PHẦN IV ÔNG TRÙM MAFIA Al CAPONE
Capone ḱm nén sự tức giận của ḿnh trong 5 tuần sau đó, cho đến khi Jack Guzik, bạn hắn, bị tay côn đồ tên Joe hành hung. Capone đă t́m Joe để trút hận. Vừa dứt lời khinh miệt với Capone th́ Joe phải trá giả: Ṇng súng của Capone hướng về phía hắn toé lửa.
William H. McSwiggin, người được mệnh danh là "công tố viên treo cổ", quyết định bắt giam Capone. Nhưng sự mẫn cán không đủ giúp ông chiến thắng bởi đột nhiên, các nhân chứng quên hết những ǵ họ biết. Lần đó, Capone không phải chịu h́nh phạt nào về tội giết người, song tiếng xấu của hắn lan tràn toàn thành phố. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, hắn đă phá vỡ mẫu h́nh kinh doanh ngầm của Torrio.
Giàu có và đầy thế lực, Al trở thành một tên tội phạm với pháp luật của riêng ḿnh. Hắn biết rằng một trong những đám ma tiếp theo có thể tiễn đưa quan tài của chính ḿnh. Một phần v́ từ khi hắn ra tay giết người, ḥa b́nh mỏng manh giữa các băng nhóm tội phạm mà Torrio dày công xây dựng chẳng mấy chốc tan biến. Các vụ thanh toán diễn ra liên miên như một bệnh dịch.
Cái tên Capone trở thành một địa chỉ quen thuộc cho sự nghi ngờ của cảnh sát mỗi khi xảy ra một vụ giết người nào đó, dù rằng nhiều khi những vụ đó là do kẻ khác gây ra. Một ví dụ là vụ Dion O’Banion, chủ cửa hiệu bán hoa và kinh doanh rượu lậu. Với khuôn mặt trẻ trung và hấp dẫn, Dion chưa bao giờ gặp rắc rối trong công việc làm ăn kinh doanh. Hắn luôn mỉm cười và đôi mắt xanh như pha lê thường ánh lên vui vẻ khi giao tiếp với người khác. Tuy nhiên, chưa bao giờ hắn thiếu cảnh giác. Hai tay của Dion không lúc nào rời xa 3 khẩu súng côn mà hắn dắt trong người. Gă côn đồ bảnh trai này rất nổi tiếng về cung cách giết người theo cảm hứng ngu xuẩn. Hắn từng bắn hạ một người trong đám đông hàng ngh́n dân chúng chẳng v́ lư do cụ thể nào. Án mạng ở quán Four Deuces cũng vậy. Những vụ án vô ích đó lôi kéo Al Capone vào các cuộc điều tra của cảnh sát.
Al thấy đă tới lúc phải loại trừ Dion trước khi gặp phải những rắc rối lớn hơn. Và vận may đă đến: Dion có mâu thuẫn với anh em nhà Genna, bạn thân của Torrio. Căi vă nổ ra khi anh em Genna bán rượu lậu tại khu vực do Dion quản lư, và việc này liên quan tới luật lệ giang hồ. Dion đă phản công lại bằng cách cướp nguyên cả một xe tải chứa đầy rượu của đối thủ. Vụ này đặt Torrio vào t́nh thế khó xử, nhưng chính O’Banion lại đề ra lối thoát cho hắn bằng cách đề nghị sẽ chuyển tới vùng khác nếu Torrio đồng ư mua lại phần của hắn tại Sieben. Biết tin cảnh sát sắp tiến hành truy quét, O’Banion đă t́m cách cho Torrio mắc bẫy.
Sự dại dột của Dion đă quyết định số phận của hắn. Mike Merlo, tên cầm đầu Hiệp hội người Sicile tại Chicago, chết v́ bệnh ung thư. Dion với trách nhiệm của một người bán hoa, đóng một vai tṛ lớn trong đám ma của hắn. Frankie Yale, kẻ đứng đầu gangster ở New York, cùng Torrio và Capone quyết định rằng Angelo Genna, kẻ vừa bị Dion chơi khăm, sẽ lên nắm quyền thay cho hắn tại Chicago.
Ngày 10/11/1924, Dion đang chuẩn bị hoa cho đám tang th́ 3 tên gangster đi vào cửa hàng. Những người giúp việc lúc đó đều vắng mặt. Nghĩ rằng họ đến đặt hoa, Dion bước ra bắt tay. Một tên tóm lấy O’Banion và đấm hắn ngă xuống mặt đất. Những người làm công trong cửa hàng nghe thấy tất cả 6 tiếng súng. Họ chạy tới nới th́ ông chủ đă nằm trong một bể máu. 3 hung thủ biến mất. Hai người trong số đó là John Scalise và Albert Anselmi, người Sicili. Kẻ thứ 3 có thể là Frankie Yale hoặc Mike Genna. Tất cả bọn chúng đều không đến dự đám ma Dion.
Đám ma của Dion khá kỳ lạ. Xung quanh 4 mặt của quan tài là những họa tiết bằng bạc được làm rất cầu kỳ. H́nh các thiên thần bằng bạc được khắc chạm ở phía đầu và phần cuối của chiếc quan tài trong dáng đang cúi xuống về hướng 10 ngọn nến cháy sáng trên đế làm bằng vàng. Và trên khắp quan tài là các loài hoa thơm.
Nhưng mùi hoa thơm trên quan tài của hắn không thể sánh với mùi thơm tỏa ra từ những phụ nữ xức nước hoa, trong những bộ quần áo bằng da thú từ đầu đến chân, đi dọc theo hai bên xe tang với những người đàn ông mặc đồ lễ phục đen.
Người ta dự tính có tới 10.000 người đến dự đám ma lớn này, c̣n khoảng 5.000 người khác dự lễ hạ huyệt. 26 chiếc xe chở đầy hoa được 3 dàn nhạc lớn và cảnh sát hộ tống tới nơi an nghỉ cuối cùng của Dion.
Đám ma đó là dịp để Torrio và Capone ăn mừng việc chúng quay trở lại vị trí dẫn đầu địa hạt kinh doanh bất hợp pháp béo bở tại Chicago. Điều chúng không tính tới là hậu quả mà cái chết của Dion mang tới, bởi một người bạn của kẻ nằm trong quan tài, “Hymie” Weiss, biết rơ ai gây ra cái chết cho bạn ḿnh. Và hắn chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để trả thù.
Cùng với hắn, đối thủ khác mà Capone và Torrio phải đề pḥng là Bugs Moran, một kẻ từng liên kết với Dion. Tên thật của Weiss là Earl Wajciechowski. Geogre Moran được giang hồ gán cho biệt danh “Bug” v́ hắn là một kẻ giết người điên khùng.
Torrio thực sự lo cho mạng sống của ḿnh, v́ vậy hắn quyết định sẽ rời Chicago một thời gian. Hắn tới suối nước nóng tại Arkansas để ẩn náu. Capone cũng t́m cách đảm bảo an ninh tối đa cho ḿnh. Trong suốt 2 năm tiếp theo, hắn trở thành mục tiêu của hàng chục cuộc mưu sát không thành.
Capone lúc nào cũng cảnh giác. Trừ khi ở nhà, hắn luôn có hàng hàng lớp lớp vệ sĩ trang bị đầy đủ vũ khí bao quanh. Hắn không bao giờ đi ôtô mà lại không có hai vệ sĩ ngồi kèm hai bên và người lái xe cũng được vũ trang phía trước. Hắn luôn đi ra ngoài vào ban đêm, trừ trường hợp bất khả kháng.
Tháng 1/1925, 12 ngày sau khi có vụ ám sát gần nhất của Weiss- Moran nhằm vào Capone, Johnny Torrio trở lại Chicago. Hắn và vợ tới trước cửa căn hộ của ḿnh. Torrio đi phía sau vợ, tay xách gói hàng họ mới mua ở siêu thị. Weiss và Bugs Moran chạy ra khỏi xe ôtô nấp gần đó. Nghĩ rằng Torrio chưa ra khỏi xe, chúng văi đạn về phía chiếc ôtô, làm bị thương người lái. Song chúng vẫn kịp sửa chữa sai lầm bằng những phát đạn trúng cổ, ngực, tay phải và đùi Torrio. Moran c̣n chĩa súng vào thái dương Torrio bóp c̣, nhưng súng hết đạn. Hai tên giết người liền bỏ chạy.
Torrio thoát chết nhưng Capone rất lo lắng. Hắn nhận ra Chicago không phải là nơi an toàn cho một ông trùm có nhiều kẻ thù. Capone tự tay lo liệu việc bảo vệ an toàn cho quân sư của ḿnh. 4 tuần sau khi bị ám sát hụt, Torrio làm cho mọi người ngạc nhiên khi chịu xuất hiện tại ṭa xét xử vụ bắt bớ tại Sieben Brewery. Hắn bị kết án 9 tháng tù. Nhờ bản án này, Torrio trở thành “bạn thân” của cảnh sát trưởng Chicago. Hắn được đối xử như một quư ông trong thời gian bị giam.
Đây là lúc Torrio thay đổi. Hắn không c̣n muốn tiếp tục cuộc sống đầy nguy hiểm của một tên gangster nữa. Hắn muốn sống nốt phần đời c̣n lại trong yên b́nh với số tiền mà hắn đă tích lũy được. Tháng 3/1925, Torrio gặp Al trong nhà tù Waukegan và cho biết sẽ chia tay Chicago ra nước ngoài sinh sống khi hết hạn tù. Torrio để lại cho anh em nhà Capone tất cả những doanh nghiệp đang c̣n sinh lời của hắn. Đó là những hộp đêm, nhà chứa, ṣng bạc và quán rượu. Quyền lực của Capone đột ngột tăng lên không có giới hạn.
PHẦN V : ÔNG TRÙM MAFIA Al CAPONE
[IMG]http://i52.tinypic.com/xleanq.jpg[/IMG]
ÔNG TRÙM MAFIA Al CAPONE 1925
Được hưởng trọn "đế chế" của Torrio, Al Capone trở thành kẻ thống trị thế giới ngầm Chicago. "Lên ngôi" mới, hắn chuyển trụ sở tới khách sạn Métropole, một khu nhà sang trọng gồm 5 phần lớn với giá thuê 1 500 USD/ngày.
Mối quan hệ bạn bè với chủ bút Harry Read làm Al hiểu rằng nếu muốn thành công hơn nữa trong làm ăn, hắn phải thực sự trở thành một người quan trọng trong con mắt mọi người. Read khuyên Al tham gia các hoạt động xă hội công khai và tỏ ra thật "dễ thương" trước công luận. Kể từ đó, hắn xuất hiện thường xuyên ở các buổi biểu diễn Opera, tại những buổi tiếp tân long trọng và những dạ hội từ thiện. Vui vẻ, hào phóng, thành đạt, luôn giúp đỡ người nghèo..., tất cả giúp Al trở thành người có uy tín trong cộng đồng.
Tuy nhiên, có mặt thường xuyên trên mặt báo mới chỉ là một nửa công việc. Phần thứ hai là phải có ảnh hưởng về mặt chính trị. V́ lư do đó mà hầu như ngày nào, Capone cũng tới nơi hội đồng thành phố họp. Hắn dùng quyền lực đen của ḿnh để làm những việc chứng tỏ ḿnh lúc nào cũng sẵn sàng thực thi công việc mà cộng đồng giao phó.
Những việc như hắn làm kể trên. không phải là điều hay xảy ra trong thế giới ngầm, nơi những tên tội phạm phải ẩn náu trốn tránh dư luận.
Tháng 12/1925, Al tới New York và gặp lại ông chủ cũ của ḿnh, Frankie Yale, để bàn công việc. Chúng bàn thảo về việc buôn bán whisky nhập lậu từ Canada vào Mỹ. Lúc đó, Yale nhập whisky về New York dễ hơn nhiều so với việc Capone nhập rượu về Chicago. Cả hai đồng ư để Capone lo việc vận tải tới Chicago.
Yale mời Al tới dự lễ Noel tại một Câu lạc bộ khá sang trọng tại Brooklyn. Nhưng khi biết bữa tiệc đó sẽ bị một tên gangster khác tên là “Peg-Leg” Lonergan phá quấy, Yale đổi ư. Song Capone vẫn khăng khăng tới đó như đă định, v́ hắn đă chuẩn bị đầy đủ. Và thực tế diễn ra đúng như vậy, Lonergan và thuộc hạ có mặt tại nhà hàng từ 3 giờ sáng, lộ rơ mặt gây sự. Nhưng chưa kịp rút súng th́ đă bị Capone bắn chết ngay tại chỗ.
Vụ tàn sát chỉ là một phần của tṛ chơi mới. Đó là cách gangster Chicago thể hiện trước các đồng nghiệp New York, rằng Chicago là thủ đô của xă hội đen, c̣n New York, chỉ là vùng phụ cận nhỏ bé.
Đầu năm 1925, Capone trở lại Chicago. Lúc đó hắn đă là một ông trùm thực thụ, "ghi công" trong lịch sử tội phạm nước Mỹ bằng việc sáng tạo ra những cách nhập khẩu rượu lậu mới. Những thanh thiếu niên thích phiêu lưu, kiếm tiền đều có thể đạt được mong muốn của ḿnh khi làm đại lư bán lẻ rượu lậu cho Al Capone.
Ṿng hào quang trên đầu Capone vụt tắt vào mùa xuân năm 1926. Ngày 27/4, Billy McSwiggin, luật sư đă từng buộc tội Capone vào năm 1924 về tội giết Joe Howard, cùng trùm rượu lậu Jim Doherty đi uống rượu và đánh bạc. Xe của Doherty bị hỏng và họ phải lên xe của “Klondike” O’Donnell, một tên bán rượu lậu khác, kẻ thù của Capone. Cả bốn người quyết định tới quán rượu ở Cicero cùng anh trai của Klondike tên là Myles O’Donnell. Bar rượu này gần Hawthorne, nơi Capone đang ăn sáng.
Việc O’Donnell đi dạo quanh Cicero quả là một sự sỉ nhục với Capone v́ đây là địa phận của hắn. Và hắn quyết định rửa nhục. Thuộc hạ của Al ngồi trong xe đợi bốn người ra khỏi quán. Các khẩu súng xả đạn, McSwiggin và Doherty chết tại chỗ.
Capone rất dại dột khi làm việc đó. Đúng là McSwiggin chết cùng với những tên bán rượu lậu, nhưng công chúng tỏ ra rất thông cảm với anh. Vậy là cả thành phố dấy lên một phong trào chống lại Capone.
Giới tội phạm Chicago biết rơ Al Capone là người có trách nhiệm trong vụ này, song cảnh sát không t́m được chứng cứ nào có thể kết tội hắn. Họ chỉ c̣n cách trả đũa Al bằng những cuộc truy quét các nhà chứa và quán rượu.
Capone biến mất. Gần 300 thám tử tham gia t́m kiếm hắn trên toàn nước Mỹ, tại Canada và cả ở Italy. Thực tế là Capone đă t́m ra chỗ ẩn nấp với một người bạn tại Chicago và sau đó ở chỗ một người bạn khác tại Michigan.
3 tháng hè trôi qua mà không có tin tức ǵ đáng kể về Al. Người ta bắt đầu nh́n hắn bằng con mắt khác: hắn không chỉ là một gangster đă thành công mà c̣n là nhà tài trợ hào phóng của cộng đồng Italy, một người chuyên làm phúc cho người khác. Những hoạt động bất hợp pháp giúp cho hàng ngh́n người có việc làm, trong số đó có nhiều người Italy nhập cư. Dù phần lớn việc cứu trợ người nghèo của Al có nguồn gốc từ sự tự măn cá nhân, song thực sự Capone đă có công phần nào đó trong việc đóng góp cho phúc lợi xă hội ở cộng đồng nơi hắn sinh sống. Thêm vào đó, thực sự hắn đă nghĩ tới chuyện “về hưu”, từ bỏ thế giới tội phạm đầy bạo lực giết chóc.
Biết rằng không thể lẩn trốn măi, Capone lên một kế hoạch khá nguy hiểm. Hắn quyết định thảo luận việc ra đầu thú với cảnh sát Chicago. Đó là bước đầu tiên trong để quay về cuộc sống lương thiện mà hắn thèm muốn. Sau đó hắn sẽ t́m cách bác bỏ lời cáo buộc về sự dính líu trong các vụ giết người. Hắn sẽ dùng số tiền khổng lồ tích cóp được để mua chuộc, dụ dỗ những nhân viên của bộ máy pháp lư. Và cuối cùng khi trắng án, hắn sẽ trở thành người anh hùng của cộng đồng người Italia nhập cư.
Ngày 28/7/1926, Capone quyết định ra đầu thú để trả lời các câu hỏi về cái chết của McSwiggin. Đó là một quyết định khôn ngoan v́ cho tới lúc đó, cảnh sát vẫn chưa có chứng cứ nào để kết tội hắn. Sau tất cả những áp lực mà cộng đồng dân cư - những người mang ơn hắn, và nỗ lực của các quan chức cảnh sát bị mua chuộc, Capone được tự do.
Trong vai mới của kẻ kiến tạo hoà b́nh, hắn t́m cách nối quan hệ với Hymie Weiss, dù rằng tên này đă từng có âm mưu ám sát hắn. Al đề nghị dành cho Hymie một phần thị trường béo bở để đổi lại sự yên b́nh và an toàn cho bản thân ḿnh. Nhưng Weiss từ chối lời đề nghị hấp dẫn đó. Hôm sau, Weiss bị bắn hạ khi mới có 28 tuổi.
Người dân tại Chicago đă chán ngấy các vụ bạo lực giữa các băng nhóm tội phạm, và thông tin của báo chí càng làm họ rất công phẫn. Thấy trước t́nh huống này, Capone tổ chức một “hội nghị hoà b́nh” giữa những kẻ chuyên buôn bán rượu lậu. Hắn đề nghị giảm bớt căng thẳng giữa các băng nhóm và chấm dứt dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn. Hắn nói: “Có quá nhiều việc để chúng ta làm thay v́ cứ giết lẫn nhau như những con vật. Tôi không muốn chết gục trên vỉa hè, người dính toàn đạn”. Và hắn đă thành công, cuộc họp kết thúc với việc thành lập một ban điều hành chung cho những tên tội phạm. Có hai điểm nêu ra trong “cương lĩnh” của lũ kẻ cướp: Thứ nhất, sẽ không có các vụ bắn giết nữa, và thứ hai, không được phép trả thù cho những tên gangster đă chết. Trong suốt 2 tháng sau hội nghị, những băng nhóm tại Chicago đă biết giữ lời, không có thêm xác chết nào trên đường phố.
Mọi chuyện ổn định cho tới tháng 1/1927, khi người ta t́m thấy xác của Theodore Anton, biệt danh “Tony-Hy lạp”, bạn thân nhất của Capone. Cái chết gây cho Al cảm giác bất ổn. Hắn hiểu đă đến lúc phải “rửa tay gác kiếm”. Hắn mời một nhóm nhà báo tới dùng bữa tối tại một nhà hàng để thông báo với họ quyết định của ḿnh. Al thật sự nghiêm túc hay là đang diễn tṛ? Không ai biết chắc câu trả lời. Người ta đoán hắn không muốn chết với một viên đạn ghim vào đầu, nhưng sự khao khát quyền lực và phiêu lưu của hắn đă khiến cho quyết định trên bị lùi lại rất lâu trong thực tế.
Thị trưởng Chicago Denver bất lực trước nạn tội phạm. Trong lúc đó, nhờ sự hậu thuẫn của nhiều vị tai to mặt lớn trong giới tội phạm, “Big Bill” Thompson giành lại được chiếc ghế thị trưởng trong cuộc bầu cử năm 1927. Người dân lương thiện lo rằng cả thành phố sẽ măi măi là trong ṿng kiểm tỏa của bọn gangster.
Năm 1927, Toà án Tối cao Mỹ quyết định đánh thuế và truy thu với trùm rượu lậu Manny Sullivan. Điều luật mang tên hắn được chính quyền liên bang đưa ra tạo điều kiện cho cảnh sát, cụ thể là thám tử Elmer Irey, theo dơi và điều tra mọi hoạt động kinh doanh của Al Capone.
Không hề biết, và cũng chẳng thèm quan tâm tới "đồng nghiệp" Manny Sulivan cũng như đối thủ Elmer Irey, Capone đă lấy lại được sự tự tin thường ngày. Hắn giải trí với hai sở thích là âm nhạc và đấm bốc, rồi trở thành bạn của nhà vô địch quyền anh thế giới Jack Dempsey. Nhưng mối quan hệ của họ được giữ trong ṿng bí mật bởi có những cuộc đấu được dàn xếp mà cả hai dính vào. Al rất thích nhạc Jazz. Cùng lúc khai trương quán nhạc Jazz Câu lạc bộ Cotton tại Cicero, Al trở thành người sản xuất. Hắn phát hiện và tham gia đào tạo cho hàng loạt ca sĩ nhạc Jazz da đen nổi tiếng trong thời kỳ đó. Khác với những tên gangster cùng thế hệ khác, Al là người không phân biệt chủng tộc và hắn rất được các nhạc sĩ người da màu kính trọng. Capone luôn tỏ ra hào phóng với mọi người làm việc cho ḿnh, không kể màu da.
Hắn không bao giờ áp bức, hành hạ hay đánh đập người khác, mặc dù luôn đe doạ sử dụng các h́nh phạt khốc liệt. Hắn chủ yếu khơi dậy niềm hứng khởi ở tay chân ḿnh. Khi làm được điều đó, hắn có được sự trung thành của họ. Với hắn, sự trung thành của đàn em là điều quan trọng, cốt yếu nhất trong việc duy tŕ sự trị v́ của ḿnh. Hắn luôn thích nghe lời tuyên bố hắn là bạn của họ, v́ như thế có nghĩa là người nói câu đó không coi thường những việc làm và tiếng tăm nhơ nhớp của hắn.
Al Capone từng phát biểu với giới báo chí: “Phục vụ công chúng luôn là mục tiêu của tôi. Có tới gần 90% dân Chicago suốt ngày chơi đùa và uống rượu. Tôi cố gắng cung cấp cho họ đủ số rượu chất lượng cao và những tṛ chơi vui vẻ. Trong khi đó, tôi lại không được coi trọng chỉ v́ tôi giàu có”.
Phần VI : Ông Trùm Mafia Al Capone
Từ khi quay trở lại Chicago, Al luôn bị 6 cảnh sát theo sát, và họ luôn sẵn sàng rút súng khi có chuyện. Những người này được lệnh phải làm cho cuộc sống của Al khó chịu tới mức tối đa. Họ lượn qua lượn lại trước cửa nhà hắn và bất cứ chuyện ǵ xảy ra, dù lớn dù nhỏ, cũng đều yêu cầu hắn tới trụ sở cảnh sát tŕnh diện.
Quá mệt mỏi, Capone rời khỏi Chicago để tới Miami, nơi có khí hậu dễ chịu hơn. Nhưng sự đón tiếp mà hắn nhận được từ phía chính quyền sở tại cũng chẳng có ǵ "nồng hậu" hơn. Hắn, Mae và Sonny thuê một căn nhà lớn trong mùa đông năm đó và bắt đầu t́m kiếm nơi định cư chính thức. Qua trung gian nhà đất, Al mua căn nhà 14 pḥng kiểu Tây Ban Nha tại số 93 đường Palm Island. Trong nhiều tháng sau đó, hắn sửa chữa lại căn nhà, biến nó thành một pháo đài nhỏ có tường bằng bê tông và những cánh cửa gỗ nặng chịch.
Khu vực Palm Island rơi vào tầm ngắm của thám tử Elmer Irey. Ông giao nhiệm vụ điều tra tài chính của Al cho Frank J. Wilson. Đây là một công việc khổng lồ v́ mọi khoản tiền lớn của Al đều đi qua một người thứ ba giấu mặt. Và dù rằng hắn rất giàu, tất cả các khoản thanh toán hay chuyển nhượng đều được thực hiện bằng tiền mặt. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất đó là khoản tiền dùng để mua ngôi nhà ở Palm Island. Nó là bằng chứng cho một nguồn thu vô cùng lớn của Al.
Cùng lúc đó, George Emmerson Q. Johnson được bầu làm Tổng chưởng lư Chicago. Ông tập trung hết sức lực của ḿnh tấn công thế giới ngầm của Capone. Cuộc bầu cử, bắt đầu từ tháng 4/1928, xảy ra nhiều cuộc bạo lực vượt khả năng kiểm soát của cảnh sát. Nạn nhân của bạo lực không c̣n là bọn gangster, mà là chính khách. Như chính trị gia Johnson đă bị ám sát bằng bom, và những người khác như thượng nghị sĩ Charles Deneen, một quan ṭa và là một nhà cải cách cũng từng bị đe dọa tính mạng.
Thị trưởng Bill Thompson, kẻ tham nhũng hạng nặng, giờ phải chịu áp lực nặng nề v́ trong số người bị giết, có một nạn nhân là đối thủ của ông ta trên trường chính trị. Và Al Capone, dù lúc đó đang ở Florida, vẫn trở thành kẻ giơ đầu chịu báng.
Trong khi Mae Capone lo việc trang trí lại căn nhà, th́ Capone lo lót để trở thành công dân của Miami. Dù bên ngoài có vẻ là một người gương mẫu, Al vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề do ông chủ cũ của hắn, Frankie Yale, gây ra. Các hợp đồng mua bán rượu thường xuyên bị đánh cắp, và Al nghi ngờ Yale đứng đằng sau những vụ ấy. Hắn yêu cầu 6 người cộng tác với ḿnh tới Chicago để bàn bạc chuyện mua bán rượu lậu có liên quan tới Yale.
Buổi chiều ngày 1/7, Frankie Yale với mái tóc đen dưới chiếc nón Panama rộng vành, mặt bộ complet màu xám nhạt, đang uống rượu tại một quán bar ở Borough Park, th́ đột nhiên có điện thoại gọi tới. Ngay sau đó, hắn vội gác máy và đi ra xe của ḿnh đỗ cách đó không xa. Chỉ vài phút sau, tại một ngă rẽ nhỏ trên đường số 44, một chiếc xe 4 cửa màu đen chặn xe của Yale lại. Một cơn mưa đạn từ đủ loại súng: côn xoay, tiểu liên tự động... trùm lên người hắn. Vụ giết người đánh dấu lần đầu tiên một tên gangster New York bị thanh toán bằng tiểu liên Tommy.
Trong suốt mùa hè năm 1928, Capone đóng trụ sở tại khách sạn Lexington. Hắn chiếm nguyên hai tầng lầu như thể một nhà độc tài. Có những cánh cửa bí mật được đặt trong nhà để cho hắn rời khỏi đó một cách an toàn.
Rơ ràng là đối với Capone, luật cấm nấu và bán rượu không thể kéo dài măi. Đó là lư do v́ sao hắn thay đổi các hoạt động truyền thống của ḿnh. Một tờ báo về kinh tế của Chicago cho rằng vào thời gian đó, Al là ông chủ của một hiệp hội các doanh nghiệp kinh doanh bất hợp pháp. Dù cho hắn là người như vậy hay là một tên giết người chuyên nghiệp, th́ thủ đoạn của hắn vẫn không hề thay đổi. Hắn sẽ cho người ném vài viên gạch vào cửa sổ của một gia đ́nh nào đó, hoặc sai thủ hạ sát hại vài nhân mạng, rồi sau đó tập hợp một số doanh nghiệp để lập thành một “hiệp hội tự bảo vệ”. Bước tiếp theo, Al có thể thu bất kỳ mức phí nào mà hắn thích. Hắn c̣n đặt ra luật lệ về giờ đi làm và tiền lương của những nhân công trong các doanh nghiệp đó. Bất kỳ doanh nghiệp nào từ chối nộp tiền hoặc chấm dứt việc nộp tiền bảo hộ cho hắn đều sẽ bị cảnh cáo, nhẹ th́ bị đánh đập, nặng th́ có án mạng.
Capone lại gặp kẻ thù cũ, Bugs Moran. Moran đă hai lần t́m cách sát hại Jack McGurn, bạn và đồng nghiệp của Capone. Khi Capone đi nghỉ đông tại Miami, Jack đă tới thăm hắn để thảo luận về vấn đề Bug Moran và về băng đảng của ḿnh tại phía bắc. Và chúng quyết định tiêu diệt tên điên khùng này. Cả McGurn và Capone đều không nhận ra rằng, việc giết Bugs Moran có thể gây nhiều tai tiếng kéo dài cho tới hàng chục năm sau.
Bọn chúng suy đoán, sẽ không có ai phát hiện ra hung thủ, v́ lúc đó, Capone đang nghỉ tại Florida. McGurn được giao quyền điều hành vụ tấn công. Hắn tập hợp một êkíp các cao thủ ám sát Chicago, gồm: Fred “sát nhân”, Burke, James Ray - một tay súng khét tiếng, John Scalise và Albert Anselmi - hai tay súng đă tham gia vụ thanh toán Frankie Yale, Joseph Lolordo và hai tên đâm thuê chém mướn đến từ Detroit, Harry và Phil Keywell. Kế hoạch mà McGurn đưa ra khá sáng tạo. Một tên gangster sẽ mời các thành viên của nhóm Moran tới gặp tại một garage ôtô để đưa ra đề nghị về việc mua bán rượu với giá khá hời. Việc giao hàng diễn ra lúc 10h30 ngày 14/2. Thủ hạ của McGurn sẽ mặc đồ cảnh sát tới chỗ giao hàng và ra tay để không ai có thể ngờ rằng đó là một vụ thanh toán. McGurn, noi gương Capone, tránh xa địa điểm xảy ra án mạng. Trong lúc sự việc xảy ra, hắn sẽ ở một pḥng trong khách sạn với những người khác để tạo ra chứng cứ ngoại phạm cho ḿnh.
Tại garage, hai anh em Keywell nhận ra một người trông giống như Bugs Moran. Bọn chúng liền ăn mặc giả cảnh sát và lái chiếc ôtô của cảnh sát mà chúng ăn cắp được vào garage như thể đó là một cuộc bố ráp của cảnh sát. Trong garage có tất cả 7 người, bao gồm cả anh em Gusenberg - những kẻ từng tham gia vào các vụ ám sát hụt McGurn.
Những tên buôn rượu lậu, tưởng rằng bị cảnh sát bủa vây, ngoan ngoăn úp mặt vào tường. 4 tên sát thủ trong các bộ đồ cảnh sát xả súng máy vào lưng chúng. Tất cả đều chết, trừ Frank Gusenberg vẫn c̣n thở.
Lúc đó, có khá nhiều người hiếu kỳ kéo đến xung quanh khu vực hiện trường. Hai tên sát thủ mặc áo mưa tạo ra hoàn cảnh giả bằng cách bước ra khỏi khu nhà, tay giơ cao trên đầu và để cho hai “cảnh sát” mặc đồng phục bắt đi trước sự chứng kiến của những người dân quanh đó.
Vụ giết người khá hoàn hảo, trừ một điều duy nhất: Moran, cái đích của vụ ám sát, vẫn c̣n sống v́ hắn không hề có mặt trong số những người xuất hiện ở garage. Moran đến chỗ hẹn muộn vài phút và khi nh́n thấy xe cảnh sát, hắn đă nhanh chân trốn. Sau khi những kẻ giết người rời khỏi hiện trường không lâu. Cảnh sát tới ngay hiện trường và đếm được 22 vỏ đạn. Họ hỏi người c̣n thoi thóp thở trong số các nạn nhân: “Ai đă bắn?”. Hắn thều thào trả lời: “Chẳng có ai bắn tôi cả”.
Không khó khăn ǵ, giới giang hồ đoán ra ngay mục tiêu của vụ tấn công là Bugs Moran, và kẻ hưởng lợi trong vụ này, nếu nó được thực hiện một cách hoàn chỉnh và thành công, chính là Al Capone. Dù Capone lúc đó đang ở Florida c̣n McGurn th́ có một chứng cứ ngoại phạm chắc chắn, cảnh sát và cư dân của Chicago đều hiểu cặp bài trùng này là thủ phạm. Song họ không thể bắt giữ chúng v́ không đủ chứng cứ.
Ảnh hưởng của vụ thanh toán được tính toán kỹ này thật kinh khủng. Nó vượt qua ranh giới của một x́ căng đan ở địa phương và thu hút sự chú ư của cả nước Mỹ. Các nhà văn và nhà báo bắt đầu viết về Al Capone. Tác giả Bergreen viết: “Chưa có tên tội phạm nào giống như Capone. Hắn là kẻ lịch lăm, thuộc tầng lớp thượng lưu trong xă hội. Hắn là người rất trơ tráo, tiếp tục sống trong thế giới của những kẻ giàu có, tiếp tục thể hiện t́nh yêu với gia đ́nh ḿnh. Hắn đóng vai của một nhà triệu phú có khả năng dạy cho các doanh nhân kinh doanh chứng khoán tại Wall Street những bài học về kinh doanh tại Mỹ. Không ai là không biết đến hắn”.
Phần VII Ông Trùm Mafia Al Capone
"Tôi ra lệnh, tất cả lực lượng cảnh sát Liên bang Mỹ theo dơi thật kỹ ông Capone và những mối liên hệ của ông ta”,
Tổng thống Mỹ lúc ấy là Herbert Hoover đă phải phản ứng như vậy trước sự tự măn của Al Capone.
Capone đánh giá cao danh tiếng của bản thân, nhất là sau vụ vừa xảy ra. Hắn yêu cầu Damon Runyon làm thư kư báo chí cho ḿnh. Dù sao th́ công luận cũng không thể bỏ qua hành vi tự măn của một tên tội phạm trắng trợn như hắn.
Đầu tháng 3 năm 1929, Tổng thống Hoover yêu cầu Andrew Mellon, lúc đó làm Tổng Giám đốc của kho bạc Mỹ, đưa Al Capone vào danh sách những kẻ cần điều tra. Tổng thống muốn nh́n thấy Capone vào tù. Sau đó vài ngày, Al bị triệu tập tới toà án tại Chicago. Cho đến lúc ấy hắn dường như chưa nhận ra rằng cảnh sát đă tập hợp được những chứng cớ có giá đến mức nào. Với hắn, một việc quan trọng phải làm hơn việc đến nghe thẩm vấn tại toà là xử lư những kẻ có dấu hiệu phản lại ḿnh.
Nhà văn Kobler mô tả trong tác phẩm của ḿnh sau này như sau:
Al hôm nay rất vui v́ mời được 3 vị khách quư tới nhà ăn tối. Hắn chuẩn bị một bữa thịnh soạn với rượu vang và những thức ăn ngon lành. Ngồi ở đầu bàn, Capone không ngớt chúc tụng: "Nào, chúc mừng Scalise! Chúc mừng, Anselmi! Chúc mừng, Giunta!"
Đến sau nửa đêm, khi miếng bánh cuối cùng đă hết và giọt rượu vang cuối cùng đă được dốc tuột vào cuống họng lũ người háu đói, Capone đẩy ghế ra sau và từ từ đứng dậy khỏi bàn. Một không khí im lặng đáng sợ bao trùm lấy pḥng ăn. Nụ cười của hắn biến mất. Không ai c̣n cười nữa trừ 3 vị khách no nê đang phải nới lỏng thắt lưng sau một bữa “thả giàn”. Sự im lặng tăng dần, làm các vị khách quư phải ngừng miệng cười. Họ đảo mắt dáo dác nh́n quanh trong khi Capone đang trừng trừng nh́n về phía họ.
Những từ mà Al ném ra chắc nịch như đá: “Làm sao chúng mày có thể nghĩ rằng tao lại không biết ǵ? Làm sao chúng mày lại cho rằng tao có thể bỏ qua cái lỗi lớn mà tao chưa từng tha thứ là sự phản bội?”.
Capone là kẻ thích làm theo lối truyền thống, cứ đăi khách trước rồi hành quyết sau. Các vị khách Sicilia không làm cách nào tự vệ được, lần lượt để mặc bộ hạ của Capone trói gô vào ghế. Capone đứng dậy, thong thả cầm một cây gậy đánh bóng chày, lững thững bước tới chiếc ghế của vị khách đầu tiên. Dừng lại, từ phía sau, bằng cả hai tay, Al giơ cao chiếc gậy và đập xuống lưng vị khách bằng tất cả sức lực của ḿnh. Từ từ và có phương pháp, hắn đập nát xương vai, xương tay và xương ngực của vị khách quư. Hắn bước tiếp đến sau ghế của vị thứ hai, rồi tới vị thứ ba... Cuối cùng, một trong các vệ sĩ của Capone kê súng lục vào gáy của từng người và bóp c̣...
Mellon, người dẫn đầu cuộc chiến chống lại Capone, đă áp dụng phương pháp tiếp cận trên cả hai mặt trận: tiếp tục thu thập đầy đủ các bằng chứng về hành vi trốn thuế của Al và việc hắn phạm luật cấm nấu và bán rượu. Một khi các chứng cứ đă được tâp hợp đầy đủ, các nhân viên của Kho bạc sẽ tŕnh cho Tổng Chưởng lư Georges E.Q. Johnson và yêu cầu ông này ra lệnh bắt Capone cùng một số nhân vật chủ chốt trong mạng lưới tổ chức của hắn.
Người có nhiệm vụ thu thập đầy đủ các bằng chứng phạm luật cấm nấu, bán rượu của Al Capone là Thanh tra Eliot Ness. Anh ngay lập tức thành lập một đội đặc nhiệm điều tra FBI gồm nhưng người trẻ tuổi, tràn đầy nhiệt huyết như ḿnh trong công tác chống tội phạm. Người nhiệt thành nhất trong số đó là Elmer Irey, thám tử của đội điều tra h́nh sự. Irey sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh mà Tổng thống Hoover đề ra.
Lúc đó, Mellon vẫn c̣n lo rằng chưa thể kết tội Capone về tội phạm luật cấm nấu, bán rượu, nhưng ông tin chắc rằng có thể kết Capone về tội trốn thuế thu nhập.
Ít nhất là vài tháng sau đó, Capone không hề biết rằng cảnh sát toàn liên bang vẫn đang tiếp tục cuộc chiến với hắn. Tháng 5/1929, Capone bắt đầu tham gia vào “hội nghị” của gangster toàn nước Mỹ, thảo luận về việc hợp tác nhằm khôi phục những món lợi đă mất trong thời gian qua do sự tấn công của cảnh sát.
Để giảm bạo lực và bắn giết giữa các băng nhóm xuống mức tối đa, chúng đồng ư chia các Tiểu bang của Mỹ ra thành các vùng ảnh hưởng riêng. Torrio được bầu làm lănh đạo của “uỷ ban điều hành”, trọng tài phân xử các vụ việc và là người thi hành h́nh phạt với những kẻ phản bội. Các đại biểu tham gia phiên họp cũng quyết định yêu cầu Capone để lại cho Torrio một phần mảnh đất làm ăn hiện tại của hắn. Tuy nhiên, cuộc thảo luận gặp trở ngại, Capone không hề muốn từ bỏ vương quốc của ḿnh hay chia xẻ nó với ai.
Sau cuộc họp, Capone tới xem phim tại Philadelphia. Khi cuốn phim kết thúc, hai thám tử của cảnh sát đă bám sát hắn. Trong khoảng vài giờ sau đó, Capone đă bị bắt v́ tội mang vũ khí theo người.
Khi bị bắt, Capone tháo ngay chiếc nhẫn cưới của ḿnh và đưa cho luật sư riêng để ông ta đưa lại cho anh trai hắn là Ralph. Thời gian đầu, hắn bị giam tại nhà tù Holmesburg, sau đó đến nhà trừng giới Eastern và hắn ở lại tại đó cho đến ngày 16/3/1930. Ralph, Jack Guzik và Frank Nitti, những người thân cận nhất của Capone bị toà án đưa ra xử v́ các tội làm ăn gian lận trong thời gian này.
Cú đánh thứ hai vào tổ chức của Capone là việc bắt Ralph vào tháng 10 cùng năm đó về tội trốn thuế. Để cảnh cáo các băng nhóm xă hội đen khác, cảnh sát đă bắt Ralph ngay tại một trận đấu quyền anh và giải hắn đi với chiếc c̣ng số 8. Vụ bắt giữ làm tăng thêm quyết tâm của Elmer Irey, người đă điều tra Ralph trong nhiều năm trước đó.
Ralph kém anh trai ḿnh trong việc che dấu trước các nhà điều tra số tài sản kếch sù mà hắn có được. Kho bạc Liên bang Mỹ và Eliot Ness tập trung vào việc khai thác hắn. Điện thoại của Ralph bị nghe lén. Nels Tessem, nhân viên điều tra về tài chính cuối cùng đă lần ra được những vụ chuyển tiền mà Ralph thực hiện. Nitti và Guzik sau những vụ điều tra về tài chính cũng đă phải ra hầu toà về tội trốn thuế.
Ness thấy đă đến lúc phải chứng tỏ với Toà Đại h́nh Mỹ rằng Capone đă vi phạm luật cấm nấu và bán rượu. Ông yêu cầu các nhân viên của ḿnh tiếp tục nghe lén điện thoại của Ralph. Tất cả những chứng cứ mà Ness thu lượm được cho phép ông ra lệnh đóng cửa quán South Wabash, thuộc sở hữu của Al Capone. Và liên tiếp sau đó, ông đóng cửa các nhà chứa khác của hắn.
Giữa tháng 3 năm 1930, Capone được tha v́ “xử sự tốt”. Một tuần sau đó, ông Frank J. Loesch lănh đạo Ủy ban chống tội ác Chicago đưa ra danh sách những tên tội phạm nguy hiểm nhất. Đứng đầu trong đó là Alphonse Capone, Ralph Capone, Frank Rio, Jack McGurn và Jack Guzik. Danh sách được tập hợp bởi các nhà báo và được Tổng thống J. Edgar Hoover duyệt giống như danh sách những kẻ bị truy nă gắt gao nhất của FBI.
Từ đây, Al Capone chính thức trở thành “Kẻ thù số 1 của công chúng”. Sự sỉ nhục đối với Al lần này thật lớn, hắn hầu như không c̣n ǵ nữa trong mắt người dân Mỹ.
PHẦN IX : CÔNG LƯ THỰC THI
[IMG]http://i51.tinypic.com/ax1ao5.jpg[/IMG]
Thanh Tra Ness nảy ra ư định đánh vào ḷng kiêu căng tự phụ của Capone, điều mà ít người nào trước đó dám làm. Ông cho sửa sang, đánh bóng tất cả những chiếc xe tịch thu được, xếp thành từng hàng. Sau đó, ông gọi điện tới khách sạn Lexington, trụ sở của Capone và yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với hắn.
Ness nói: “Này Snorkey (cái tên chỉ những kẻ thân cận nhất với Capone mới được dùng để gọi hắn), tao muốn thông báo với mày cái này: Đúng 11h trưa nay, nh́n ra cửa sổ, mày sẽ thấy trên đại lộ Michigan một điều mà tao hy vọng mày sẽ thích”.
“Cái quái ǵ thế?”, giọng nói của Capone lộ rơ vẻ ṭ ṃ.
“Cứ xem đi rồi mày sẽ thấy”, Ness đáp, đoạn dập máy.
Đoàn xe diễu qua trước khách sạn của Capone, trước mặt đám gangster tay chân của hắn. Ness có thể thấy rơ sự tức tối của những người đứng trên ban công căn pḥng dành cho Capone vào lúc đó.
Như vậy, cảnh sát đă tỏ rơ cho Capone biết họ sẵn sàng làm mọi điều có thể để đưa hắn ra ṭa. Đó là một ngày trọng đại đối với Ness và thuộc cấp của ông. Ông đă thành công trong việc khiến Capone phải bực bội. Ngay sau khi “đoàn diễu hành” khuất dạng, Capone lồng lộn như phát điên trong hành lang khách sạn, đập phá mọi thứ hắn thấy. Ness đă không chỉ làm Capone tức, ông c̣n giáng một cú đích đáng vào công việc làm ăn kinh doanh của hắn. Các cuộc truy quét đă làm Capone mất hàng triệu USD thu nhập từ các quán bar, nhà chứa.
Việc nghe lén những cuộc điện thoại của Capone cũng cho thấy sự lụn bại của băng tội phạm lớn này. Chúng phải giảm số tiền “cúng” cho các nhà lănh đạo tham nhũng trong chính quyền. Bia bắt đầu được nhập khẩu thay v́ mua từ các nguồn bán lậu trước đó. Lượng bia mà Capone bị thất thu một ngày là khoảng 20 000 gallon (tương đương 75 000 lít).
Chiến dịch của chính phủ chống lại Capone kết thúc vào mùa xuân năm 1931. Luật pháp Mỹ quy định rằng, khi t́m được chứng cứ th́ phải xét xử, không được để vụ án kéo dài quá 6 năm. Và v́ thế các chứng cứ về vụ án của Al Capone được thu thập từ năm 1924 phải được đưa ra làm căn cứ xét xử xong trước ngày 15/3/1931.
Ngày 13/3, Ṭa đại h́nh liên bang họp về việc chính quyền Mỹ buộc tội Capone trốn 32 488 USD tiền thuế trong năm 1924. Ṭa quyết định khởi tố hắn, nhưng không thông báo tin này ra ngoài.
Ngày 5/6, Ṭa đại h́nh họp trở lại và buộc Capone 22 tội, chủ yếu là trốn thuế với số tiền lên tới 200 000 USD. Một tuần sau đó, lời buộc tội thứ ba được đưa ra dựa vào những chứng cứ đă thu thập được của Ness và cộng sự.
Capone và 68 thủ hạ của hắn bị cáo buộc đă vi phạm luật Volstead hơn 5 000 lần. Al sẽ bị xử về tội trốn thuế, tiếp theo là về tội vi phạm luật cấm nấu và bán rượu. Nếu bị kết án với đủ bằng chứng, Capone nhiều khả năng phải chịu 34 năm tù. Thấy rơ trước tương lai không mấy sáng sủa của thân chủ, các luật sư của Capone đă gặp và đưa ra một đề nghị với công tố viên Johnson: Capone sẽ nhận tội để đối lấy việc hắn được xử một mức án nhẹ. Johnson, trước đó đă thảo luận việc này với Irey và Giám đốc mới của Kho bạc Mỹ là Ogden Mills, chấp nhận đề nghị này và cho biết Capone sẽ phải chịu mức án 2-5 năm.
Tại sao chính quyền Mỹ, sau bao nhiêu cố gắng, lại chấp nhận dành cho Capone một mức án nhẹ như vậy?
Đầu tiên, đó là v́ cảnh sát không thể chắc chắn rằng hai nhân chứng Shumway và Reiss có thể sống tới khi vụ án được xử xong. Capone đă ra giá cho mạng của hai người này là 50 000 USD/ người. Người ta cũng lo ngại, nếu kéo dài vụ án quá 6 năm th́ Ṭa đại h́nh Mỹ sẽ không chấp nhận. Lư do cuối cùng, chính quyền Mỹ sợ rằng nếu để vụ án kéo dài quá lâu th́ cả các quan chức tham gia xét xử của Ṭa đại h́nh cũng sẽ bị bọn tội phạm mua chuộc.
Tin tức về vụ thỏa thuận giữa Capone và chính quyền Mỹ lan ra bên ngoài làm giới báo chí vô cùng tức giận.
Capone tỏ ra rất vui vẻ khi hắn ra ṭa vào ngày 16/6/1930. V́ hắn mau mắn nhận tội trước ṭa nên thẩm phán Wilkerson quyết định sẽ tuyên án hắn vào ngày 30/6. Capone sau đó đă khoe khoang trước báo giới rằng hắn ta đang xem xét đề nghị của một hăng phim về việc làm phim dựng lại cuộc đời của hắn. Hắn tỏ ra rất lạc quan yêu đời khi đứng trước Ṭa đại h́nh để nhận lấy bản án. Tuy nhiên, Thẩm phán Wilkerson lại dành cho Al một bất ngờ khá lớn. Ông tuyên bố không chấp nhận Capone nhận tội. Hắn phải rút lại lời thú tội của ḿnh và chờ đến lúc bị đem ra xét xử vào ngày 6/10 năm đó.
Mùa hè năm ấy, Capone vẫn nghỉ tại khu nhà của ḿnh ở Lansing, bang Michigan. Bộ hạ của hắn tíu tít lên danh sách những người có khả năng xuất hiện trong ban hội thẩm và t́m cách mua chuộc họ. Nhưng nỗ lực của chúng đă thất bại trước những người kiên quyết thực thi pháp luật. Ngày 6/10/1931, 14 thám tử áp giải Capone ra trước ṭa. Các biện pháp an ninh trong khu vực xét xử được tăng cường. Capone được đưa vào ṭa qua một hành lang ngầm dưới đất rồi tới một chiếc thang máy chở hàng.
Tên trùm thế giới tôi phạm của Mỹ mặc một chiếc áo màu xanh nhạt. Lần này hắn xuất hiện trước ṭa, tay không hề đeo những trang sức đắt tiền. Các báo đều cử những phóng viên xuất sắc nhất của ḿnh đến đưa tin về vụ xử án. Câu hỏi được đưa ra nhiều nhất là: “Ông có lo sợ không?”.
Capone trả lời, với một nụ cười nhẹ: “Lo sợ ư? Ai mà không lo lắng cơ chứ?”. Bergreen sau này nhận xét rằng, đến lúc đó, Capone vẫn tin rằng người của ḿnh đă lo lót được hết với ban hội thẩm và hắn chỉ việc ra trước ṭa với một thái độ lịch sự nhă nhặn, cho đến khi được tuyên bố trắng án. Hắn nghĩ ḿnh sẽ thắng; phát biểu trước báo giới, hắn tuyên bố sẽ không hận thù ǵ họ, hắn hiểu họ phải làm việc của ḿnh.
Đoàn thẩm phán gồm Tổng chưởng lư Georges E. Q. Johnson, một người cao lớn đeo cặp kính gọng sắt, và các thẩm phán Samuel Clawson, Jacob Grossman, Dwight Green và William Froelich. Một nhà báo so sánh đây là cuộc đối đầu trực tiếp giữa Johnson và Capone. Ông nhận xét: “Khuôn mặt nặng nề nhâng nháo của Capone, những nếp thịt nổi gồ lên sau lần cổ áo của hắn như đối lập lại hoàn toàn với vẻ gày g̣ của Johnson và sự khô cứng trong từng cử động của người thực thi pháp luật”.
Thẩm phán Wilkerson xuất hiện, ông không đội bộ tóc giả thường được dùng trong các vụ xử. Ông làm cả pḥng xử án phải sững sờ khi tuyên bố: “Thẩm phán Edwards đang phải điều hành một vụ xử án diễn ra ngày hôm nay. Hăy đưa ban hội thẩm của tôi tới cho ông Edwards và đưa ban hội thẩm của ông ấy sang chỗ tôi”. Capone và luật sư của hắn là Me Michael Ahern hoàn toàn bất ngờ bởi ban hội thẩm mới gồm toàn những người chưa bao giờ xuất hiện trong danh sách mà thuộc hạ của hắn đă mua chuộc.
Ngày 17/10, Johnson đặt bản tóm tắt những cuộc tranh luận trước mặt ban hội thẩm. Sau khi thông báo những ǵ mà vụ xử sẽ giải quyết, ông tập trung vào Capone:
Tôi khá ngạc nhiên về cách thức mà bị cáo đă sử dụng để tạo ra một huyền thoại quanh cá nhân ông ta. Ông ta là ai mà trong từng ấy năm đă kiếm được nhiều tiền như vậy? Phải chăng ông ta may mắn đào được một kho vàng ở một chân trời nào đó? Phải chăng ông ta là Robin Hood như những thuộc hạ của ông ta miêu tả? Nhưng ông ta có phải là Robin Hood thật sự hay không nếu ông ta mua một chiếc nhẫn kim cương giá 8 000 USD, và ăn một bữa trưa giá 5 000 USD? Số tiền đó có đến với những người nghèo hay không? Không, nó đi tới lâu đài tại Palm Island. Phải chăng ông ta mua chiếc áo sơ mi giá 27 USD để tặng cho những người đang phải run rẩy tại khu Wacker tránh cái lạnh ban đêm? Không.
Tại bất kỳ nơi nào, ở bất kỳ thời điểm nào, đă bao giờ ông ta xuất hiện trong những công việc làm ăn có danh tiếng? Giờ đây ông ta đang có mặt trong ṭa án với chiếc thắt lưng đính kim cương, với chiếc áo sơ mi giá 27 USD, những đồ đạc đắt tiền trong căn hộ của ông ta, và khoản 116 000 USD chỉ là để sửa chữa lại căn nhà mà ông ta đang ở. Dù vậy, luật sư của ông ta vẫn sẽ nói cho chúng ta biết rằng ông ta không có một khoản thu nào như vậy cả!
Chiều tối ngày thứ bảy, 17/10/1931, sau 9 giờ nghị án, Capone bị tuyên là có tội trốn thuế. Đúng một tuần sau đó, thẩm phán Wilkerson tuyên án Capone 11 năm cấm cố, phạt tiền 50 triệu USD và phải trả 30 000 USD phí ṭa án. Ông cũng từ chối việc đưa Capone tới nhà tù tại Cook mà chuyển hắn tới nhà tù liên bang tại Atlanta.
Báo New York Times sau đó tả lại: “Capone cố gắng cười, nhưng đó là một nụ cười gượng gạo. Hắn liếm cặp môi dày của ḿnh, ngồi bồn chồn trên ghế. Hắn ăn nói lúng búng. Cố tỏ ra thản nhiên, nhưng hắn không thể kiềm chế bản thân hơn được nữa và dường như muốn nổ tung lên v́ tức giận. Những ngón tay run rẩy của hắn nắm ra sau lưng, vặn vẹo”.
Khi Capone rời khỏi ṭa án, một sĩ quan tiến tới tước hết mọi thứ hắn sở hữu để chính quyền trừ vào khoản tiền mà hắn bị phạt do trốn thuế. Capone mất hết b́nh tĩnh, hắn xông vào tấn công người cảnh sát, nhưng bị những cảnh sát khác ở xung quanh giữ chặt tại chỗ.
Lời cuối cùng Capone nói với Ness khi ra khỏi ṭa: “Vậy đó, tôi đang trên đường để đi thi hành bản án 11 năm. Tôi phải tuân theo thôi, tôi không cảm thấy hận thù ai hết. Có những người may mắn, nhưng tôi th́ không. Dù sao th́ công việc cũng khiến tôi phải chi quá nhiều tiền bạc, lúc nào cũng phải hối lộ cho các phi vụ buôn xe và bia. Họ làm cho chúng trở nên đúng luật là phải thôi”.
Ness trả lời trước khi quay đi: “Và nếu nó được thực hiện đúng luật, th́ ông chẳng c̣n việc ǵ phải làm với nó nữa”.
Capone bắt đầu cuộc sống của một tù nhân trong Viện trừng giới tại Atlanta và ngay lập tức có lời đồn rằng hắn sống tại đó xa hoa như một ông hoàng. Tuy có những lời phóng đại về điều đó, nhưng quả thực Capone sống khá hơn hẳn những tù nhân khác v́ hắn có rất nhiều tiền nhét trong cán một chiếc vợt tennis mà hắn mang theo ḿnh. Ngoài ra, hắn c̣n nhận được sự tiếp tế từ phía những tay chân cũ của ḿnh ở bên ngoài.
Năm 1934, Tổng chưởng lư Homer Cummings quyết định dùng nhà tù trên đảo Alcatraz làm nơi giam giữ những tên tội phạm nguy hiểm nhất nước Mỹ. Trong một bài phát biểu trên đài phát thanh, ông thông báo: “Đây là nơi thích hợp để những tên bất hảo trong số tù nhân không ảnh hưởng tới những người tù khác”.
Tháng 8/1934, Capone được chuyển tới nhà tù Alcatraz, những ngày sống an nhàn của hắn đă chấm dứt. Trong cảnh thiếu thốn, những căn bệnh hoa liễu mà hắn mắc phải từ khi c̣n rất trẻ mau chóng chuyển thành bệnh nặng, tàn phá hệ thần kinh. Đến năm 1938, Capone đă rất yếu và đôi khi không nhận thức được sự vật xung quanh. V́ cư xử tốt nên trong năm cuối thời hạn thi hành án (đă được giảm xuống c̣n 6 năm, 5 tháng), hắn được chuyển tới khu bệnh viện trên đảo để chữa bệnh. Tháng 11/1939, Capone măn hạn tù. Hắn được vợ là Mae đưa tới bệnh viện tại Baltimore. Hắn nằm điều trị tại đây cho đến tháng 3/1940.
Trong những năm sau đó, Capone sống trong lâu đài tuyệt đẹp của ḿnh trên đảo Palm. Sức khỏe của hắn suy yếu dần. Mae ở lại cùng Capone cho đến lúc hắn chết v́ một cơn đau tim vào ngày 25/1/1947, trong ṿng tay người thân.
Sau này, nhà nghiên cứu Begreen đă nhận xét về hắn: “Suốt 48 năm của cuộc đời ḿnh, Capone đă để lại dấu ấn không thể phai mờ trong thế giới ngầm của Chicago. ông Trùm Mafia Al Capone là tên tội phạm nổi tiếng nhất trong con mắt của người dân Mỹ. Có thể danh tiếng của hắn qua khá nhanh, nhưng chính hắn là kẻ đă tạo ra h́nh thức tội phạm Mafia có tổ chức dưới dạng những doanh nghiệp lớn tại Mỹ”./.
Hắc Y Hiệp Nữ
.............
Bên hiên nhỏ, gió hờn cành trúc ngoài song cửa
Trong cơn mơ quay về Hà Nội xưa
Mười dặm thác Bản dốc , Chốn hoa nở thẳm sâu
Bóng nguyệt soi cung đàn u nhă
Thấp thoáng dáng người ngọc ngoảnh đầu
Nắm tay chàng đi giữa mưa khói Ải Nam Qua