thuộc các phân bộ địa phương đả bị bắt và cùng mất tích tất cả. Một trong những người thư kư tên Sima Marksvitch, đang phục vụ tại Viện Hàn Lâm Khoa Học, người này bị bắt buộc phải di cư sang Nga sô viết, đả bị bắt vào thábg 7 năm 1939, đả bị kết án 10 năm tù giam không có quyền lien lạc với bất cứ một ai và y đả chết trong tù. Các người khác sau khi bị bắt đả bị hành quyết liền như trường hợp của hai anh em Vujovic, Radimir là thành viên của ũy ban trung ương PCY và Gregor thành viên của ũy ban trung ương quốc tế ; các em của họ là Voja cựu thành viên trách nhiệm của thanh niên quốc tế cộng sản đả liên đới với Troski vào năm 1927 đả biệt tích và làm cho các em củay củng bị bắt giam.Milan gorkic, thơ kư của ũy ban trung ương đảng PCY từ năm 1932 đến năm 1937 đả bị buộc tội tổ chức một toán người chống lại sô viết trong ḷng quốc tế cộngsản và đả lănh đạo một nhóm người khủng bố ở trong ḷng của tổ chức Komintern , tổ chức khủng bố này do ông Knorin và Piatnitski chỉ huy. Vào giữa năm 1960, PCY đả phục hồi danh dự cho cả hơn hàng trăm người nạn nhơn nhưng không có làm một cuộc điều tra nào. Lẽ dỉ nhiên là các cuộc điều tra này, nếu có sẽ đặc ra vấn dề gián tiếp cho các người đả là nạn nhơn của các cuộc đàn áp dùng để nhắm vào các người thân Nga sô viết xảy ra tại Yougoslavie sau cuộc ly khai giữa Yougoslavie và Liên bang sô viết vào năm 1948. Nhưng lại đưa ra ánh sáng vấn đề nhứt nhối là việc Tito (Josip Broz) lên làm chũ tịch đảng vào năm 1938 đả diễn ra sau một cuộc thanh trừng đẫm máu. Truyện xảy ra khi Tito chống lại Staline , đả không làm bớt được trách nhiệm của Tito trong các cuộc thanh trừng diển ra vào các năm 1930, diễ ra trong đảng PCY.
Cuộc săn bắt các người trốt kít
Sau khi đả tàn sát các người cộng sản sống trên đất Nga sô-viết, Staline khởi cuộc tấn công các người cộng sản ly khai sống ở các nước ngoài. Và đây chỉ là dịp để cơ quan NKVD phô trương quyền lực của họ trên khắp thế giới.
Trường hợp điễn h́nh và ngoạn mục là của Ignaz Reiss, tên thật là Nathan Poretski. Reiss là một người Do thái trẻ tuổi làm cách mạng từ lúc chiến tranh 1914-1918 c̣n đang diễn ra, như ở Trung Âu đả từng xảy ra, tổ chức Komintern đả tuyễn mộ các người cách mạng trẻ tuổi. Là một người khuấy rối chuyên nghiệp ( agitateur professionnel ) Reis phục vụ trong các hệ thống bí mật quốc tế và đả hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà y được giao phó và y đả được tặng huy chương Cờ Đỏ vào năm 1928 . Sau năm 1935, y được cơ quan NKVD chiếu cố v́ cơ quan này được bổ nhiệm kiễm soát tất cả các bí mật ở các nước ngoài cùng với nhiệm vụ về gián điệp ở nước Đức. Cuộc xữ án đầu tiên ở Moscou đả làm đảo lộn tinh thần của Reiss và y quyết định cắt đứt liên hệ cảm t́nh với Staline.
Hiểu rỏ nội bộ cùng đường lối xử sự và các mánh khóe của cộng sản, Reiss đả chuẩn bị chu đáo cuộc đào tẩu của y và ngày 17 tháng 7 năm 1937, y cho công khai công bố bức thư của y gởi cho ũy ban đảng cộng sản Nga thống nhất. Trong bức thư y đả giải thích và nêu danh đích danh Staline và chủ nghĩa Stalinis mà y gọi là lợi dụng một cách tồi tệ các cơ hội chũ nghĩa , mà nơi đó các cơ hội chủ nghĩa này không có mộ nguyên tắc hành sự ; chỉ biết làm đổ máu, thực hiện các lời nói láo, và với các việc này sẽ đầu độc toàn thế giới, sẽ đưa đến việc tiêu diệt các phong trào công nhơn . Reiss củng đ̣ng thời cho biết là ysẽ gia nhập vào hàng ngũ của Léon Trotski. Như vậy là Reiss đả không ngờ là y tự kư vào lịnh tử h́nh đối với y. Cơ quan NKVD, lập tức huy động mạng lưới bí mật của cơ quan này tại Pháp và đả t́m ra chổ Reiss đang ở tại Thụysĩ và gài bẩy để hạ sát Reiss. Tại Lausanne buổi tối ngày 4 tháng 9 nam 1937, hai đảng viên người Pháp đả bắn chết Reiss, trong lúc đó một nữ nhơn viên NKVD toan tính ám sát vợ và đứa con trai của Reiss bằng cách đem biếu họ một hộp sô-cô-la (chocolat) có tẫm thuốc độc. Mặc dầu với các việc điều tra cần mẫn của cơ quan công an Pháp và Thụy sĩ đều không t́m ra được hai tên sát nhân và người nữ nhơn viên hầu có thể truy tố họ được. Trtoski đả tố cáo Jacques Duclos lúc ấy là một trong các người thơ kư của đảng cộng sản Pháp (PCF) và yêu cầu người thư kư riêng của ḿnh là Jan van Heijenoort gởi một bức điện thư cho thủ tướng Pháp : Chantemps, chủ tịch hội đ̣ng bộ trưởng, trong vụ ám st Ignaz Reiss, / Ăn trộm các văn khố của tôi và các tội ác tương tự, tôi xin phép nhấn mạnh phải hỏi cung, hay ít nửa là như nhân chứng Jacques Duclos, phó chủ tịch của pḥng các dân biểu và là nhơn viên kỳ cựu của cơ quan Guépou . Bùc điện văn này không đạt được một cách quả nào và Jacques Duclos là phó chủ tịch pḥng các dân biểu từ năm 1936.
Vụ ám sát Reiss lẽ dỉ nhiên là ngoạn mục và năm trong một kế hoạch rộng lớn để thu tiêu các người Trốt kít. V́ vậy không lấy ǵ làm ngạc nhiên về việc tàn sát các người thuộc phe trốt kít ở Nga cũng như việc tàn sát các người khác. Việc làm ngạc nhiên mọi người là dù ở các nước ngoài, các cơ quan đặcbiệt của NKVD ở các nước ngoài đả sốt cuồng lên (avec hargne) để thủ tiêu các người đối lập, hay là các người theo phe trốt kít được thành lập tại các nước này. Căn bản của công tác này là việc kiên nhẩn để xâm nhập (infiltration) vào các nhóm trốt kít này. Tháng 7 năm 1937, vị lănh tụ chịu trách nhiệm của văn pḥng đối lập trốt kít quốc tế tên là Rudolf Klément đả mất tích. Ngày 28 tháng 8 người ta khám phá ra một tử thi cục đầu và tay chân, nổi lên trên sông Sein gần Paris, và người ta đả nhận diện được là Klement. Người con trai của Trotski, tên là Leon Sedov, đả chết ở Paris sau khi chịu một cuộc giải phẩu ; các điểu kiện về cái chết này có nhiều điều đáng nghi ngờ và thơn nhân của kẻ quá cố đả nghĩ đây là một vụ ám sát do các cơ quan đặcbiệt của Nga sô viết đả tổ chức khéo léo. Trái lại trong cuốn hồi kư của Pavel Soudsplatov đả ghi là không hề có việc này. Nhưng việc được xác nhận là Léon Sedov đả bị đặt dưới sự theo dỏi chặt chẻ (surveillance) của cơ quan NKVD. Một người thân cận của Sedov, tên là Mark Zborowski, là một nhơn viên của cơ quan NKVD được phái xâm nhập vào số các người thân cận Sedov.
Ngược lại, Soudoplatov đả nh́n nhận là vào tháng 3 năm 1939, chính Béria và Staline đả ra lịnh ám sát , củng chính Staline cùng với Soudoplatov lo phụ trách việc này. Staline đả nói với y : Phải thanh toán y nội trong năm nay trước khi chiến tranh xảy ra, việc chiến tranh xảy ra là một việc không thể tránh được và c̣n thêm : ( đồng chí sẽ tùy thuộc vào Béria và không người nào khác, vậy đồng chí chịu hoàn toàn trách nhiệm về nhiệm vụ này ). Một cuộc lùng bắt tàn nhẩn đả diễn ra và đưa đến Mexico, là nơi người lănh tụ của phong trào của Đệ Tứ Quốc Tế đang cư ngụ, sau khi người này đả bôn tẩu qua các nơi như Paris, Bruxelle và Mỹ quốc. Với sự đ̣ng lỏa của đảng cộng sản Mexico, các nhơn viên của Soudsplatov sữa soạn và thi hành một cuộc mưu sát đầu tiên vào ngày 24 tháng 5 mà Trotski đả thoát được cuộc mưu sát này và coi như là một phép lạ ( micracle ).
Với sự xâm nhập vào giới thân cận của Trotski, tên Ramon Mercader, một tên giả của người nhơn viên của Soudsplatov để t́m cách trừ bỏ Trotski. Mercader đả lần lần gây được ḷng tin của một người nữ lănh tụ trốt kít và đả đến gần được ông Già . V́ ít nghi ngờ, Trostki đả chấp nhận cho tên này gặp theo lời yêu cầu của hắn v́ hắn muốn xin ư kiến của Trotski về một bài viết của hắn để bào chửa cho Strotski, một người cách mạng. Trong lúc Trostki đang ngồi bên bàn giấychú ư đọc bài viết của Mercader th́ tên này đến đứng bên cạnh Trotski và dùng một cái búa nhọn bằng sắt đặp vào đầu Trotski. Bị vết thương quá nặng, Trotski rú lên một tiếng lớn. Vợ của Trotski và các người hộ viên liền chạy ùa vào, c̣n tên Mercader th́ đùng im, hắn đả thành công việc mưu sát. Ngày hôm sau Trotski qua đời.
Louis Aragon - năm 1931
Tiên triệu cho thời hoa anh đào.
Tôi ca tụng cơ quan Guépou đả thành h́nh, ở Pháp vào thời điễm này.
Tôi ca tụng cơ quan Guépou, cần thiết cho nước Pháp.
Tôi ca tụng cho cơ quan ở mọi nơi, và không có tại mọi nơi.
Tôi ca tụng cho cơ quan để chuẩn bị cho kết thúc một xă hội.
Hảy xin cơ quan Guépou để bảo vệ cho các người bị phản bội.
Và để bảo vệ cho các người luôn luôn đả bị phản bội.
Hảy xin một cơ quan Guépou, anh mà người ta đè nén và người ta giết.
Hảy xin một cơ quan Guépou, anh cần có một cơ quan Guépou.
Hoan hô cơ quan Guépou h́nh ảnh của biện chứng pháp của sự anh hùng.
Và người ta có thể chống lại h́nh ảnh của các người phi công ngu độn.
Do các thằng ngu độn là các anh hùng khi chúng không c̣n, cái mơm của chúng xuống đất.
Hoan hô cơ quan Guépou, h́nh ảnh vĩ đại của biện chứng pháp.
Hoan hô cơ quan Guépou chống lại trời Chiappe và bài quốc ca Marseillaise.
Hoan hô cơ quan Guépou chống lại giáo hoàng và các con rận.
Hoan hô cơ quan Guépou chống lại sự nhẫn nhục của các ngân hàng.
Hoan hô cơ quan chống lại các cuộc thao luyện ở hướng Đông.
Hoan hô cơ quan Guépou chống lại gia đ́nh.
Hoan hô cơ quan Guépou chống lại chủ nghĩa xả hội loại của Caballero Boncour và Mac Donald Zoergibel.
Hoan hô cơ quan Guépou chống lại tất cả kẽ thù của giới vô sản.
Hoan hô cơ quan Guépou.
Do Jean Malaquais sao lục. Tên Louis Aragon người yêu nước nhà nghề. Phụ trương của nghuyệt san Các khối quần chúng. Tháng 2 năm 1947.
Việc xâm nhập giữa các đảng cộng sản và các chi bộ thuộc tổ chức Komintern, do cơ quan NKVD chủ động đả bị Trotski tố cáo và ông đả nhận thức là tổ chức Komintern đả bị cơ quan Guépou và NKVD chi phối. Trong văn thư đề ngày 27 tháng 5 năm 1940 gởi cho ông tổng biện lư của nước Merxico, ba ngày sau khi mưu sát hụt Trotski, và ông là nạn nhơn ; ông đả viết : Cơ quan Guépou đả có các truyền thống và các phương pháp đả được tạo dựng ở ngoài lảnh thổ của Liên bang so viết. Cơ quan Guépou cần sự che chở hợp pháp hay bán hợp pháp để tuyển mộ các nhơn viên ; cơ quan này đả t́m được môi trường thuận tiện và sự che chở nơi cái gọi là các đảng cộng sản . Trong bản văn cuối cùng, củng nói về các câu chuyện ở một cuộc mưu sát xảy ra ngày 24 tháng 5, ông đả trở về các chi tiết của hành động này mà ông suưt là nạn nhân. Đối với ông, ông vẩn dùng danh hiệu GPU được chấp nhận năm 1922 khi ông c̣n làm chỉ huy trưởng cơ quan này đó là bộ phận chính quyền lực của Staline và đó củng là công cụ dùng để khủng bố thống trị độc tài ở URSS với một tinh thần toi đ̣i và vô liêm sĩ, tinh thần này đả lan tràn trên toàn tổ chức Komintern và đả đầu độc phong trào các người công nhơn đến tận xương tủy. Ông đả nhấn mạnh rất dài ḍng về chiều hướng đặc biệt này đả quyết định nhiều đến các tầng lớp của các đảng cộng sản. Về phương diện tổ chức, cơ quan GPU và tổ chức Komintern không giống nhau, nhưng họ có sự liên kết không thể nào làm rời nhau ra. Họ dả bị bắt buộc phải lệ thuộc vào nhau, không phải tổ chức Komintern ra lịnh cho GPU mà trái lại cơ quan GPU đả chế ngự hoàn toàn tổ chức Komintern
Việc phân tích này đả dựa vào nhiều nguyên tố hay khái luận là do các thành quả của hai chiến cuộc mà Srotski đả từng sống qua : Thứ nhất, khi c̣n là một trong những người lănh đạo một nhà nước sô-viết đang thành h́nh và thứ hai, khi trở thành một người bị phóng trục ( proscrit ) bị săn đuổi qua mọi nước bởi các nhơn viên của cơ quan NKVD, tên các người này ai cũng đều biết chắc chắn. Vào thời gian này đó là những người chỉ huy các đặc vụ tổ chức này được Nikolai Iejov thành lập vào tháng 12 năm 1936 : Serguei Spiegeglass ( y đả thất bại ) Pavel Soudoplatov ( chết vào năm1996 ) và Naoum Eitingon ( chết vào năm 1918 ) các người này đả thành công nhờ vào các đồng lơa.
Về việc ám sát Trotski xảy ra ngày 20 tháng 8 năm 1940, tất cả các chi tiết đả được các cuộc điều tra cho biết hết và do các cuộc điều tra tại chổ, về sau Julian Gorkin đả tiếp tục cứu sét lại các hồ sơ của các cuộc điều tra đả được thực hành. Hơn nửa người ta đả biết được ai là người chủ chốt (commanditaire) trong vụ này, các nguồn tin đả được công nhận bởi Soudoplato tên sát nhân là Jaime Raimon Mercader, con của Caridad Mercader một người cộng sản phái nữ đả từ lâu làm việc cho tổ chức đặc vụ , và cô này đả trở thành người t́nh của Naoum Eitignon. Tên sát nhân Mercader đội lốt dưới tên Jacques Mornard để t́m cách đến gần Trotski. Tên Jacques Mornard là tên của một người có thiệt, người này ở Belgique và đả từ trần vào năm 1967. Jacques Mornard đả gia nhập trung đoàn quốctế và đả chiến đău bên Espagne. Có thể là giấy thông hành của Mornard đả bị đặc vụ so viet mượn tạm, Mercader c̣n dùng một tên khác là Jacson, người Canada đả chết khi chiến đău tại Espagne củng trong trung đoàn quốc tế và giấy thông hành của y củng để cho Mercader xữ dụng. Ramon Mercader đả chết vào năm 1978 ở La Havane, Fidel Castro đả mời y đến làm việc ở đây với tư cách là cố vấn cho các việc thuộc về bộ nội vụ. Mercader đả được thưởng huân chương cao quư nhất của liên bang so viết và đả được đem chôn ở Moscou trong ṿng kín đáo.
Staline sau khi đả trừ bỏ được đối thủ cuối cùng về chính trị, nhưng không phải v́ vậy mà các cuộc truy lùng các phần tử trốt-kít chấm dứt. Gương mẫu của cộng sản Pháp đả biểu lộ tâm tính trong những phản ứng mà các người lănh tụ cộng sản Pháp đả hấp thụ được để đối phó với các người lănh tụ của các nhóm nhỏ người Trốt-kít.Trong khi nước Pháp bị quân Đức chiếm đóng, có nhiều người trốt-kít Pháp đả bị tố cáo cho công an Pháp hay là cơ quan Gestapo bắt giam họ, việc này là việc có thể xảy ra. Ở trong các khám đường của Pháp và ở trong các trại tập trung thời Vichy, các người Trốt-kít đều bị biệt giam riêng biệt. Tại Nontron thuộc vùng Dordogne, Gérard Bloch đả chịu sự ngược đải bằng cách biệt đải (ostracimes) trong tổng số các người cộng sản Pháp cùng bị giam do sự mưu đồ của Michel Bloch (con của nhà văn Jean Richard Bloch. Sau đó, Gérard Bloch đả được dời qua khám đường ở Eysses, có một thầy giáo phe khán chiến người công giáo bị bắt giam chung đả báo trước cho Gérard Bloch
Nằm trong bối cảnh hận thù mù quán này, vụ mất tích của bốn người trốt-kít trong số này có Pietro Tresso, sáng lập viên đảng cộng sản Italie xảy ra trong khu rừng kháng chiến (maquis) FTP wodli thuộc vùng Haute Loire đả nói lên tất cả ư nghỉa. Họ cùng vượt ngục Puy en Velay ngày 1 tháng 2 năm 1943 cùng với các người bạn cộng sản , năm người đău tranh trốt-kít đả được sự bao quản ( pris en charge) của các người kháng chiến ( maquis) cộng sản. Một trong 5 người này, v́ sự t́nh cờ đả được tách rời ra khỏi nhóm trốt-kít. Tên người này là Albert Demazière và là người mai mắn được sống sót : Tresso, Pierre Salini, Jean Reboul, Abraham Sadek đưu đả bị các người FTP hành quyết vào tháng 10, sau một vụ giả dạng (simulacre) ṭa xữ đáng chú ư. Các người nhơn chứng và các người diễn viên c̣n sống sót đả thuật lại là 4 người đău tranh này đả bị buột tội là toan tính bỏ thuốc độc vào nước uống , một lối tố cáo của thời trung cổ moyen âge và đưa trở lại nguồn gốc Do-thái của Trotski. (Con của Trotski tên là Sergueĩ c̣n ở lại nước Nga cũng bị tố cáo giống như 4 người đău tranh trốt-kít ), và hơn nửa cũng có thêm một người tù của các người kháng chiến gốc Do-thái tên là Abraham Sadeck. Như vậy, phong trào cộng sản đả chứng tọ họ đả không tránh khỏi việc bài Do-thái một cách vụng về. Trước khi họ bị ám sát, bốn người đău tranh trốt-kít đả được chụp h́nh , có lẽ để cho các tổ chức cao cấp của đảng cộng sản Pháp nhận diện và họ bị bắt buộc phải viết bản mô tả tiểu sữ của họ cùng các hoạt động đău tranh.
Trong các trại tập trung, ( camp de concentration ) ở Đức, những người cộng-sản t́m cách tiêu diệt các đối thủ chính trị ở gần họ bằng cách lợi dụng các địa vị mà họ đả đạt được trong hệ thống các nất thang quản trị ( échelle de gestion ) của các trại giam. Ông Marcel Beaufrère người có trách nhiệm tại vùng Bretagne của đảng thợ thuyền quốc tế bị bắt giam vào tháng 10 năm 1943 và đưa đi quatrại Buchenwald vào tháng giêng năm 1944, đả bị nghi ng̣ là người của phe trốt-kít bởi một người cộng sản làm xếp của các liên trại (interblocs) Mười ngày sau, một người bạn báo cho anh biết là tổ cộng sản của trại 39, nơi anh đang ở đả lên án tử h́nh anh và muốn đưa anh qua trại của các người sẽ được làm vật thử nghiệm về y khoa , nơi đây họ sẽ chích vào người anh các vi trùng của bệnh chí rận (typhus). Ông Marcel Beaufrère vào giờ chót đả được các người đău tranh người Đức cứu sống ? Họ chỉ cần xữ dụng phương pháp tập trung của người Đức để trừ bỏ (débarrasser) các đối thủ chính trị, dù là các người này củng là những nạn nhơn của cơ quan Gestapo hay bọn SS , bằng cách gởi các người này đi vào các toán lao động nguy hiễm nhứt (commando). Hai người Marcel Hic và Roland Filatre, cả hai đều bị đưa đi trại Buchenwald và đả bị chuyển qua trại khũng khiếp Dora , với sự ưng thuận của các cán bộ KPD, các cán bộ này đang làm các việc hành chánh ở trong trại. Marcel Hic đả chết tại trại này. Tài liệu của Rodslphe Prager viết trong bài : Các người trốt-kít ở trại Buchenwald in trên nguyệt san phê b́nh cộng sản số 25 tháng 11 năm 1978. C̣n về phần Roland Filatre sống sót và được giải phóng đả trở về đời sống dân sự sau chiến tranh ; nhưng ông vẫn bị theo dỏi và năm 1948 đả thoát được một cuộc mưu sát tại nơi ông làm việc.
Nhiều vụ thủ tiêu các người đău tranh trốt-kít khác đả diễn ra sau khi nước Pháp được giải phóng. Là một người công nhơn trẻ tuổi thuộc nhóm đău tranh giai cấp ở vùng Paris, Mathieu Bucholz đả biệt tích ngày 11 tháng 9 năm 1947, tờ báo của nhóm ông đả nêu lên thủ phạm của cuộc biệt tích này là các người cộng sản thân Staline.
Ở Hy Lạp (Grece) phong trào trốt-kít không có thể nói là không đáng kể. Một người thư kư của đảng cộng sản Hy lạp viết tắt là KKE tên Pandelis Pouliopoulis, đả bị các người lính Italie xữ bắn. Ông này đả gia nhập đảng cộng sản trước khi xảy ra chiến tranh. Khi xảy ra chiến tranh, các người trốt-kít với tư cách cá nhơn, họ dả gia nhập vào hàng ngũ của mật trận giải phóng quốc gia (EAM) thành lập vào năm 1941 bởi các người cộng sản. Tướng Aris Velouchiotis chỉ huy quân đội nhơn dân giải phóng quốc gia (ELAS) đả ra lịnh xữ bắn lối 20 người lănh đạo trốt-kít.Sau ngày giải phóng việc bắt cóc các người đău tranh trốt-kít vẫn được tiếp diễn. Thườn thường họ bị tra tấn để phải khai báo và cho địa chỉ của các đồng chí của họ. Năm 1946, trong bản phúc tŕnh cho uỹ ban trung ương đảng cộng sản Vassilis Bartzistas đả nêu lên con số 600 người trốt-kít đả bị tồ chức OPLA ( tổ chức bảo vệ các cuộc đău tranh b́nh dân) hạ sát. Trong con số 600 người này có thể gồm có người vô chính phủ (anarchistes) hay là các người xă hội ly khai ( các người Archéomarxistes, các người đău tranh được tổ chức ngoái ṿng lệ thuộc của đảng cộng sản Hy lạp và được thành lập từ năm 1924 , các người này cũng bị lùng bắt và ám sát.
Các người cộng sản của nước Albanie cũng không bị bỏ sót. Sau khi đả được thống nhất vào năm 1941, các nhóm tả huynh đả tụ tập chung quanhAnastaste Loula, các nguồn bất đồng chính kiến đả diễn ra giữa các người trốt-kít với các người chính thống ( Enver Hoxha, Memet Chehu ) được sự cố vấn của các người cộng sản Yougoslaves. Trong năm 1943, Loula, đả bị hành quyết đơn giản. Sau nhiều cuộc toan tính mưu sát, Sadik Premtag, và các người lănh đạo trốt-kít khác được sự ủng hộ của dân chúng đả trốn thoát qua nước Pháp ; tháng 5 năm 1951, ông là nạn nhơn của một cuộc mưu sát khác do Djemal Chami tự ra tay, y là một cựu chiến binh của trung đoàn quốc tế và là người của sứ quán Albanie tại Pháp.
Bên Trung-Quốc, một phôi phai (embryon) của phong trào trốt kít được thành lập vào năm 1928 dưới quyền của Chen Duxiu, một người sáng lập và là thư kư của đảng cộng sản Trung-Quốc (viết tắt là PCC) và cùng với các người khác thi hành chung lư tưởng cộng sản. Trong lúc xảy ra chiến tranh với nước Nhựt, một phần các người trốt-kít đả gia nhập vào đội ngũ của Bát lộ quân của Quân đội nhơn dân ( viết tắt là APL). Chính Mao Trạch Đông đả ra lịnh hành quyết các người theo phong trào trốt-kít và thanh toán các tiểu đoàn do các người trốt-kít chỉ huy.Sau khi cuộc nội chiến chấm dứt các người trốt-kít đả bị săn đuổi và giết chết. Số phận của những người này đến nay vẫn không được biết.
Ở Đông dương t́nh thế vào giai đoạn đầu lại khác. Các người trốt-kít thuộc nhóm tranh đău và các người cộng sản cùng có đường lối chung, khởi đầu từ năm 1933. Ảnh hưởng của riêng nhóm trốt-kít ở về phía Nam nói riêng là mạnh. Năm 1937, theo một chỉ thị của Jacque Duclos cấm đảng cộng sản Đông dương tiếp tục cuộc hợp tác với các người trốt-kítthuộc nhóm tranh đău. Trong những tháng sau cuộc đầu hàng của nước Nhật, một chi nhánh của nhóm trốt-kít Liên đoàn cộng-sản quốc tế đả tạo được một ảnh hưởng khá đủ để làm các người lănh đạo cộng-sản lo ngại. Tháng 9 năm 1945, khi quân đội Anh đến Sài-g̣n, Liên đoàn cộng-sản quốc tế ( tên viết tắc là LCJ ) đă kích Mật trận Việt minh ( mật trận dân chủ tranh đău cho độc lập ) về việc đón tiếp ôn ḥa đối với quân đội Anh. Ngày 14 tháng 9, Việt minh mở cuộc tấn công rộng lớn chống lại các cán bộ trốt-kít, nhưng những người này không trả đủa lại. Bị bắt giam, và phần lớn đả bị giết sau đó. Các toán vơ trang của các người yêu nước trong số này có các người trốt-kít, sau khi đả chiến đău chống lại quân đội Anh, Pháp, họ đả rút vào Đồng Tháp Mười và bị các toán vơ trang của Việt-minh đè nát . Qua đến giai đoạn hai : Việt minh quay trở lại chống các người trốt-kít, thuộc nhóm tranh đău, những người bị bắt giam ở gần Bến súc đả bị giết khi quân đội Pháp tiến đến gần nơi đây. Bị bắt sau đó, ông Tạ Thu-Thâu, người lănh đạo lịch sữ của phong trào đả bị giết vào tháng 2 năm 1946 . Chính Hồ Chí Minh đả viết : Các người trốt-kít là các người phản bội, và là các tên gián điệp đê hèn .
Ở nước Tiệp-khắc ( Tchécoslavaquie ), định mệnh của Zavis Kalandra đả tượng trưng riêng cho ông số phận của tất cả các đồng chí của ông. Năm 1936, Kalandra đả bị trục xuất ra khỏi đảng cộng-sản Tiệp ( PCT ), v́ ông đả viết một cuốn sách tố cáo các vụ xữ án ở Moscou. Tham gia vào kháng chiến ông đả bị quân đội Đức bắt giam và đưa đi ở trại Oranienbourg. Ông sống sót và khi chiến tranh chấm dứt, ông được hồi hương. Tháng 11 năm 1949 ông bị bắt và bị buộc tội đả lănh đạo một cuộc âm mưu lật đổ nền cộng ḥa. Ông đả bị tra tấn. Phiên ṭa xữ ông được diễn ra vào tháng 6 năm 1950 ; tại phiên ṭa này, ông đả làm bản tự kiễm thảo ( autocritique ). Ngày 8 tháng 6 năm 1950 ông bị tuyên án tữ h́nh. Trong nhựt báo Trận chiến ( Le Combat ) số ra ngày 14 tháng 6 năm 1950, André Breton, đả nói với Paul Eluard can thiệp cho một người mà cả hai đều biết từ trước chiến tranh. Eluard đả trả lời : Tôi làm đả quá nhiều cho các người vô tội, các người vô tội này đả kêu gào sự vô tội của ḿnh và trước các người thủ phạm họ đả kêu gào sự phạm tội của họ. Zavis Kalandra đả bị hành quyết ngày 27 tháng 6 cùng với 3 đồng chí của ông.
Các người chống phát xít và các người cách mạng ngoại quốc, nạn nhơn của các cuộc khủng bố ở Liên bang Sô-viết
Tồ chức Komintern, với việc tàn sát các người trốt-kít cùng với các người cộng-sản ly-khai không phải là việc duy nhứt mà tổ chức này đả hành động. Vào các năm của thập niên 1930, ở trên lănh thổ Liên Bang Sô Viết có một số đông người ngoại quốc đả sinh sống ở đây dù họ không phải là cộng-sản, nhưng đả bị lôi cuốn vào ảo ảnh sô-viết . Rất nhiều người ngoại quốc này đả trả giá quá cao về việc mất tự do và thường bị mất mạng v́ việc đam mê của họ đối với đất nước của người sô-viết.
Vào đầu các năm 1930, các người sô-viết đả mở một cuộc tuyên truyền ở trong vùngCarélie, vùng này nằm trong vùng cận biên giới Phần lan và Liên bang Sô-viết, một sự tuyên truyền cho sự xây dựng chủ nghĩa xă hội để lôi cuốn các người dân. Đả có 12000 người dân Phần lan cộng thêm với 5000 người dân Phần lan sống trên đất Hoa-kỳ , phần đông là hội viên (ở Hoa-kỳ) ; v́ họ gặp quá nhiều khó khăn trong cuộc khủng hoảng kinh tế vào năm 1930 như thất nghiệp, không nhà ở v.v. . . Cơn sốt Carelie đả mạnh hơn khi các nhơn viên của tổ chức thương măi sô-viết tên là Amtorg đả hứa với họ là họ sẽ có việc làm với đ̣ng lương cao, nhà ở và các cuộc du lịch không tốn tiền từ New York về Léningrad. Họ được nhắn nhũ là hảy đem tất cả những gỉ họ có.
Cuộc đua nhau đi về ảo tưởng (ruée vers l utopie), theo định nghỉa của Ains Küsinen, đả biến thành cơn ác mộng. Khi họ đi đến nơi, các máy móc công nghệ của họ cùng với các tài sản, các tiền để tiết kiệm của các người dân di cư này đều bị tịch thu ( việc như vậy đả tái diễn đối với các Việt kiều từ Thái lan và Tân Calédonie, hồi hương về miền Bắc vào các năm đầu của thập niên 1960 ). Các giấy thông hành của họ đều bị giử lại và họ bị đưa về cácvùng kém mở mang và bị giữ lại như các người tù sống ở các vùng mà chung quanh toàn là rừng và các điều kiện sinh sống rất là cực khổ ( lời người dịch : h́nh thức Kinh Tế Mới mà Cộng sản Việt nam đả áp dụng cho dân tộc Việt nam sau 30 tháng 4 năm 1975 ). Theo sự nhận định của Arvo Tuominen người lănh đạo đảng cộng sản Phần Lan và được bầu vào thành viên dự khuyết của chủ tịch đoàn ũy ban hành pháp của tổ chức Komintern cho đến cuối năm 1939, sau bị kết án tữ h́nh và y đả xin xét lại án, c̣n giảm xuống 10 năm tù giam ; hơn nửa đả có trên hai chục ngàn người dân Phần Lan đả bị giam cầm trong các trại tập trung.
Bị cưởng bách phải sống ở vùng Kirovakan, Aino Kuusinen đả chứng kiến sau đệ nhị thế chiến, lúc các người Amnien, nạn nhơn của các cuộc tuyên truyền khéo léo của các cơ quan tuyên truyền sô-viết , các người này đả chấp nhận đến định cư ở cộng ḥa sô-viết Aménie. Đáp lời kêu gọi của Staline, kêu gọi các người dân gốc Nga đang sống ở ngoại quốc hảy trở về Liên Bang Sô-viết . Các người Aménien, dù là họ đả di cư sống trên đất của Turquie, họ được động viên để trở về vùng đất của cộng ḥa Arménie mà trong trí tưởng tượng của họ là vùng đất của tổ tiên của họ. Tháng 9 năm 1947, nhiều ngàn người đả tụ họp ở Marseille và chiếc tàu Rossia đả chở 3500 người về Liên Bang Sô-viết. Khi ấy đả có nhiều người hiểu ngày này là một chiếc bẩy ghê tởm ( piège odieux ) đả khép chặt vào họ và khi chiếc tàu này đả đi vào hải phận Nga, thái độ của các người cầm quyền sô-viết thay đổi hoàn toàn. Vào năm 1948, hai trăm người Arménien đả biểu t́nh ở thủ đô Erevan khi vị ngoại trưởng Pháp tên Christian Pineau thăm viếng nơi đây. Chỉ có 60 gia đ́nh được phép đi khỏi lănh thổ Liên Bang Sô-viết ; trong khi ấycuộc đàn áp đả diễn ra vào những người c̣n bị ở lại.
Cuộc khủng hoảng không những áp đặt lên các người tự nguyện đến Liên bang Sô-viết mà luôn cả các người đả phải đến đây để t́m chổ dung thân v́ bị cưởng bách bởi các chế độ độc tài tại đất nước của họ. Theo điều 129 của bản hiến pháp Sô-viết : Liên Bang Sô-viết ban cho quyền ẩn náo ( droit d asile ) cho tất cả các người công dân ngoại quốc đả bị truy tố v́ đả bảo vệ quyền lợi của các công nhơn, hay là v́ các hoạt động của họ về lĩnh vực khoa học, hoặc v́ do cuộc đău tranh của họ cho nền độc lập quốc-gia . Trong cuốn tiểu thuyết của Vassili Grossman tựa đề là : Cuộc sống và định mệnh , ông đả đưa ra một hài kịch về sự đối đầu giữa một quân nhơn SS của Hitler và một người đău tranh bôn sê-vít là tù nhơn của tên lính SS. Trong một cuộc độc thoại ( monologue ) dài, tên lính SS đả phát biểu một bản án của định mệnh cho hàng chục ngàn người gồm đàn ông, đàn bà, lăo ông, lăo bà và các thiếu nhi họ đả đến Liên Bang Sô-Viết để t́m chổ trú ẩn ; và sau đây là bản án : Ai đả ở trong các trại trong thời gian ḥa b́nh, khi không có các tù nhơn v́ chiến tranh. Tại các trại này người ta đả gặp các người được gọi là kẽ thù của đảng, kẽ thù của nhơn dân. Đây là một loại mà anh được biết rỏ, đó là các người trong trại của anh. Và nếu trong thời gian ḥa b́nh, các trại của anh nằm trong chế độ SS, chúng tôi sẽ không để các tù nhơn này ra đi. Các người tù nhơn của các anh là các người tù nhơn của chúng tôi .
Dù họ từ ngoại quốc đến theo lời kêu gọi của chính phủ của các người Sô-Viết , hay là họ t́m nơi an toàn mà họ đả không t́m được ở đất nước của họ v́ các việc tham gia vào chính trị, tất cả các người di cư này vẫn bị coi là có thể trở thành một lực lượng gián điệp ( potentiels espions) Đó là lư do thường được ghi trên các bản xữ án.
Một trong những cuộc di cư quá sớm của các người chống phát xít gốc Italie, diễn ra vào các năm giữa thập niên 1920. Một số trong những người này họ tưởng rằng đả t́m thấy xứ sở của xă-hội chủ-nghĩa xă-hội là nơi ẩn náo các giấc mộng của họ. Họ đả bị thất vọng chua cay, và họ đả bị khũng bố. Các người cộng-sản Italie và các người cảm t́nh của Liên Bang Sô-Viết vào giữa các năm của thập niên 1930, lên đến khoảng 600 người : .. khoảng 250 người là cán bộ chính trị di cư và 350 người là các học viêntheo học trong 3 trường đào tạo về chính trị. Rất nhiều học viên này đả rời Liên Bang Sô-Viết sau khi đả thụ huấn xong và 100 người đău tranh đả tham gia chiến đău ở Espagne trong cuộc nội chiến 1936-1937, cuộc đại khũng bố đả giáng xuống các người c̣n ở lại. Khoảng 200 người Italie đả bị bắt giam và bị khép vào tội làm gián điệp ; khoảng 40 người đả bị xữ bắn và người ta biết rơ lư lịch của các người này ; các người khác bị gởi đi các Goulog hoặc là các mơ khai thác vàng ở Kolyma hay ở vùng Kazahstan. Romols Caccavale đả viết một quyễn sách rất cảm động, đả kễ lại hành tŕnh và định mệnh thê thăm của cả chục người đău tranh. Một ví dụ tronh các ví dụ : Nazareno Scarioli, một người chống Phát-xít đả trốn ra khỏi nước Italie vào năm 1923, và từ đó anh đả đi Berlin rồi qua Moscou. Được phân bộ của Cứu tế đỏ - secours rouge đón tiếp, anh kiếm được việc làm ở một tổ hợp canh nông ở vùng Moscou trong ṿng một năm. Sau anh được thuyên chuyễn đi Yalta và làm việc trong một tổ hợp có 20 người Italie thuộc nhóm vô chính phủ dưới sự hướng dẫn của Tito Scarselli. Đến năm 1933 tổ hợp này bị giải tán, anh Scarioli trở về Moscou và t́m được việc làm ở trong một xưởng sản xuất bánh biscuit. Anh đả tham gia các hoạt động của cộng đ̣ng người Italie , ..Ṛi đến các năm xảy ra cuộc đại thanh trừng (a grande Purge) ; sự sợ hải và sự khũng bố đả làm tan ră cộng đ̣ng người Italie ; mỗi người đều có sự nghi ngờ đối với các đ̣ng hương (compariote). Người cộng sản chịu trách nhiệm tên Paolo Robotti đả thông báo cho câu lạc bộ việc bắt giam 36 người di cư bị coi là kẽ thù của nhơn dân, các người này làm việc trong một xưỡng chế tạo ổ bi (roulements à billes). Robotti đả bắt buộc cữ tọa phải chấp nhận việc này đối với các người thợ mà y đả biết rơ. Lúc dơ tay lên để tán thành, Scarioli đả không đ̣ng ư. Ngày hôm sau anh đả bị bắt giam. Ở trong nhà tù Lioubianca y đả bị tra tấn và đả kư một bản thú tội. Bị đưa đi đày ở Kolyma, anh ta đả làm việc trong mỏ khai thác vàng. Nhiều người Italie khác củng đồng chung một số phận như anh và có nhiều người đả chết. .. nhà điêu khắc Arnoldo Silva, kỹ sư Cerquetti, người lănh đạo cộng-sản Aldo Gorellimà người em gái là vợ của .. về sau này là dân biểu công sản Siloto, cựu thư kư chi bộ cộng sản thành phố Rome, tên là Vincenzo Bazala ; người ở Toseau tên Otello Gaggi đang làm người gác cửa ở Moscou ; người thành viên nghiệp đoàn ở Venise tên Carlo Costa làm thợ ở Odessa và Edmundo Peluzo đả từng quen biết Lenine khi ông này c̣n ở Zurich. Năm 1950 Scarioli, lúc ấy chỉ c̣n 36 kilo được phép rời khỏi Kolyma nhưng vẫn c̣n là người nô lệ của chế độ Sô-Viết , bị bắt buộc làm việc ở Sibérie. Chỉ đến năm 1954 anh mới được ân xá và phục hồi danh dự, và anh phải đợi hơn 6 năm nữa mới được cấp chiếu kháng để trở về Italie với một hưu bổng nhỏ nhoi.
[CENTER]
_________________
[COLOR=blue]"Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
YTKCPQ[/COLOR][/CENTER]