Nh́n lại nạn đói Ất Dậu 1945 - Ai chịu trách nhiệm chính
[B]Nguyên nhân:[/B]
Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói.
Nguyên nhân xảy ra nạn đói năm Aát Dậu (1945)
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu phân tích, các nguyên nhân đưa đến nạn đói năm Aát Dậu 1945 mang nhiều t́nh tiết phức tạp sau đây:
1/- Về phía người Nhật
Trước t́nh thế có thể nguy ngập v́ xung đột lẫn nhau, ngướ Nhật đang nắm thế thượng phong ở chiến trường Thái B́nh Dương, đă lần lượt chiếm đóng Trung Hoa, rồi tràn xuống phía Nam châu Á, tiến đến các lănh thổ Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương, Việt Nam, Thái Lan và nhiều hải đảo phía nam, kể cả Uùc châu.
Khi chiếm đóng Đông Dương, quân đội Nhật muốn chọn Việt-Nam, đặc biệt Nam Kỳ như một bàn đạp hậu cần để tiến xuống vùng hải đảo. Do đó, quân đội Nhật không những tận thu các sản phẩm lúa gạo, cao su và nhiều tài nguyên kỹ nghệ nông nghiệp khác, mà c̣n bắt nông dân Việt-Nam phải phá bỏ các ruộng lúa mà thay vào đó, phải trồng đay lấy sợi làm bao chứa gạo và khí tài quân sự, vận chuyển tiếp tế cho các hải đảo vùng Đông Nam Á.
Do điều kiện địa lư, ngay chính quốc Nhật cũng từng thiếu diện tích trồng lúa. V́ vậy việc phá lúa trồng đay xảy ra rất tàn bạo quyết liệt tại Miền Bắc và vùng Bắc Miền Trung. Ở vùng lănh thổ nầy, đồng lúa vốn đă hiếm, phương chi phải chuyển ruộng lúa thành ruộng trồng đay th́ việc thiếu lúa gạo là tất nhiên.
2/- Về phía người Pháp
Họ cũng cần thu quén lúa gạo để nuôi quân và đề pḥng bị cô lập hóa với mọi nguồn tiếp tế ở bên ngoài, nên vừa phải thu lúa gạo cho quân đội Nhật, dưới áp lực của chính quân phiệt Nhật, vừa phải dành lúa gạo cho quân dân chính trong khu vực ḿnh kiểm soát. Tất cả các nguồn lợi mà người Pháp vẫn nhận từ chính quốc ở Aâu châu và các nước khác chẳng bao lâu bị cắt đứt.
3/- Về phía quân dân kháng chiến Việt-nam
Tất cả các lực lượng có xu hướng chính trị kháng chiến – quốc gia và không quốc gia – cũng đều lo tích trữ lương thực hiếm hoi trong t́nh thế nguy ngập đó, nhất là những lực lượng kháng chiến do phong trào Việt Minh kiểm soát. Vào thời điểm có nạn đói, những thanh niên như Nguyễn Mạnh Hà và Nguyễn Đ́nh Đầu là những người tích cực tham gia hoạt động cứu đói, nhưng không thể không điều phối ở tầm mức chiến lược nào đó với kế hoạch tích trữ lương thực nuôi quân chiến đấu, giành dân với lực lượng không Cộng sản.
4/- Sau cùng những trận oanh tạc của Đồng Minh
Người ta không quên được những trận oanh tạc khủng khiếp của Đồng Minh mà đứng đầu là Hoa Kỳ, đêm ngày oanh kích những địa điểm chiến lược nông công nghiệp trọng yếu để phá tan hệ thống giao thông đường sắt và đường bộ, những đường tiến quân của quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản ở Việt-Nam, nhất là ở miền Bắc, xây dựng cơ sở hậu cần để yểm trợ tiền tuyến, hầu tiến quân xuống các hải đảo Đông Nam Á và phía Nam Thái B́nh Dương.
Chiến tranh không lực đă góp phần quan trọng vào việc làm đ́nh trệ tất cả sinh hoạt vốn hạn chế ở khu vực công nghiệp, nông nghiệp và công nông dân đang sinh hoạt ở đó, nhất là tại những vùng quân đội Nhật Bản bắt buộc canh tác đay và vùng mỏ khai thác than đá, nhằm mục đích tiêu diệt khả năng tiếp vận và cơ sở hậu cần của đối phương.
6/ Thiên tai:
Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, t́nh h́nh thời tiết ngoài Bắc cũng đă góp phần trong những động lực tạo ra nạn đói. Mùa màng miền Bắc bị hạn hán và côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng 20% so với thu hoạch năm trước. Sau đó là lũ lụt xảy ra làm hư hại vụ mùa nên nạn đói bắt đầu lan dần. Mùa đông năm 1944-45 ác nghiệt thay cũng lại là một mùa đông giá rét khiến các hoa màu phụ cũng mất, tạo ra những yếu tố tai ác chồng chất giữa bối cảnh chiến tranh thế giới.
[B]Hậu quả:[/B]
Không có số liệu chính xác về số người đă chết đói, nhưng một số nguồn khác nhau ước tính là từ khoảng 400.000 đến 2 triệu người đă bị chết đói tại miền bắc Việt Nam trong thời điểm này. Tháng 5 năm 1945, bảy tháng sau khi trận đói bùng nổ tại miền bắc, toà khâm sai của triều đ́nh Huế tại Hà Nội ra lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc tŕnh về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết v́ đói ở miền bắc là hơn 380.000, chết v́ bệnh – không rơ nguyên nhân – là hơn 20.000, tổng cộng 400.000 cho riêng miền bắc. Tháng 10 năm 1945, theo báo cáo của một quan chức quân sự của Pháp tại Đông Dương khi đó là tướng Mordant th́ khoảng nửa triệu người chết. Toàn quyền Pháp Jean Decoux th́ viết trong hồi kư của ông về thời kỳ cầm quyền tại Đông Dương "À la barre de l’Indochine" – là có 1 triệu người miền Bắc chết đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán là từ 1 đến 2 triệu
[B]H́nh ảnh:[/B]
[IMG]http://images.yume.vn/blog/200906/10/13795081244606627.jpg[/IMG]
[IMG]http://img.tamtay.vn/files/2009/04/26/Banmaitinhyeu138/blog_images/4a18065d_maidan01.jpg[/IMG]
[IMG]http://www.nguoihanoi.com.vn/uploads/doi.gif[/IMG]
Những câu chuyện đằng sau nạn đói
Thảm cảnh quê nhà
Hơn 2 triệu người đă chết v́ đói... Cả nhà đói, cả ḍng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005 này, chúng ta hăy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi đau ấy...
Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hănh. Nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc ḿnh. Những người đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đă chết trong sự đày đọa đến tận cùng của cái đói.
Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây tṛn một ṿng quay 60 năm của vũ trụ.
Tiết xuân thanh khiết, đằm ngọt trong gió lành và lộc biếc. Con đường phẳng rộng thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa chiêm xanh non trải từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời.
Từ thành phố Thái B́nh xe chạy chừng nửa tiếng đồng hồ th́ đến xă Tây Lương, huyện Tiền Hải. Làng quê khang trang như phố; người xe vui như hội. Cảnh thái b́nh no ấm đầy căng trong tiếng trẻ nô cười. Nhưng 60 năm trước, nơi đây là một địa ngục thảm khốc...
Bàn chân quỷ đói
Ông lăo khoan thai quắc thước không giấu vẻ măn nguyện của cảnh đề huề phúc lộc. Ông là Lại Thanh Hằng, người thôn Trung Tiến, tuổi 77, sức vẫn khang cường, vợ chồng yên ấm, nhà cửa đàng hoàng. Gần chục người con đều đă nên gia thất, tài danh hưng vượng. Nhưng câu chuyện của 60 năm xa xưa ấy đă làm ông bật khóc. Tiếng nấc khô khốc và giọt nước mắt người già thấm qua những nếp nhăn sâu hằn, bật lên nỗi đau khổ tột cùng.
Ông kể: Ngày ấy, gia đ́nh ông cũng như bao nông dân khác nối đời sống bên ruộng lúa, vườn khoai. Cái bóng của đồn Tây và cổng đ́nh bao năm đè nặng kiếp người. Đường làng khi in thêm dấu giày lũ Nhật lùn th́ cuộc sống ngày càng ngột ngạt bởi sưu cao thuế nặng. Cái khô ngái của giong, khoai, củ chuối... ngày một đậm đặc trong nồi cơm.
Thế nhưng nạn đói tàn khốc nhất lịch sử chính thức ập đến từ vụ mùa năm 1944. Năm ấy điềm trời hung gở khác thường. Không chỉ cánh đồng mấy trăm mẫu của Tây Lương mà khắp nơi đâu đâu lúa cũng chết vàng. Lúa dâu, lúa di, lúa tám đều bị hoàng trùng (nay gọi là rầy) phá hết. Nhà ông cấy 2 mẫu nhưng sau khi trừ tô thuế đem về được hơn 1 tạ thóc. Đó là lương thực của bốn người lớn trong suốt sáu tháng dài ṛng ră.
Bố mẹ ông bàn tính ǵ đó rồi mỗi bữa cơm cắt bớt phần gạo. Dần dần bớt cả bữa ăn. Năm đó ông 17 tuổi, sức đương trai nhưng mỗi ngày cũng chỉ có nửa bát cơm, hai củ khoai. Sau rồi mỗi sáng ông đi chăn trâu, mẹ ông cho một nắm thóc rang vừa đầy một ḷng bàn tay. Ông gói qua mấy lần lá rồi vài tiếng lại lấy ra vă vào mồm nhai cả trấu, chia đều cho cả ngày dài.
Đêm đêm gia đ́nh ông h́ hụp ngoài sông Sứ cất vó tép. Ba, bốn người ngoi ngóp cả đêm may ra hôm sau đem ra chợ đổi được một chén thóc. Có hôm không ai mua th́ đem về đổ vào nồi nấu cháo. Đầu tháng Giêng, mẹ ông bắt đầu đem nồi đồng, mâm, ấm, lư hương, tủ thờ... đi bán.
Rồi bố ông dắt trâu xuống huyện cầm cố đem về được 2 yến thóc. Mẹ ông giấu lúa vào b́, lấy gỗ đá, cối xay chất lên làm sao để không ai có thể lấy ra được. Chỉ ḿnh bà biết một cái lỗ thông bằng mắt trâu có thể thọc tay móc ra ít một. Thỉnh thoảng bố ông nói: “Bọn cướp đang ŕnh nhà ḿnh...” rồi ông kê chơng ngủ bên ngoài với một cái thuổng sắc.
Nhà ông bắt đầu phải giết chó, giết lợn, giết gà… Không chỉ để ăn, mà bởi cũng không c̣n ǵ để nuôi nó. Có nhà phải giết chó mẹ và 4 chó con vừa mở mắt. Hết gia súc, gia cầm, người ta đào củ chuối, hái rau rệu, rau má, bẻ cây ngô, ṃ ốc, đào cua, bắt cà niễng, cào cào, châu chấu… để ăn. Cầm cự đói, nhà ông cùng dân làng ra đồng bắt chuột.
La liệt người chết Aoi. Ảnh tư liệu
Chuột năm ấy chậm chạp, lại dạn người có lẽ cũng v́ đói và liều nên rất dễ bắt. Thời gian đầu c̣n chuột th́ chúng được nấu giả cầy, nướng lá chanh, hấp chấm muối, bó gị... Nhà ông c̣n kho đến mấy nồi đất toàn chuột nấu đông ăn dần. Sau hiếm chuột. Bắt được một con cả nhà mừng như phá cỗ, nướng qua loa rồi xé vội vàng ăn...
Tất cả các loại cây đu đủ, dứa dại, chuối, giong... ngoài đường, trong vườn đều bị đốn ăn không c̣n một mống. Có gia đ́nh đói quá nghiền trấu, trộn mùn cưa vào cháo ăn. Cháo ít hồ dần, cuối cùng toàn mùn cưa với trấu. Làng bên c̣n có người ăn cả đất. Lại có người ngày nào cũng chạy theo mấy con ngựa của Nhật, Tây để hốt phân của nó về đăi lấy hạt ngô chưa bị tiêu hóa để ăn...
Cái đói giày ṿ, đày đọa con người đến cùng cực. Nó cào ruột suốt ngày đêm. Nó mở banh con mắt không cho ngủ. Nó kéo bàn chân lê khắp ruộng, khắp làng. Nhà ḿnh đói, làng ḿnh đói th́ nhà người ta, làng người ta cũng đói nên có ǵ đâu mà kiếm. Nhưng cái đói nó không cho ngồi, nó bắt phải đi. Kể cả đi đến nơi mà hôm qua vừa bỏ về…
Làng quê tan hoang xơ xác. Cỏ dại lút đầu gối mọc khắp đường đi, sân nhà, ngơ xóm. Tiếng trẻ con khóc như mèo hoang ai oán suốt đêm. Người người đổ hết ra đường, lê la ngoài bụi chuối, cánh đồng. Cái lạnh thấu xương, bóng đêm đen đặc xuyên qua cái tết lúc nào chẳng hay… Cả thế gian là một màu vàng vọt, xiêu vẹo của đói và đói... Bắt đầu đă có người chết đói trong làng…
Người khiêng xác
Chỉ ra vườn chuối phía sau nhà, ông Hằng nghẹn ngào nói: “Cái chết đau thương nhất đối với tôi là bác Ngảnh, đó là bác ruột tôi và cũng là một trong những người đầu tiên của thôn chết đói.
Thật ra th́ bắt đầu khoảng rằm tháng Giêng đă có người chết đói ngoài chợ, ngoài đồng. Những gương mặt phù thũng, những ánh mắt thất thần, những thân h́nh tiều tụy dúm dó bên đống rạ, bụi chuối... đă mang nặng bóng dáng của thần chết rồi.
Nhưng nửa đêm nghe tiếng khóc khô khản vẳng ra từ nhà người thân th́ tôi thật sự hăi hùng. Bác Ngảnh chết lạnh cứng đờ, người co quắp trong ổ rơm. Lật thân h́nh da bọc xương, dúm dó trong mấy miếng vải rách nát, tôi thấy mấy sợi rơm c̣n vương trong miệng bác. Đó cũng là người đầu tiên trong họ nhà tôi chết đói”.
Khiêng người bác ra đồng chôn, về đến nhà lại có người nhờ bố con ông Hằng đi chôn người chết. Và bắt đầu từ đấy người chết đói trong làng đếm không xuể. Bố con ông Hằng là một trong số ít người c̣n đủ sức để chuyên đi chôn người chết.
Hồi tháng hai, tháng ba, người chết c̣n được chôn bó chiếu. Sau đến tháng tư, năm cả làng chết đến mấy trăm người th́ không ai c̣n sức, chẳng nhà nào c̣n đủ chiếu chăn th́ bó xác người bằng vó, bằng lưới, vùng biển th́ bằng mảnh buồm. Có khi bó một người lớn với hai ba đứa nhỏ trong một tấm vó.
Ông Hằng thấp hơn nên thường đi trước. Ông nhớ có hôm ḿnh phải đi chôn 4-5 người, mệt quá không nhấc cao tay lên được. Cái đầu người chết thả trễ xuống đất cứ đập b́nh bịch vào gót chân ông theo mỗi bước đi. Ông Hằng trở thành người chuyên chôn xác đói lúc nào không hay.
Bà Hoàng Thị Chén, 87 tuổi, người thôn Hiên, nói: thôn này lúc cao điểm một ngày chết mấy chục người. Cả người thôn ḿnh lẫn người nơi khác đến đây rồi chết.
Cứ sau mỗi đêm lạnh là lại la liệt xác người trong nhà ngoài ngơ, giữa đồng. Tuần đinh lấy dây buộc vào cổ tay, cổ chân, cổ họng người chết rồi kéo lê ra hố quăng xuống. Sau này chồng bà cùng những người khác đào hố lên thấy có những đám cả 4-5 người bị chôn ở tư thế ngồi, họng c̣n thắt sợi dây thép.
Ông Lê Văn B́nh ở huyện Đông Hưng c̣n kể: bấy giờ ở những khu phố hay cổng làng nhà giàu, quan lại người ta c̣n phải thuê người đem xác dân chết đói đi chôn, tránh thối rữa trong làng xă, khu phố. Giá ban đầu là một đồng một xác người, sau hạ xuống 5 rồi 3 hào. Có tay làm ăn dối trá, đào hố nông choèn, vùi lấp qua loa. Vài ngày chuột, quạ, sâu bọ lại bới lên thối không chịu được...
Theo giáo sư Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện Sử học VN, ngoài các chính sách tô cao thuế nặng, Nhật c̣n đưa ra một “chương tŕnh kinh tế chỉ huy” nhằm thực hiện một cách triệt để chủ trương phát xít của ḿnh.
Cụ thể, bắt đầu từ ngày 6-5-1941 Nhật buộc Pháp kư một hiệp ước kinh tế yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng năm.
Bốn năm liền từ 1941-1944 Nhật - Pháp đă kư bốn hiệp định giao nộp lúa, ngô cho Nhật mỗi năm từ 700.000 - 1,3 triệu tấn, tương đương 50-80% tổng sản lượng lương thực VN thời đó.
Để phục vụ chiến tranh, phát xít Nhật c̣n cần rất nhiều nguyên liệu từ những cây trồng có sợi, có dầu như đay, gai, bông, thầu dầu... nên chúng đă bắt rất nhiều vùng quê nhổ lúa trồng đay và các loại cây trên.
Tài liệu của người Pháp thống kê: năm 1944 VN trồng tới 45.000ha đay, gấp chín lần diện tích của năm 1940 do 10 công ty độc quyền của Nhật thu mua, chế biến, kinh doanh thứ cây này.
Cũng theo tài liệu trên, chiến tranh của đồng minh với Nhật tại Đông Dương khiến 50% hệ thống giao thông Nam - Bắc VN bị phá hủy, 90% phương tiện vận tải bị hư hỏng khiến việc đưa lương thực cứu trợ từ Nam ra Bắc càng thêm khó khăn.
Chiến tranh làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đă lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói.
Quang Thiện (Tuổi Trẻ)