Nguồn: http://phapthi.net/forum.php
NBS: MINH TÂM
NỘI DUNG
1. Khái niệm về sinh tử.
2. Sinh tử theo quan điểm khoa học.
2.1. Sự sinh.
2.2. Sự tử.
2.2.1. Phân loại tử.
2.2.2. Sự tử và thân xác.
2.2.3. Sự tử và tâm lư người b́nh thường.
2.2.4. Sự tử và tâm lư người bệnh không đau đớn.
2.2.5. Sự tử và tâm lư người bệnh có đau đớn : an tử và trợ tử.
2.3. Sau sự tử.
2.3.1. Hiện tượng cận tử ( chết đi-sống lại ).
2.3.2. Học thuyết Luân hồi ( tái sinh ).
3. Sinh tử theo quan điểm dân gian.
+ Hồn ( linh hồn ). + Vía ( phách).
4. Sinh tử theo quan điểm các Nho gia và Đạo gia phương Đông.
5. Sinh tử theo quan điểm các Triết gia phương Tây.
+ Cổ đại + Cận đại + Đương đại.
6. Sinh tử theo quan điểm các tôn giáo hữu thần.
6.1. Ấn giáo. 6.2. Kitô giáo. 6.3. Hồi giáo.
7. Sinh tử theo quan điểm tôn giáo vô thần Phật giáo.
7.1. Sinh tử với cấu trúc 12 duyên khởi.
7.2. Sinh tử với cấu trúc 5 ấm.
7.3. Sinh tử thư Tây Tạng.
7.4. Vấn đề hộ tử (người bệnh nặng không đau đớn).
7.5. Vấn đề an tử - trợ tử (người bệnh nặng có đau đớn).
SINH TỬ
1.Khái niệm về sinh tử.
Nh́n h́nh ảnh cây xoài hay cây khế … ra hoa, kết quả, quả xanh, quả già …, th́ trong quá tŕnh này hiện tượng rụng hoa, rụng quả - bé, lớn, già - tựa hồ như không gián đoạn do sâu, bệnh, thời tiết, dưỡng chất …, tất cả đều lần lượt rụng xuống hết. Loài người ở đời cũng dường như thế, hiện tượng sinh tử luôn hiện hữu từ lúc c̣n là bào thai, đến bé, trưởng thành và già, người trước kẻ sau không ai tránh khỏi. Sự sống th́ khá bấp bênh, nhưng cái chết lại rất chắc chắn. Thông thường từng mỗi con người đều trải qua các giai đoạn sinh ra, lớn lên và tử vong, tuy nhiên sinh-sống-tử thực ra chỉ là những dạng biến hóa liên tục 2 mặt của một con người, đó là thể xác và tinh thần.
Ngày nay, theo thống kê trên thế giới, mỗi năm có khoảng 130 triệu con người được sinh ra và khoảng 65 triệu tử vong ( tức 4 sinh và 2 tử trong mỗi giây ). Dân số thế giới hiện nay xấp xỉ 7 tỷ, và có phỏng đoán rằng từ lúc có mặt trên trái đất đến nay, vào khoảng 70 tỷ con người đă bước qua cửa tử.
Số đông chúng ta thường tránh nghĩ về cái tử và sống như thể chẳng bao giờ tử cả, thậm chí từ tử trở thành điều tối kỵ và không dám lưu giữ bất cứ vật ǵ từ người đă tử. Số đông khác người, khi c̣n sống lại tỏ ra xem thường cái tử, cho cái tử là lẽ tự nhiên và chẳng cần phải bận tâm, lo lắng chi cho mệt, tuy nhiên đến lúc sắp chết hoặc có dấu hiệu không c̣n sống lâu bởi một căn bệnh nan y, th́ đâm ra hốt hoảng, kinh hoàng.
Cho nên các lư do chính yếu để chúng ta suy gẫm về cái tử là :
+ Giúp chúng ta có được tỉnh thức, b́nh an vượt qua nỗi sợ hăi của tuổi già, bệnh tật và cái chết.
+ Giúp chúng ta thay đổi lối sống cực đoan và có được thái độ cởi mở, khoan dung đối với cuộc đời.
Sinh tử là quy luật, tử là một sự thật không ai có thể phủ nhận, chối bỏ hay chạy trốn; tử là trạm dừng chân cuối cùng của vạn loài trong một kiếp sống. Vậy nếu không chối bỏ được, chúng ta nên can đảm đối diện và cần thấu triệt lẽ thật sinh tử.
2. Sinh tử theo quan điểm khoa học.
2.1. Sự sinh : con người tồn tại được xét đến 3 mặt sau.
1/ Mặt sinh vật học : con người là một sinh vật (sinh lư và vật lư) có một cơ thể với một cấu trúc phức tạp và tinh vi, được cấu tạo với trên 60.000 tỷ tế bào (cell), trong số này 1/120 tức khoảng 500 tỷ tế bào bị hủy diệt và tái sinh mỗi ngày. Các tế bào phân hóa thành các cơ quan với các hệ chức năng khác nhau, nhưng có mục tiêu chung là kiện toàn và phát triển sự sống.
Nguồn gốc con người là sự phối hợp của tinh trùng và noăn sào tạo thành trứng. Có quan niệm cho rằng khi h́nh thành trứng là h́nh thành con người, tuy nhiên ngành Phôi học cho rằng sau khi tạo thành trứng sẽ là giai đoạn tạo nhau và mô nuôi dưỡng trong 17 ngày gọi là giai đoạn tiền phôi, sau đó trứng mới thực sự là phôi, tức là con người mới bắt đầu hiện hữu (đây là lư lẽ đạo đức về vấn đề thời điểm phá thai). Từ đây về sau, các hệ chức năng như hệ vận động, hệ thần kinh … bắt đầu h́nh thành và phát triển.
2/ Mặt tâm lư học : con người là một cơ cấu những cơ chế đặc thù về các sự kiện ư thức (các tâm trạng).
3/ Mặt xă hội học : con người là một tổng ḥa mọi quan hệ xă hội.
Ba mặt này tác động lẫn nhau và thường xuyên biến động từ lúc mới sinh đến lúc già, tạo ra nhân cách. Mỗi sự kiện trong cuộc sống đều hàm chứa trong ba mặt này.
Thí dụ : - Bữa ăn ngon miệng v́ hạp khẩu vị (sinh vật), hoặc v́ gặp người than (tâm lư), hoặc v́ được một thành công trong nghề nghịêp (xă hội). Ngược lại cho một bữa ăn uể oải.
- V́ lớn tuổi, sức yếu phải về hưu. Bấy giờ quan hệ xă hội thay đổi, trước đó có chức có quyền, nay về hưu không c̣n nữa. Tâm tư sau khi về hưu cũng khác khi c̣n đương chức.
2.2. Sự tử.
2.2.1. Phân loại tử : có thể được tạm phân loại theo 6 tính chất sau.
+ Tính chất định tính : có 2 yếu tố tác nhân là nội (bản thân) và ngoại (bên ngoài).
- Nội nhân : bởi vô t́nh (tử do đột quỵ,…) hay cố t́nh (tử do tự treo cổ v́ thất chí,…).
- Ngoại nhân : bởi vô t́nh (tử do lạc đạn,…) hay cố t́nh (tử do bị treo cổ v́ án tử tội,…).
+ Tính chất định lượng : có 2 yếu tố là êm dịu và đau đớn.
+ Tính chất không gian : có 2 yếu tố là tự do và ràng buộc.
+ Tính chất thời gian : có 3 yếu tố là ngắn (nhanh), trung b́nh, dài (chậm).
+ Tính chất đạo đức : có 3 yếu tố là thiện, ác, không thiện-ác.
+ Tính chất tâm lư : có 2 yếu tố là vô t́nh và cố t́nh.
Tổ hợp lại, ta có 144 loại h́nh thể hiện sự tử của một con người.
Thí dụ : Người công an bị tội phạm cố t́nh bắn chết (ngoại nhân) trong khi truy nă, cái chết đau đớn, tự do, ngắn, thiện. Sau đó, kẻ này tự bắn ḿnh (nội nhân) với cái chết đau đớn, tư do, ngắn, ác hoặc bị bắt và buộc lănh án tử bị tiêm thuốc độc (ngoại nhân) với cái chết cố t́nh, êm dịu, ngắn, ác.
2.2.2. Sự tử và thân xác : y học ngày nay phân biệt 2 dạng chết của thân xác.
+ Chết lâm sàng : là khi bệnh nhân đă ngừng thở, tim ngừng đập, nhưng thần kinh gốc của năo bộ vẫn hoạt động, bản năng chống đỡ với cái chết vẫn c̣n. Với kỹ thuật cấp cứu hồi sinh tích cực và nhẫn nại, có thể văn hồi hô hấp và hoạt động của tim.
+ Chết sinh vật : là khi cả phổi, tim và thần kinh gốc của năo bộ đều ngừng hoạt động. Như vậy, cái chết được coi là thật chỉ khi nào năo bộ đă hoàn toàn không hoạt động.
Sau khi chết, thân xác bị phân hủy. Tùy theo các nền văn hóa, tôn giáo, kinh tế bản địa mà có các h́nh thức phân hủy như địa táng, thủy táng, hỏa táng, điểu táng …
2.2.3. Sự tử và tâm lư người b́nh thường : sự tử được ư thức theo tuổi tác như sau.
+ Từ 3-:-4 tuổi : mới dần dần cảm nhận ra khái niệm sự tử, nhất là khi gia đ́nh mất đi người thân, đồng thời trẻ có nhiều thắc mắc về sự tử mà không thể nói ra được. Khái niệm sự tử trong một thời gian vẫn có tánh chất tương đối, đó là chết rồi có thể sống lại và chết là một trừng phạt nặng “đánh chết bây giờ”. Có những trẻ v́ quá lo sợ về chết mà sinh ra nhiễu tâm (neurosis : rối loạn tâm lư bởi lo sợ và ám ảnh vô cớ).
+ Từ 4-:-6 tuổi : khái niệm sự tử là mất đi và không bao giờ gặp lại nữa.
+ Trên 6 tuổi : khái niệm sự tử là tất cả mọi người đều phải chết và sau chết là một thế giới không biết được là như thế nào.
+ Người già : tuy người già nhận thức được qui luật sinh tử, nhưng rất ít hiểu biết vấn đề tâm sinh lư của bản thân ḿnh ở khía cạnh người bạn đời. Theo nghiên cứu trong nhóm 371 người già mất người bạn đời th́ trong năm đầu có 12,2% số người qua đời, c̣n nhóm 371 cặp người già (đủ đôi) chỉ có 1,2% . Qua khảo sát, các nhà tâm lư cho biết : vào mấy ngày đầu khi người bạn đời của họ mất, họ phản ứng không chỉ xúc động quá mức mà c̣n kinh sợ và có cảm giác tê dại. Sau đó họ đau buồn mănh liệt và ch́m đắm trong trầm tư, họ có thể nổi giận, đổ lỗi. Tất cả đều làm cho sức khỏe của họ sa sút nghiêm trọng. V́ vậy, khi tuổi càng cao th́ càng cần chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lư (ư thức) để giảm thiểu sự suy sụp tinh thần, đồng thời thích nghi với hoàn cảnh mới càng nhanh.
2.2.4. Sự tử và tâm lư người bệnh không đau đớn : nữ bác sĩ người Mỹ là E. Ross (1926-:-2004), giáo sư đại học Chicago, đă có nhiều công tŕnh nghiên cứu có uy tín về Sinh tử học. Bà đă đúc kết được các trạng thái tâm lư trong ư thức của bệnh nhân sắp lâm chung không đau đớn gồm 5 giai đoạn sau.
1/ Phủ nhận (deny) : đây được xem là phương pháp hữu hiệu nhất mà người bệnh thể hiện sự pḥng ngự, trấn tỉnh chính ḿnh.
2/ Tức giận (anger) : tại sao tôi phải chết.
3/ Mặc cả (bargaining) : thể hiện thái độ vừa tuyệt vọng vừa hy vọng, đây được xem là cuộc đấu tranh vô h́nh để kéo dài sự chấp hành bản án tử.
4/ Trầm cảm (depression) : sợ hăi, cân nhắc cái giá mất mát mọi thứ phải chịu.
5/ Chấp nhận (acceptance) : bản án tử đă khuất phục bệnh nhân.
Với các đặc điểm này, người chăm sóc trong việc hộ tử sẽ nắm được những nhu cầu trong tâm ư của người bệnh, để có thể giúp họ một cách thỏa đáng nhất. Bà quan nịêm, mọi người chúng ta dù khỏe hay bệnh, cần thấy rơ rằng : “ Sinh tử, theo tŕnh tự, nói lên sự tồn tại, phát triển và trưởng thành của con người “.
2.2.5. Sự tử và tâm lư người bệnh có đau đớn : trái với trường hợp trên, người bệnh thay v́ kháng cự cái chết, th́ lại mong mỏi cái chết sớm đến với ḿnh. Sự việc này luôn hiện hữu trong thế giới loài người xưa cũng như nay. Tuy nhiên, nó đă được ghi nhận lại trên ngôn ngữ cổ Hy Lạp là từ euthanatos (eu : tốt đẹp; thanatos : chết), nhằm nói đến hành vi tự tử của những người già yếu, bệnh tật hay bệnh nan y muốn chấm dứt cuộc sống đau khổ một cách êm ái, bằng cách uống thuốc độc hay trích huyết để chết. Hành vi này c̣n được sử dụng trong những xă hội sau này như La Mă. Có thể nói rằng đây là ư niệm an tử (good death) đối với bệnh nhân đau đớn trước khi lâm chung.
Đến thế kỷ thứ 17 th́ F. Bacon (1561-:-1626), một quan chức cao cấp của nước Anh đă tạo ra từ euthanasia trong tiếng Anh để chỉ hành vi của người thầy thuốc giúp bệnh nhân chết sớm hơn hay giúp họ tự tử nhằm giảm bớt đau đớn trong giờ hấp hối. Do đó, có thể nói rằng đây là ư niệm trợ tử (assisted suicide) đối với bệnh nhân đau đớn trước khi lâm chung. Ư niệm này đă tạo thành phong trào và được sự ủng hộ của luật gia-sử gia nổi tiếng D. Hume (1711-:-1776), các triết gia : A. Schopenhauer (1788-:-1860), F. Nietzsche (1844-:-1900) … và kéo dài tới hơn nửa thế kỷ thứ 20.
Từ thập niên 1960 , từ euthanasia đă được phân tích với 2 ư niệm trên.
+ Đối với thầy thuốc : euthanasia có nghĩa là sự trợ tử v́ lư do nhân đạo, v́ ḷng xót thương (mercy killing, mercy death) với sự tuân thủ những 2 việc sau :
+ Theo 2 nguyên tắc :
1/ V́ lợi ích tốt nhất, chứ không làm hại bệnh nhân (patient’s best interest).
2/ Tôn trọng quyền tự quyết của bệnh nhân (autonomy).
+ Bằng 2 cách :
1/ Trợ tử chủ động (active euthanasia) : tiêm thuốc gây chết.
2/ Trợ tử thụ động (passive euthanasia) : ngưng điều trị (lọc thận, ghép tạng…)
hay ngưng cấp cứu hồi sức (thở dưỡng khí, nuôi ăn …).
+ Đối với bệnh nhân : euthanasia có nghĩa là sự an tử với 3 trường hợp sau.
1/ An tử tự nguyện (voluntary euthanasia) : bệnh nhân tỉnh táo quyết định chết.
2/ An tử phi tự nguyện (non-voluntary euthanasia) : bệnh nhân không tỉnh táo, như trẻ sơ sinh thiểu năng trầm trọng hay bệnh nhân hôn mê trong t́nh trạng thần kinh thực vật vĩnh viễn (vegetative status).
3/ An tử không tự nguỵên (involuntary euthanasia) : bệnh nhân không tỉnh táo mà trước đó chưa bày tỏ ư định hoặc vượt quá khả năng chẩn đoán và điều trị của thầy thuốc, cho vịêc kết liễu mạng sống. Có quan điểm cho đây là hành động phạm tội.
Như vậy, sự an tử có thể xem như là một loại tự tử có sự tham gia của thầy thuốc, bởi bệnh nhân :
- Không đủ can đảm.
- Không đủ sức khỏe để hành động.
- Không đủ phương tiện để đạt được cái chết êm dịu.
2.3. Sau sự tử.
2.3.1. Hiện tượng cận tử (near-death phenomena) : từ đầu thế kỷ 20, các khoa học gia trên thế giới - nhất là Mỹ - đă có nhiều nghiên cứu hiện tượng sau khi chết, có 2 hiện tượng thường được nói đến như sau :
+ Hiện tượng chết đi sống lại (dead-back-to-life) : năm 1982, viện Gallup đă mở cuộc thăm ḍ rộng răi khắp nước Mỹ về hiện tượng cận tử. Viện này đă tham khảo khoảng 8 triệu người Mỹ đă có lần chết đi và sống lại, và đă ghi nhận lại các sự kiện khá tương tự và trùng khớp được xem là ở bên kia cửa tử.
1/ Sau khi xuôi tay, họ thường có cảm giác lạ lùng, hoặc thanh thản, an vui hoặc hoang mang lo lắng.
2/ Các giác quan lúc đó tự nhiên nhạy cảm. Họ cảm thấy nhẹ đi và thấy ḿnh nằm bất động cùng những ǵ đang xảy ra xung quanh, như thầy thuốc và thân nhân. Lúc đó họ lướt đi dễ dàng như lên cao, xuống thấp và có thể xuyên qua tường hay vật rắn. Họ cảm thấy không c̣n dính dấp ǵ với xác thân mà chỉ c̣n tâm thức (thấy biết) nhẹ nhàng một cách kỳ diệu khác với lúc c̣n sống.
3/ Sau đó họ cảm thấy như bị cuốn hút vào trong một khoảng tối đen mông lung rồi lướt đi rất nhanh qua một đường hầm hun hút.
4/ Bỗng họ thấy từ xa một điểm sáng, rồi một vừng sáng như chưa từng gặp bao giờ - rực sáng mà không làm mắt bị ḷa - bao bọc lấy họ. Bấy giờ những h́nh ảnh đă qua trong cuộc đời họ bắt đầu diễn lại như một cuốn phim được chiếu.
5/ Tiếp theo là họ thấy những cảnh trí đẹp, những dinh thự đẹp đẽ lạ lùng với âm thanh thanh thoát hoặc những hang đá, những hố sâu vắng vẻ, u buồn.
6/ Kế tiếp họ đến một chỗ như thể một ngưỡng cửa lớn mà không thể vượt qua được. Bỗng tất cả họ (8 triệu người được phỏng vấn) đều trông thấy người thân, bạn bè của ḿnh, nhưng chỉ là những người đă qua đời, chứ không là những người đang c̣n sống.
7/ Tất cả họ đều cảm thấy có một động lực thúc đẩy, chỉ bảo họ nên quay về. Có người gặp người thân như cha mẹ, anh em … đă mất trước đó rất lâu, họ ra dấu bảo hăy quay về ngay, đừng đến đây làm ǵ.
Cuối cùng họ trở lại thân xác của họ.
Những người đă từng trải qua sự kiện này sau đó hầu như thay đổi thái độ sống của họ. Nếu trước đây họ tham lam, giận dữ, tranh chấp, tự ái … th́ nay họ sống từ thiện, vui vẻ, cởi mở … và hướng về đời sống nội tâm hơn.
+ Hiện tượng sợi dây bạc (silver cord) : đây là hiện tượng được quan sát và cảm nhận bởi nhiều người b́nh thường nơi đồng cốt, đi thiếp hay người sắp qua đời …, đó là một thể đặc biệt có màu sáng bạc nối liền cơ thể nơi đỉnh đầu (có lẽ là huyệt Bách Hội) và một khối mờ đục (có lẽ là khối năng lượng tâm thức) có h́nh dạng như một sợi dây. Có giả thuyết cho rằng đây là yếu tố cần thiết nối liền 2 phần vật chất và tinh thần hay xác và hồn tạo nên sự sống nơi một sinh vật, nói riêng là một con người.
Nhà nhân học R. Crookall đă tŕnh bày trong công tŕnh nghiên cứu “ Out of the Body Experiences “ (astral body experiences), một trong nhiều trường hợp điển h́nh như sau:“Bác sĩ R. Staver đă cho biết là chính mắt ông đă trông thấy rơ ràng một giải sáng trắng bạc từ đầu người cha đang hấp hối nối với khối mờ. Không rời sự quan sát, ông thấy sợi dây này rung động, nhỏ lại và đứt hẳn vừa lúc người cha của ông thở hơi cuối cùng “.
Các nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng hiện tượng sợi dây bạc thực sự là vấn đề đáng quan tâm. Nếu nghiên cứu chi tiết hơn, chắc chắn giới y khoa sẽ có được một sự kiện vô cùng giá trị trong các lĩnh vực sinh tử. Việc xác định sinh tử cho bệnh nhân sẽ được rơ ràng hơn, tránh được điều không may về quyết định tử vong lầm lạc, bởi việc giám định sự ngừng hoạt động của thần kinh gốc năo bộ là một việc làm vô cùng khó khăn (xem mục 2.2.2).
Hiện nay, việc nghiên cứu 2 hiện tượng trên đều có mối liên hệ gắn bó với 2 bộ sách Tử Thư Ai Cập và Tử Thư Tây Tạng, song bộ sau mô tả chi tiết hơn, rơ ràng hơn và chính xác hơn nên rất được ưa chuộng.
Theo các đại sư Tây Tạng th́ hiện tượng chết đi sống lại thật ra chỉ mô tả các h́nh ảnh ở ngưỡng cửa của cơi Trung Ấm (giữa chết và tái sinh), đó là những ảo giác sản sinh từ niềm tin tín ngưỡng cùng ư chí muốn sống của bản thân; và khối mờ đục tâm thức chính là thân Trung Ấm, là khối năng lượng nghiệp (nghiệp lực). Khi bước sang cơi Trung Ấm (chết hẳn), tức sợi dây bạc đă đứt, th́ các h́nh ảnh nói trên (chết đi sống lại) vẫn diễn ra, tuy nhiên theo thời gian các h́nh ảnh này dần thay đổi theo tính chất của nghiệp lực và dẫn đến tái sinh ở các cảnh giới tương ứng.
Bookmarks