Nguyễn Đắc Xuân- tội đồ giết nhân dân Huế
[B][I][SIZE="4"]Cám ơn Thầy Từ Thái, một nhân chứng sống, một tăng thân tu học ở chuà Tây Thiên vào thời điểm xẩy ra biến cố Mậu Thân,
đă khẳng định xác nhận những ghi chép của nhà văn Nhă Ca trong hồi kư "Giải Khăn Sô cho Huế" là hoàn toàn đúng với sự thật
và xin kính chuyển đến quư Anh Chị nhân muà Đại-Tang-Tết-Mậu-Thân-Huế ;
Chúng ta cùng thắp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.[/SIZE][/I][/B]
[CENTER][B][I]TỰA NHỎ :
[/I][/B]
[B][SIZE="4"]VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI[/SIZE][/B][/CENTER]
[B][I][SIZE="4"]Nhă Ca
(Hồi Kư Giải Khăn Sô Cho Huế) [/SIZE][/I][/B]
Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đă rời gia đ́nh, bỏ thành phố và ra đi biền biệt.
Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế : về ngay, ba hấp hối.
Với một gói hành lư vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đ́nh và thành phố là tôi, đă trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đă phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ.
Sau cả tháng dài lăn lộn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàig̣n, tôi đă thao thức măi về việc phải thắt một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi kư về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tết Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vă của Huế, người ta c̣n bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những xót xa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sắc nhất của một thành phố hấp hối.
Chính v́ vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sống hồi ấy, mặc dù được ṭa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đă cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, th́ ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ư xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế.
Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đă gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đă được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đă tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đă tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vă của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đă bớt ồn ào.
Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế.
Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đă nổ và đă tàn phá Huế. Công tŕnh ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, th́ cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm.
Chính trong thế hệ chúng ta đây, đă có Đoan*, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàig̣n, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dắt súng lục bên hông, hăng hái đi lùng người này, bắt người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế.
[CENTER][IMG]http://img573.imageshack.us/img573/840/nguyendacxuangietmauty1.jpg[/IMG][/CENTER]
Chính trong thế hệ chúng ta đây, đă có Đắc** một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên ṭa nhân dân, kêu án tử h́nh hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tư, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc :
- Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm.
Nhưng mặc Mậu Tư năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ.
Chính trong thế hệ chúng ta đây, đă có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngă gần hết.
Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đă có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa giỡn cho những mũi súng hờm sẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hăi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không cố t́nh bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa gịng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác ǵ thân phận của con chó nhỏ đă chới với giữa gịng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà c̣n phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa.
Gần hai năm đă qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang đèn góp giỗ.
Xin mời bạn, chúng ta cùng thắp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.
Đoan*:
Đắc**: Nguyễn Đắc Xuân
[CENTER][IMG]http://img860.imageshack.us/img860/3301/2008blooddebt.gif[/IMG][/CENTER]
------------
[CENTER][B][I][SIZE="4"]Mặt Trận Huế[/SIZE][/I][/B]
[B][I][SIZE="4"]( đây là tài liệu do chính bọn việt gian xác định lá cờ PG Ấn Quang và vai tṛ của những tên giết người )[/SIZE][/I][/B][/CENTER]
Trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân chỉ có trận đánh vào Huế của Cộng sản (CS) là thành công và gây tiếng vang. Tuy nhiên đứng trên khía cạnh quân sự thuần túy mà nói, Cộng quân chỉ chiếm được ưu thế trong 4, 5 ngày đầu. Từ mồng 8 tết (6.2.68) trở đi, cường độ các trận đánh giảm hẳn. Cộng quân bất đầu di tản thương binh, tù binh và chuyên chở chiến lợi phẩm ra khỏi thành phố từ ngày nầy. Dân chúng cũng bị ép buộc tản cư khỏi Huế để làm mộc chắn cho các đơn vị CS, và đồng thời cung cấp nhân công cần thiết ...
Về quân sự Cộng quân mở hai mặt trận chiếm Huế. Mặt trận tả ngạn (phía bắc) và mặt trận hữu ngạn (phía nam).
[SIZE="4"][B]I. Mặt trận quân sự[/B][/SIZE]
[I][B]1 Mặt trận phía bắc[/B][/I]
Gồm các mũi chính: Cửa Chính Tây, cửa An Ḥa, Kỳ Đài, sân bay Tây Lộc và đồn Máng Cá.
[I]Cửa Chính Tây[/I]
Cửa Chính Tây được một tiểu đội của Đại đội "Hắc Báo" (thám báo) trấn giữ. Người phụ trách "nội công" đánh cửa nầy là Phan Nam (Lương), một cán bộ Thành ủy nằm vùng. Theo lời Nam, chất nổ và vũ khí đă được đưa vào thành nội trước 10 tiếng đồng hồ . Đặc công Cộng quân đă hạ được vọng gác của lực lượng Thám báo và dùng chất nổ phá cổng cho lực lượng chính qui CS từ bờ đối diện sông Đào tràn vào thành nội . Sau khi vượt thành, một đơn vị CS đánh thốc vào Đại nội. Rạng sáng đơn vị Hắc báo chống không nổi phải rút. Việc thất thủ đại nội đă kéo dài thêm các trận đánh ở Huế hàng tuần lễ, v́ Cộng quân chỉ cần sử dụng một lực lượng nhỏ đóng chết trên các tường thành dày cả 10 thước tây.
[I]An Ḥa[/I]
Tại khu vực An Ḥa (Tây Nam) một tiểu đoàn (D) của Trung đoàn E.9 (SĐ. 309 Bắc Việt) có nhiệm vụ tấn công cầm chân Tiểu đoàn 2 Dù của Thiếu tá Thạch ở làng An Ḥa. Khoảng 2 giờ 30 sáng, một mũi đặc công đă vượt sông đột nhập cổng An Hoà và cùng với cánh quân của E.9 tràn vào làng An Ḥa. Tuy nhiên, từ chiều ngày mồng 1 Tết Tiểu đoàn 2 Dù đă không c̣n ở An Hoà nữa. Cộng quân chiếm cầu Bạch Hổ và phá hủy một nhịp cầu bên tả ngạn để chặn viện binh Mỹ.
[I]- Đồn Mang Cá[/I]
Đồn Mang Cá nơi đặt Bộ Tư Lệnh SĐ. 1 BB của Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng là điểm hẹn của các mũi chủ lực CS. Nguyễn Trọng Đấu, thủ trưởng E.6 chỉ huy. Theo đúng chiến thuật "đặc công làm mồi", một đại đội Tiểu đoàn 12 đặc công giữ nhiệm vụ xung phong. Đại đội nầy được chia làm 4 mũi từ thôn Triều Sơn Tây dùng "phao ny lông" vượt sông, rồi men theo bờ thành tiến về mục tiêu. Cánh quân chủ lực đánh Mang Cá đă phải dừng lại v́ sự chống trả mănh liệt của quân trú pḥng đồn này. CS tiếp tục mở nhiều đợt tấn công. Có lúc, tiền quân CS đă đột nhập được khu bệnh xá và tàn sát một số thương, bệnh binh.
[I]Sân bay Tây Lộc[/I]
Một đơn vị đặc công chui theo cống Thủy Quang đột nhập thành nội. Một cán bộ CS nằm vùng đă cắt giây kẽm gai ở miệng cống, và dẫn đường cho toán đặc công nầy tiến vào phi trường. Toán đặc công trên đốt được kho đạn, kho xăng và khu nhân viên kỹ thuật . Tuy nhiên, lực lượng chủ lực của CS bị lạc đường qua trại Quân cụ. Nhờ thế lực lượng pḥng thủ kịp thời bố trí, bảo vệ được sân bay...
[I]Kỳ Đài và Thượng Tứ[/I]
Kỳ đài nằm trên ṿng thành ở cửa Thượng Tứ (Phú Văn Lâu) đi vào. Đơn vị CS có nhiệm vụ treo cờ thuộc được một đặc công đón ở cửa Hữu đưa vào mục tiêu. công nầy chẳng ai khác hơn Dũng, con trai chủ hăng đồ gỗ Lê Hữu Trí. Đang học ở Sài G̣n, Dũng được Trí gọi về Huế, gửi vào mật khu huấn luyện một tuần lễ. Vừa măn lớp huấn luyện, Dũng nhận công tác ngay. Sau khi chiếm được Kỳ đài, CS treo lên lá cờ Liên Minh các Lực lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh Việt Nam . Cờ rộng 96 mét vuông, gồm hai vạt xanh kèm lấy một vạt đỏ có sao vàng ở giữa.
Từ Kỳ Đài, đơn vị CS nầy tiến ra cửa Thượng Tứ, rạp Hưng Đạo và rồi bót Cảnh sát Đông Ba . Ngoài ra, một cánh quân khác tiến chiếm khu Đông Nam và chợ Đông Ba. Các cơ sở như Ty Chiêu Hồi, Ty Thông Tin, Ṭa Thượng Thẩm đều bị chiếm và phá hủy tài liệu, cơ sở, vật chất.
[B][I]2. Mặt trận phía nam[/I][/B]
Mặt trận phía nam do Thân Trọng Một, Thành đội trưởng Huế chỉ huy. Một là người 'Huế, biết khá rơ địa h́nh, địa vật. Lực lượng cơ hữu của Một có "Đoàn 5" gồm 4 tiểu đoàn bộ, Trung đoàn 9 của SĐ. 309 Bắc Việt, một tiểu đoàn ĐKB và 4 đội đặc công .
[I]- Mặt trận Tam Thai[/I]
Để có thể tiến quân về Huế an toàn, Cộng quân chọn căn cứ Thiết giáp ở Tam Thai (An Cựu) làm mục tiểu chiến lược, v́ sợ rằng chiến xa VNCH sẽ phản ứng gây tai hại cho Cộng quân một khi vào tác chiến trong thành phố. Ba mũi đặc công chia nhau tiến chiếm chân, sườn và đỉnh đồi căn cứ. V́ đă bị đột kích hai tháng trước, hệ thống pḥng thủ của căn cứ được tăng cường dày đặc. Bởi thế, hai mũi đặc công ở chân đồi và lưng chừng bị đánh thiệt hại rất nặng. Chỉ mũi đỉnh đồi là thành công.
Trong ngày mồng 2 Tết, lực lượng phản kích VNCH nhiều tân tiến lên tái chiếm đỉnh đồi. Một số lớn đặc công bỏ chạy. Chỉ c̣n ít chục đặc công tử thủ trong các hầm hố và chết dân ṃn ở đây. Tối ngày mồng 3 Tết, Chủ nhiệm Chính trị của Thành đội Huế là Chiến kéo quân lên tăng viện, những â giờ sau Chiến trúng hỏa tiễn chết. Măi tới đêm Tiểu đoàn 8 1 8 của E.8 mới lên thay thế đám tàn binh đặc công.
[I]- Mặt trận hữu ngạn[/I]
Ngay khi đặc công tiến đánh núi Tam Thai, Thân Trọng Một cho các cánh quân cơ hữu vượt sông An Cựu tiến vào thị xă. Khoảng 7 giờ sáng, tiền quân CS đă xâm nhập được các đường phố.
Tuy vậy, các lực lượng pḥng thủ chống cự mănh liệt, măi tới 4 ngày sau Cộng quân mới lần lượt chiếm được Đại đội Quân cụ, Ty Ngân Khố, Ṭa Dại Biếu Bắc Trung Phần, Ṭa Hành Chái.th Thừa Thiên, nhà lao Thừa phủ v.v...Hơn 2000 tù nhân tháo cũi sổ lồng tạo thành một lực lượng gây rối đáng sợ. Phía Việt Nam Cộng Ḥa chỉ c̣n giữ vững Tiểu khu Thừa Thiên, Đài Phát Thanh, bản doanh MACV và bến tàu Hải quân.
[B][I]II Mặt trận Chính trị[/I][/B]
Mặt trận quan trọng nhất của CS trong đợt tấn công Tết Mậu Thân, thực ra, là mặt trận chính trị. Chính v́ mục tiêu chính trị nầy mà Hà Nội đă chẳng hề đếm xỉa đến thực trạng bi thảm, tuyệt vọng của các cán binh từ thủ Huế, ra lệnh tiếp tục chốt giữ khu Đại Nội.
- Thành lập các "Ủy ban Nhân dân Cách mạng"
Người phụ trách công tác "Tổng khởi nghĩa", hoặc nôm na hơn, thiết lập "chính quyền cách mạng" ở Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh. Loan là một thành ủy viên, đă vào nằm vùng trong nhà Nguyễn Đóa, một giám thị trung học Quốc Học từ lâu . Loan có nhiệm vụ tổ chức các hủy ban nhân dân" ở khu vực tả ngạn Huế, bao gồm thành nội .
Ngay buổi sáng mồng 2 Tết, Loan cùng các cán bộ nằm vùng như Nguyễn Trung Chính tồ chức một cuộc mít-tinh với hàng trăm người tham dự. Trong cuộc mít tinh nầy, một giáo sư trường Quốc gia âm nhạc Kịch nghệ là Nguyễn Hữu Vấn được ~bầư' làm chủ tịch ủy ban Nhân dân Quận I.
Người phụ trách "tổng khởi nghĩa" ở Quận II là Phan Nam (tức Lương). Nam đưa Nguyễn Thiết (tức Hoàng Dung) lên làm Chủ tịch ủy ban nhân dân quận nầy. Thiết từng là một học sinh "vượt tuyến'l t́m tự do. Sau đó, học Luật và tham gia Ban chấp hành Hội sinh viên Huế. Bị trúng đạn chết ở những ngày tàn của mặt trận Huế. Tại khu vực hữu ngạn (tức thành phố mới) CS chưa có th́ giờ thiết lập các ủy ban nhân dân. Mọi nỗ lực của Hoàng Lanh, Thường vụ Thành ủy Huế, đổ dồn vào công tác săn bắt và kiểm tra tù binh.
Ngày 14.2.1968, đài Hà Nội tuyên bố dă thiết lập xong một chính quyền cách mạng ở Huế. Chủ tịch là Lê Văn Hảo, Đào Thị Xuân Yến (bà Tuần Chi) và Hoàng phương Thảo giữ chức Phó chủ tịch.
Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà B́nh
Một trong những việc làm gây nhiều tiếng vang nhất của CS tại Huế là việc nặn ra một tổ chức lấy tên "Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Ḥa b́nh" (sẽ viết tắt Liên Minh). Việc thành lập tổ chức nầy được Hà Nội loan báo vào ngày mồng 3 Tết (l.2.1968). Người ta chỉ biết đại khái rằng Chủ tịch của tổ chức nầy là Tiến sĩ Lê Văn Hảo, giáo sư Nhân chủng học ở Đại học Huế và Sài G̣n.
Hảo gốc người Huế, sang Pháp học từ năm 1953 v́ - theo lời Hảo - sợ phải đi lính. Tại Paris Hảo chịu ảnh hưởng của Trần Văn Khê và Nguyễn Khắc Viện. Về nước năm 1965, Hảo dạy ở Huế và Sài G̣n. Năm 1966, Hảo tham gia phong trào "ly khai" ở Huế. Giữa năm 1967, Hảo được bạn học cũ là Hoàng Phủ Ngọc Tường (Thuyết) và Tôn Thất Dương Tiềm, một cán bộ CS nằm vùng, móc nối vào MTGPMN.
Cuối tháng 12.67 Hảo ra bưng và được khoác áo chủ tịch Liên Minh thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường làm Tổng thư kư. Sau nầy Hảo trở thành Phó chủ tịch ủy ban Trung ương của Liên minh toàn quốc. Trong số những người được móc nối ra mật khu với Hảo c̣n có “ôn Linh Mụ” tức Ḥa thượng Thích Đôn Hậu của chùa Thiên Mụ, Nguyễn Đóa cựu giám thị Quốc học và nhiều sinh viên, học sinh khác.
- Lực lượng "nghĩa binh"
[CENTER][IMG]http://img718.imageshack.us/img718/6756/39861335.jpg[/IMG]
[B][I][SIZE="4"]"Nguyễn Xuân" : thủ lănh lực lượng "nghĩa binh quân nhân và cảnh sát"[/SIZE][/I][/B][/CENTER]
Việc tổ chức lực lượng "nghĩa binh" của CS cũng tiếng vang. Người đưa ra sáng kiến nầy làNguyễn Xuân. Hè 1966, Xuân đă tổ chức đoàn "Phật tử quyết tử" Nguyễn Đắc Xuân
Xuân lợi dụng Đại úy Nguyễn Văn Lợi (sĩ quan VNCH từ Quảng Trị về quê ăn tết bị kẹt) để tổ chức ra một "Đoàn nghĩa binh" qui tụ những quân nhân bị kẹt ở Huế. Trong vài ngày, Lợi tổ chức được một đội quân lên tới hàng trăm người. Sau, v́ sợ các "nghĩa binh" này có thể trở ngược đầu súng, CS phân tán mỏng họ. Giữa tháng 2.1968, Lợi bị thương và mất tích. Một số “nghĩa binh” cũng đều tử nạn.
Cũng chính Xuân đă tổ chức ra đội "Nghĩa binh Cảnh sát" ở Huế, ép quận trưởng hữu ngạn là Nguyễn Cán chỉ huy. Một trong những nhiệm vụ của đội Nghĩa binh Cảnh sát nầy là ngăn chặn không cho dân di tản khi quân VNCH và Đồng minh phản công.
[I]Bạo Lực Cách Mạng[/I]
Đi theo các đội đặc công, vơ trang tuyên truyền và đơn vị chủ lực CS, dĩ nhiên phải có những đơn vị "an ninh". Vai tṛ của các toán "an ninh" nầy được đặc biệt chú ư v́ chỉ huy trưởng chiến đoàn là Lê (Tư) Minh, Trưởng ban An ninh khu ủy Trị Thiên. Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đ́nh Bảy (Bảy Khiêm), hai cán bộ an ninh cấp khu, trực tiếp điều khiển những cuộc thủ tiêu, bắt giữ ở khu tả ngạn và hữu ngạn. Tại khu tả ngạn, dưới quyền Nguyên, các toán an ninh có hai nhiệm vụ : Lùng bắt các sĩ quan, viên chức cao cấp trong vùng, và "bảo vệ" một số khuôn mặt "chính trị" như Thích Đôn Hậu, bà Tuần Chi, Nguyễn Đóa, Lê Văn Hảo v.v...
Tại khu hữu ngạn bảy Khiêm dồn mọi nổ lực để săn bắt các viên chức chính quyền và những người mà Bảy Khiêm gọi là "nhân viên CIA". Theo Bảy Khiêm, chính y đă giết chết Phó tỉnh Thừa Thiên là Trần Đ́nh Phương , bắt sống ông Nguyễn Văn Đăi, đại diện chính phủ Bắc-Trung Nguyên Trung phần; Bảo Lộc Phó Tỉnh Thừa Thiên; Hồ Thúc Tứ, ủy viên Trung ương Quốc Dân Đảng; Trần Diễn, ủy viên Trung ương đảng Đại Việt và nhiều người khác nữa.Toán của Khiêm c̣n bắt một số giáo sư Đại học ngoại quốc và thủ tiêu họ với tội danh CIA .
Cũng chính Bảy Khiêm là người t́m ra đường hầm dẫn vào nhà lao Thừa Phủ, giải cứu 2.300 can phạm. 500 can phạm nầy được trang bị khí giới ngay ngày mồng 4. Thật khó để ước lượng chính xác số người bị CS tàn sát tại Huế trong địp Tết Mậu Thân. Nhưng theo Lê Minh, việc tàn sát tù binh và dân chúng là chuyện có thực : Sau khi biện dẫn rằng ngay đến cuộc cách mạng 1789 của Pháp cũng có người bị giết oan. Minh tự biện hộ là "đă ở trong một hoàn cảnh quá khó khăn đến không thể nào kiểm soát nổi những hành động thô bạo" của cán binh, du kích và cán bộ CS.
[B][I]III Phản công của VNCH[/I][/B]
Cuộc phản công của QLVNCH khởi đầu ngày mồng 3 Tết Mậu Thân (l.2.1968). Quân Dù tiến chiếm từng căn nhà. CS rút lui vào nội thành, khai thác tối đa công sự pḥng thủ của ṿng thành. Qua ngày mồng 4 tết, sau khi mặt trận Quảng Trị đă tạm yên Tiểu đoàn 9 Dù của Thiếu tá Nhă mới được trực thăng vận vào Mang Cá. Mũi chủ lực của Chiến đoàn 1 dù cũng xuyên qua tường thành tiến vào giải vây cho các binh sĩ pḥng ngự sân bay Tây Lộc.
Sang ngày mồng 5 Tết, lực lượng Dù giải tỏa được nửa phi trường và tái chiếm cửa An Cựu. Nhưng các mũi tiến về hướng Đại Nội bị chặn lại.
Trận chiến kéo dài thêm 3, 4 ngày không có tiến triển. Ngày mồng 9 Tết (7.2), Cộng quân được tăng cường thêm 2 tiểu đoàn và phản công gây thiệt hại nặng cho Tiểu đoàn 4/3 quân Cộng hoà. Cũng trong đêm, trước nguy cơ viện binh Đồng minh từ hữu ngạn kéo sang, Cộng quân đánh sập cầu Trường Tiền.
Nói chung cả hai phe đều mỏi mệt và có những trở ngại. Chiến đoàn 1 Dù đă quá vất vả, đặc biệt là tiểu đoàn 9 Dù mới bị thiệt hại nặng nề ở Quảng Trị.
Phe Cộng quân, t́nh h́nh nghiêm trọng hơn. Đạn dược bất đầu cạn. Đơn vị pháo chỉ c̣n nửa cấp số. Thương vong ở trong nội thành đă lên tới 300 người mà không di tản được Ngày mồng 5 Tết (4.68), trước nguy cơ quân Mỹ bất đầu nhập trận, Lê Minh quyết định rút khỏi thành phố. CS gửi điện ra Hà Nội báo cáo " hết đạn". Hà nội bắt tử thủ và hứa cho tiếp viện.
Trong khi đó, phe Đồng minh và VNCH bắt đầu phát động một đợt phản công mới.
Ngày 12.2.68 hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến được đổ bộ xuống Bao Vinh, và nhập trận hai ngày sau. Các đơn vị TQLC Hoa Kỳ cũng đổ bộ lên bến Bao Vinh, rồi từ đây vượt qua cổng hậu vào Thành Nội. Ngày 13.2.68 mưa phùn đột ngột dứt. Lần đầu tiên sau 15 ngày, Huế có ánh mặt trời. Phi cơ thi nhau lên đánh bom dữ dội khu vực La Chữ, nơi t́nh nghi đặt Bộ chỉ huy CS.
[ Nhờ một Nghĩa quân bị bắt trốn thoát cho tin Bộ chỉ huy cao cấp của CS đóng ở làng La Chữ nên đồng minh Hoa Kỳ mở cuộc hành quân vào vùng này. Cuộc chiến vô cùng gay go v́ Cộng quân quyết tử thủ. 9 trực thăng của Mỹ bị hạ. Tổn thất nhân sự phía đồng minh thật nặng nề, trên 100 người chết. Ngày 25, 26 tháng 2, sau khi thất thủ Huế, CS mới cho lệnh rút lui. Hồi kư của Văn Tiến Dũng nói đến cái chết của hai vị tướng. Có lẽ cả hai bị từ thương ở mặt trận này. Theo Nguyễn Lư Tưỏng: Chớp bể mưa nguồn]
Ngày 14.2.68 chiến dịch Sóng Thần 739/68 của Liên quân TQLC và Hoa Kỳ bắt đầu.
[I]1 Mặt trận Hữu ngạn.[/I]
Khi Chiến đoàn 1 Dù vào giải vây đồn Mang Cá và thành nội ngày 3.2.68, quân lực Hoa Kỳ cũng tiến vào Huế.
Tại tả ngạn, các đơn vị SĐ I Không kỵ Mỹ chỉ phối hợp vời lực lượng Dù và Bộ binh VNCH trấn giữ ṿng ngoài.
Tại hữu ngạn, nơi có Bộ chỉ huy MACV, TQLC Mỹ từ Bộ chỉ huy MACV bắt đầu mở những cuộc hành quân lục soát quanh khu vực đóng quân. Từ phía Nam, chiến đoàn RAY gồm hai đại đội TQLC khác của SĐ. I TQLC Hoa Kỳ cũng từ đầu cầu An Cựu tiến lên phía Bắc.
Với mục đích tiêu diệt địch hơn chiếm đất, TQLC Mỹ ban ngày xuất trận, ban đêm kéo về thủ Bộ chỉ huy MACV. Măi tới ngày 1 1 âm lịch (tức 9.2.68), TQLC Mỹ mới thanh toán xong các khu vực sân vận động, nhà Ga, và Phủ Cam. Tỉnh đến ngày nầy, theo bản tin quân sự của chính phủ, tại hữu ngạn sông Hương TQLC Hoa Kỳ đă giết chết 934 cộng quân, bắt sống 4 tù binh, thu 307 súng đủ loại Phía Hoa Kỳ chỉ có 31 chết, 201 bị thương nặng, 80 bị thương nhẹ.
Qua chiều ngày 10.2.68, thêm nhiều đơn vị TQLC Mỹ được trực thăng vận hoặc di chuyển bằng quân xa vào khu vực hữu ngạn. Nhờ sự hiện diện của các đơn vị nầy, lực lượng địa phương của tỉnh Thừa Thiên bắt đâu hoạt động trở lại: thu nhặt những xác chết đă śnh thối, tổ chức việc trợ cấp các nạn nhân chiến tranh cũng như lục soát truy kích tàn quân CS.
Có thể nói khi cuộc hành quân Sóng Thần 739168 được phát động để tái chiếm khu Đại Nội vào ngày 14.2.68 th́ t́nh h́nh hữu ngạn đă yên ồn, mặc dù Bộ chỉ huy của Thân Trọng Một c̣n lẩn quẩn ở khu Lăng Tự Đức cho tới ngày cuối cùng (25.2.68).
[I]2. Hành quân Sóng Thần 739/68[/I]
Trong cuộc hành quân giải tỏa Thành Nội Huế, toàn bộ mặt trận được chia làm 5 khu vực.
1 Khu A, gồm góc đông Bắc, tức Mang Cá lớn và Mang Cá nhỏ. Khu nầy tương đối an toàn.
2- Khu B, tức khu chính Đông bao gồm cả chợ Đông Ba. Mặc dù một số cán binh CS c̣n "chết" trên thành, quân VNCH đă kiểm soát dưới đường phố.
3- Khu C, là góc Tây Bắc, gồm phường Tây Lộc và Tây Linh. Trung đoàn 3 của Trung tá Phan Bá Ḥa chịu trách nhiệm khu vực nầy. Cộng quân c̣n giữ khu vực Chính Tây thuộc phạm vi phường Tây Linh, kể cả nhà thờ họ đạo ở đây.
4- Khu D, tức phía đông Đài nội, có cửa Thượng Tứ và Đông Ba. Khu nầy do Tiểu đoàn 115 TQLC Mỹ đảm trách. Đây là một đơn vị rất thiện chiến, có tới 1 000 binh sĩ và được tăng phái trung và trọng pháo.
5- Khu E, bao gồm khu vực Cộng quân cố thủ ở Kỳ Đài, Ngọ Môn và cửa Thượng Tứ.
6- Khu F, là góc Tây Nam Thành Nội do chiến đoàn A TQLC Việt Nam trách nhiệm.
Cuộc hành quân giải tỏa phát triển rất chậm v́ thời tiết xấu và pḥng thủ kiên cố của tàn quân CS. Vũ khí lợi hại nhất của VNCH và Đồng Minh là không lực lại bị hạn chế tối đa. Các họng pḥng không trên bờ thành cũng khiến trực thăng vơ trang không hoạt động đúng khả năng.
Tại khu vực D, tức khu Đông Nam Đại Nội, nhất là cửa Đông Ba, TQLC của Hoa Kỳ cũng tranh giành từng cao điềm với Cộng quân. Theo Lê Minh, người chỉ huy mặt trận Huế, trận đánh "thật khốc liệt", đôi khi hai bên chỉ cách nhau vài chục mét. Sáng ngày 18.2.68, TQLC Mỹ đă chiếm được hoàn toàn cửa Đông Ba.
Trước áp lực của các cánh quân đồng minh và VNCH, ngày 19.2.68 Lê Minh quyết định rút, dù đă có công điện ngày 15.2.68 của Hà Nội : "Phải giữ thành nội, không được rút ra ngoài đă phục vụ nhiệm vụ chính trị chung cả nước" . Trần Anh Liên, chính ủy khu tả ngạn, được lệnh chuyển thương binh ra ngoài. Tống Hoàng Nguyên có nhiệm vụ dẫn giải tù binh. Những "cơ sở" đă lộ được đưa vào rừng. “Cơ sở” c̣n trong bí mật được gài theo dân tản cư.
Ngày 22.2.68, những cấp chỉ huy của CS bắt đầu rời thành nội.
Cuộc rút quân của CS, như Lê Minh thú nhận, là ở vào thế chẳng đặng đừng. Quân VNCH và đồng minh đă xiết chặt dần ṿng vây quanh Huế.
Các đơn vị TQLC Việt Nam Cộng Ḥa tái chiếm được cửa hữu . Ngày hôm sau, tiến đánh Nam Đài, cửa Nhà Đồ và khu vực đường Tôn Thất Thiệp.
Trong khi đó, một đơn vị nhỏ của SĐ I Ba đă chiếm được Kỳ Đài, triệt hạ lá cờ của Mặt Trận Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Ḥa B́nh. Lá cờ vàng, ba sọc đỏ của VNCH được gương lên, báo hiệu cơn ác mộng, cơn sét xuất huyết của Huế đă qua.
Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra : Cộng quân đă "biến" đi cách nào? Theo tài liệu CS, bất đầu từ ngày 6.2.68 (mồng 8 Tết), thương binh, tù binh và chiến lợi phẩm đă được bí mật chuyển khỏi thành phố. Dân chúng cũng bị bắt buộc tản cư để làm b́nh phong và cung cấp nhân lực vận tải. Tuy nhiên khi ra khỏi địa phận thị xă (về hướng Phú Vang), những đoàn nầy bị các lực lượng SĐ. I Không kỵ cũng như phi pháo đánh tan nát. Quân Mỹ đă giải thoát được một số tù binh dân sự Mỹ cũng như đoạt lại tất cả lương thực "chiến lợi phẩm". Chính vào thời gian nầy, việc tàn sát tập thể một số quân nhân, công chức VNCH và thường dân đă xảy ra. Mười sáu ngày sau, 22.2.68, các đơn vị chủ lực bát đầu rút lui. Cuộc triệt thoái nầy kéo dài 5 ngày. Măi tới nửa đêm ngày 26.2.68 cán binh CS cuối cùng mới rời khỏi Huế, bôn tẩu về Phú Vang.
[CENTER][IMG]http://img135.imageshack.us/img135/4103/83012240.jpg[/IMG][/CENTER]
[B]Kỳ sau:[/B] [B][I][SIZE="4"]Thư gửi Nguyễn Đắc Xuân[/SIZE][/I][/B]
Hoàng Phủ Ngọc Phan - Giết Người Dân Huế
Ngoài Nguyễn Đắc Xuân c̣n có Hoàng Phủ Ngọc Phan giết dân Huế, toàn là đám người sống trong miền Nam nhưng ủng hộ Cộng Sản giết người dân Huế năm 1968.
--------
Nguồn [URL="http://www.danchimviet.com/archives/2677"]http://www.danchimviet.com/archives/2677[/URL]
[B][COLOR="blue"]Nhân chứng, nạn nhân tội ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 68[/COLOR]
[COLOR="teal"]Nguyễn thị Thái Ḥa[/COLOR][/B]
Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng c̣n sống sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đ́nh tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đ́nh, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ c̣n kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đă gánh chịu bởi Đảng Cộng Sản, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…
Thưa Ông,
Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lư thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8- đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như pḥng cấp cứu, pḥng bệnh nội thương … th́ giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở pḥng cấp cứu. Ngày mồng hai , tôi và hai anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.
Thường th́ mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một tết pḥng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên pḥng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi ḿnh… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nữa đêm th́ bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt ḿnh, băn khoăn nh́n nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa th́ nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngơ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào pḥng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời ḥ hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong pḥng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, th́ ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề pḥng cấp cứu… Điện trong pḥng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy t́m đường chạy thoát thân.
Ra khỏi pḥng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là ḿnh đang chạy đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người , định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó t́nh cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ pḥng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó th́ đă có hai bà sơ ḍng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.
Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên ai ở đâu th́ cứ ở đó.
Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác th́ tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy sơ đi đă, khi mô có lính ḿnh xuất hiện th́ mới đi được.Tôi hỏi, khi mô th́ lính ḿnh mới tới, cha nói không sớm th́ muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha th́ vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng ḷng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần v́ sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần v́ đói. Đă mấy ngày không có ǵ ăn ngoài mấy ổ bánh ḿ cứng c̣ng của Caritas c̣n sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về t́m gia đ́nh. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu , tôi chạy ra phía sau cổng BV, t́m đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng th́ nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm ḅ dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh ḅ cạp, nh́n cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hăi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện th́ bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần ḍng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Ṭa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của ḿnh dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của ḿnh” nhưng bây giờ tôi không c̣n nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy t́m đường trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô pḥng thí nghiêm trốn th́ thấy có vài người đă bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ c̣n tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa th́ gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan (HPNP) và Nguyễn thị Đoan Trinh (NTĐT) cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là v́ Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn th́ chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đă bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.
Vừa vô tới giảng đường th́ anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, t́m chỗ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa th́ nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn th́ bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và t́nh cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ư định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa t́m anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ t́m cách đưa anh vô Bv cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng th́ nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung văi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, th́ gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày cũng đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói th́ Văn đă lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương !
Phan không trả lời Văn, hắn nh́n tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này v́ trước năm 68 tôi c̣n là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi th́ biết, v́ họ là những lớp sinh viên đàn anh, đă từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.
HPNP to nhỏ ǵ với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về th́ Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nh́n lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đă cứng. Đùm ruột ḷi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn c̣n mở trừng. Miệng vẫn c̣n há ra.
HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quăng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại v́ có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm răi rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đă mấy ngày không có ǵ trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chiếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lư Thường Kiệt, Nguyễn Huệ c̣n ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đă tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của ḿnh. Mừng chưa kịp no, th́ trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nh́n. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống t́m đường trốn lên Phú Lương th́ bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm th́ HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính ḿnh ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người th́ bị bắn tại trước nhà, người th́ bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết…Bọn lính Bắc th́ cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi th́ HPNP và NTĐT rà xe lại gần bảo tôi, không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi th́ ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con c̣n sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không ? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói v́ quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn ̣a khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nh́n thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng th́ kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đ̣i xuống nh́n mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, tḥ đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc pḥng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống th́ nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại th́ bọn HPNP cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong th́ tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở nhà hoài răng? Chừ th́ tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc pḥng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không th́ nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai,ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà tḥ đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống… Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc t́m cách tuột xuống, tḥ hai chân xuống trước, hai tay c̣n vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu th́ HPNP đă nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. C̣n lại một ḿnh, tôi ḅ lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi ḅ sang anh Lộc, ḅ sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng ṿi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu th́ tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không c̣n sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy th́ thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm của với ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước pḥng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào pḥng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không c̣n khóc được, không c̣n mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không c̣n sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nh́n thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muổng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng c̣n chi. Gạo cơm, bánh mứt th́ bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hâu c̣n dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hâu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đă hơn bảy ngày, xác đă bắt đầu śnh lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi th́ chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nĩ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…
Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rơ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rơ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đ̣i đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, th́ tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đ̣i đoạn, th́ tôi biết chuyện ǵ đă xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thắng bộ đội ḥ hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu Và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng ṿ đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đă chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa… Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng c̣n người để mà giết, chẳng c̣n của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nở bỏ tôi lại một ḿnh, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ cam đă t́m đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn t́m mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo gia đ́nh bác Hậu t́m đường chạy lên Phú Lương v́ nghe nói lính Mỹ, lính ḿnh đă thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngă cầu Kho Rèn th́ cầu đă bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không c̣n nhớ là ḿnh đă đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó th́ bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, v́ vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn c̣n hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.
Cuối cùng th́ tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đ́nh anh Văn đồng ư cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đ́nh vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy xe lửa) th́ bán cho ai đó tôi không rơ.
Thưa ông Liên Thành,
Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ ḍng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người bà con c̣n lại của tôi quá đau khổ, sợ hăi, họ đă âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đ́nh tôi lại là những nạn nhân của lũ Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai c̣n lại cũng đă chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.
Đă 40 năm qua, những vết thương đó vẫn c̣n tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy nhất trong gia đ́nh c̣n sống sót sau tết mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đ́nh tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước ṭa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.
Xin tŕnh ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại :
Tên ông nội : Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh : Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc. sinh viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.
© Nguyễn thị Thái Hoà