Xung quanh vụ cưỡng chế của UBND Huyện Tiên Lăng, ḿnh đưa ra thông tin sau để mọi người hiểu hơn về những lập luận của bác Đặng Hùng Vơ là bị sai lệch. Qua đây để mọi người nắm bắt chính xác hơn t́nh h́nh pháp lư và cảnh giác với sự thổi phồng của báo chí.
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/4...u-cai-sai.html
Đây chỉ là phần mào đầu.
Đây là cái sai đầu tiên của bác Đặng Hùng Vơ.
Cần chú ư rằng gia đ́nh anh Vươn đă có đất 64 ở Bắc Hưng. Ông Vươn đă được giao đất Nông nghiệp ổn định lâu dài tại nơi ông Vươn thường trú xă Bắc Hưng cùng chung với gia đ́nh 7 khẩu là 2940 m2 (b́nh quân 420 m2/khẩu).
Tại thời điểm ra quyết định giao đất làm đầm th́ đây không phải là đất nông nghiệp mà là quỹ đất băi bồi ven biển chưa sử dụng, đă được khai tại tờ bản đồ số 9 kèm theo sổ thống kê thời kỳ đo vẽ năm 1985 (BĐ 299) chỉnh lư năm 1990 thể hiện thửa 43 diện tích 33.600 m2, thửa 44 DT 60000 m2, thửa 107 DT 63.800 m2, thửa 169 DT 99.000 m2 và thửa 168 DT 13.540 m2 đều ghi là băi cát, băi bồi (các thửa này là vị trí diện tích 21 ha), c̣n phần ngoài hướng ra biển (phần diện tích 19,3 ha) chưa được thể hiện trên bản đồ.
Điều này chứng tỏ đây là đất băi bồi chứ không phải đất 64.
Cũng có người viện cớ rằng: “Ngày 04/10/1993 UBND huyện Tiên Lăng ra Quyết định 447/QĐ-UB giao 21 ha đất băi bồi ven biển thuộc địa bàn hành chính xă Vinh Quang cho ông Đoàn Văn Vươn - công dân xă Bắc Hưng để sử dụng vào mục đích nuôi trồng và khai thác thủy sản có thời hạn 14 năm.”
Nhiều người dựa vào đây nói rằng đó là đất thủy sản, nhưng cần phân biệt đất băi bồi và mục đích sử dụng của đất băi bồi. Đất băi bồi hoàn toàn có thể sử dụng vào việc nuôi trồng thủy sản, nhưng nó vẫn cứ là đất băi bồi.
Trích Luật Đất Đai 2003
Điều 80. Đất băi bồi ven sông, ven biển
1. Đất băi bồi ven sông, ven biển bao gồm đất băi bồi ven sông, đất cù lao trên sông, đất băi bồi ven biển và đất cù lao trên biển.
2. Đất băi bồi ven sông, ven biển thuộc địa phận xă, phường, thị trấn nào th́ do Uỷ ban nhân dân xă, phường, thị trấn đó quản lư.
Đất băi bồi ven sông, ven biển thường xuyên được bồi tụ hoặc thường bị sạt lở do Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xă, thành phố thuộc tỉnh quản lư và bảo vệ theo quy định của Chính phủ.
3. Đất băi bồi ven sông, ven biển được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đ́nh, cá nhân để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối.
Đất băi bồi ven sông, ven biển chưa sử dụng được Nhà nước giao cho hộ gia đ́nh, cá nhân tại địa phương chưa được giao đất hoặc thiếu đất sản xuất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.
Đất băi bồi ven sông, ven biển được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.
4. Hộ gia đ́nh, cá nhân đă được Nhà nước giao đất băi bồi ven sông, ven biển th́ được tiếp tục sử dụng theo thời hạn giao đất c̣n lại.
5. Nhà nước khuyến khích tổ chức kinh tế, hộ gia đ́nh, cá nhân đầu tư đưa đất băi bồi ven sông, ven biển vào sử dụng.
Tất nhiên v́ đây không phải là đất nông nghiệp 64 cho nên lập luận này của bác không c̣n đúng nữa, đây là cái sai thứ hai của bác.
Theo Luật Đất đai 1993 th́ khu vực này thuộc nhóm đất mới bồi (Điều 50 Luật Đất đai 1993: “Việc quản lư, sử dụng đất mới bồi ven biển do Chính phủ quy định.”), đất chưa sử dụng (Điều 72 Luật Đất đai 1993). Như vậy, Luật 1987, Luật 1993 đều cho phép điều chỉnh theo các quy định riêng của Chính phủ. Đến lượt ḿnh, tại Nghị định 64/1993 và các nghị định sửa đổi, bổ sung sau đó như Nghị định 85/1999 và Nghị định 04/2000, Chính phủ ủy quyền cho UBND cấp tỉnh. Cụ thể, khoản 3 Điều 5 Nghị định 64/1993 quy định: “3. Đối với đất trống, đồi núi trọc, đất khai hoang, lấn biển th́ hạn mức của hộ, cá nhân sử dụng do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định, căn cứ vào quỹ đất của địa phương và khả năng sản xuất của họ, đảm bảo thực hiện chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng các loại đất này vào mục đích sản xuất nông nghiệp.”
Khoản 5 điều 70 Luật đất đai 2003 nói rơ “5. Hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho hộ gia đ́nh, cá nhân đưa vào sử dụng theo quy hoạch để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối không quá hạn mức giao đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này và không tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đ́nh, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.”
Như vậy, ông Đoàn Văn Vươn được giao 40,3 ha đất, dù không theo thời hạn chung (20 năm) là không có ǵ trái luật.
Lại một cái sai lầm nghiêm trọng nữa của bác Vơ. Luật pháp là cái khung mà chúng ta phải theo. Mấu trốt ở chỗ chúng ta không được làm những ǵ luật pháp cấm, nhưng được phép làm những ǵ mà trong luật chưa nói tới.
Huyện đă thực hiện đầy đủ các bước như bác nói, chỉ có điều bác không nắm được t́nh h́nh cụ thể nên mới nói vậy.
Xin nói lại đây không phải là đất 64, mà là đất băi bồi do vậy kết luận này của bác Vơ cũng là sai luật.
Có lẽ việc sửa chữa là quá muộn là dành cho bác Vơ, v́ những phát ngôn thiếu thông tin của bác đă gây ra rối loạn dư luận xă hội, làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước. Cần phải nghiêm trị.
Bookmarks