Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
P11
Trận đánh mở đầu của tên lửa phối hợp với cụm pháo cao xạ từ 24 đến 27-7-1965 là một cơ sở thực tiễn rất sinh động cho sự phát triển nghệ thuật tác chiến pḥng không trong chiến tranh. Trận đánh này để lại những kinh nghiệm quí giá, gợi mở những hướng phát triển mới trongnghệ thuật tác chiến lớn cho ta.
Thứ nhất, việc đưa tên lửa ra chiến đấu đúng thời cơ là một quyết định đúng đắn, vừa tạo được hiệu quả chiến đấu cao vừa gây bất ngờ cho địch.
Tháng 6-1965, địch đă đánh hơi thấy ta đang tổ chức huấn luyện bộ đội tên lửa. Nhưng theo tính toán của chúng, phải đến giữa năm 1966, tên lửa Việt Nam mới ra quân chiến đấu được. Do vậy, địch càng chủ quan và cho rằng chưa phải đối phó với tên lửa. Mặt khác,trong khi địch tập trung các thủ đoạn đối phó với không quân và cao xạ gây khó khăn lớn cho ta, th́ việc đưa tên lửa vào chiến đấu đă tạo sự thay đổi về "chất" của hệ thống hỏa lực pḥng không, tạo điều kiện thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng tiêu diệt lớn. Sự xuất hiện bất ngờ của tên lửa ngày 24-7 nằm ngoài sự tính toán của các nhà quân sự Mỹ, chẳng những đă gây hoảng sợ cho bọn giặc lái mà c̣n tác động mạnh mẽ Nhà Trắng, khiến cho Tổng thống Giôn-xơn phải cấp tốc triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia họp ngay trong đêm để xác minh và t́m cách đối phó. Trong khi chưa t́m được biện pháp đối phó, Giôn-xơn quyết định tổ chức trả đũa. Cả hai máy bay trinh sát chuẩn bị cho kế hoạch đều bị tên lửa bắn rơi, Giôn-xơn càng cay cú hơn. Chỉ sau khi trận đánh trả đũa vào hai trận địa "tên lửa cót" bị tổn thất nặng, Giôn-xơn mới chịu chấp nhận thất bại cay đắng, ra lệnh tạm dừng đánh phá các khu vực cách Hà Nội 60km và cố tránh khu vực nghi có tên lửa.
Thứ hai, là bài học về việc chủ động t́m địch để đánh. Để chuẩn bị cho tên lửa ra quân, ta đă xây dựng 5 trận địa cơ bản ở khu vực Hà Nội. Trong thời gian này, mặc dù leo thang đánh phá miền Bắc, nhưng địch vẫn chưa đánh phá Hà Nội, c̣n thăm ḍ, c̣n để mặc cả và gây sức ép khi cần thiết. Với tư tưởng chủ động, tích cực tiến công, Quân chủng đă cho tên lửa cơ động triển khai ở các trận địa dă chiến, bí mật phục kích đánh địch ở khu vực Ba V́ , Hà Tây. Đây là một khu vực đánh địch thuận lợi trên hướng Tây Bắc - một hướng tiến công chủ yếu của không quân địch. Việc tổ chức thành công cho tên lửa cơ động, triển khai ở địa h́nh đồi núi Ba V́ là một tiền đề thực tiễn để h́nh thành chiến thuật cơ động phục kích đánh địch của bộ đội tên lửa. Đây là một chiến thuật độc đáo, sáng tạo của bộ đội tên lửa Việt Nam. Tên lửa pḥng không được thiết kế và chế tạo nhằm triển khai thành tuyến bảo vệ các yếu địa lớn, không có khái niệm "cơ động phục kích" đánh địch. Nhưng với tư tưởng chủ động, tích cực tiến công, bộ đội tên lửa Việt Nam đă vượt qua muôn vàn khó khăn để tạo lập và phát triển chiến thuật cơ động phục kích, tạo bí mật bất ngờ tiêu diệt địch. Sau trận đầu 24-7-1965, địch càng bất ngờ hơn khi thấy tên lửa xuất hiện đánh địch trên núi rừng Tây Bắc, trên những cánh rừng đại ngàn ở Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn, trên tuyến đường Trường Sơn, trên tuyến lửa Vĩnh Linh. Chính những nhà thiết kế chế tạo cũng không thể ngờ được rằng với địa h́nh núi non hiểm trở như vậy, địch đánh phá ác liệt như vậy mà bộ đội tên lửa Việt Nam vẫn cơ động triển khai, vẫn bí mật trụ vững được để đánh địch. Có thể nói, chiến thuật cơ động phục kích là một sáng tạo độc đáo của bộ đội tên lửa Việt Nam, biểu hiện ư chí và trí tuệ xuất sắc của Việt Nam.
Thứ ba, trận đầu đánh thắng là cơ sở để phát triển phương pháp chiến thuật "nhử địch" của bộ đội pḥng không Việt Nam lên đến đỉnh cao.
Cuối tháng 3-1965, địch tập trung đợt đánh phá nhằm hủy diệt các trận địa ra-đa ở nam Khu 4. Ngay sau khi địch đánh trận địa ra-đa ở Vĩnh Linh, Quân chủng đă lệnh cho đại đội ra-đa Quảng B́nh cơ động sang vị trí mới, đồng thời cho làm ra-đa giả bằng tre ở trận địa cũ để thu hút địch đánh phá, bảo đảm an toàn cho ra-đa ở vị trí mới bí mật phát sóng. Từ thực tiễn nghi binh lừa địch thành công, chúng ta đă nâng lên thành một kế sách mới "nhử địch" đến để tiêu diệt. Đại đội ra-đa ở Rú Nài (Hà Tính) được lệnh chuyển sang vị trí mới. Tại vị trí cũ triển khai "ra-đa tre" để nhử địch. Một cụm pháo của Quân chủng và địa phương nhanh chóng h́nh thành triển khai chuẩn bị đánh địch. Ngày 26-7, khi địch tập trung đánh phá trận địa "ra-đa tre" ở Rú Nài, cụm pháo đă thực hiện trận đánh tập trung tiêu diệt lớn, 4 máy bay địch bị bắn rơi tại chỗ và bắt sống giặc lái.
Từ thực tiễn chiến đấu và phân tích hoạt động trả đũa có tính quy luật của địch, Quân chủng chỉ đạo tổ chức "nhử địch” bằng "tên lửa cót". Trong khi tên lửa và pháo cao xạ đang cơ động triển khai, th́ Trường sĩ quan pháo cao xạ đă được lệnh sản xuất cấp tốc loại "tên lửa cót”. Biện pháp nhử địch của ta đă phát triển lên một bước mới, không chỉ nhử địch bằng trận địa giả mà c̣n sử dụng tên lửa đánh khêu ng̣i,
tạo sự cay cú cho địch, không chỉ cho tên lửa đánh khêu ng̣i trận ngày 24-7 mà c̣n để 1 tiểu đoàn lên lửa ở lại tiếp tục đánh bồi trận ngày 26-7, làm cho địch cay cú đến tột độ.
Sau đó, chúng ta c̣n thực hiện liên tiếp nhiều trận khêu ng̣i địch ở khu vực Đồng Giao (Ninh B́nh), Đồ Sơn (Hải Pḥng). Cơ động phục kích đánh địch ở "khu nhử địch" đă được bộ đội pḥng không Việt Nam phát triển đến đỉnh cao, đặc biệt là việc áp dụng thường xuyên trên tuyến vận tải Trường Sơn. Đó là một nét rất độc đáo trong chiến thuật pḥng không Việt Nam.
Thứ tư, trận đánh thắng đầu tiên là cơ sở thực tiễn cho việc phát triển quy mô sư đoàn pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ của lực lượng pḥng không trong chiến tranh. Thực tiễn trận ra quân của tên lửa phối hợp với cao xạ đạt hiệu quả chiến đấu cao cho thấy, với cụm pḥng không hỗn hợp cả tên lửa và cao xạ sẽ tạo được hệ thống hỗn hợp nhiều tầng, nhiều hướng để thực hiện đánh địch ở mọi độ cao,đánh liên tục từ xa đến gần, vừa chi viện, bảo vệ lẫn nhau, vừa có điều kiện để thực hiện nhiều h́nh thức chiến thuật và biện pháp chiến đấu.
Trên cơ sở đó, thời kỳ sau 1965, Quân chủng đă tổ chức các cụm pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ với quy mô 1-2 tiểu đoàn tên lửa và 2-3 trung đoàn cao xạ, thực hiện cơ động tác chiến đánh địch leo thang trên các hướng. Từ 1966, hàng loạt trung đoàn tên lửa ra quân. Trên cơ sở đó, chúng ta đă nhanh chóng tổ chức sư đoàn pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ với quy mô 2 - 4 trung đoàn tên lửa và 4-5 trung đoàn cao xạ bảo vệ yếu địa, bảo vệ các tuyến vận chuyển chiến lược và tham gia tác chiến chiến dịch quân binh chủng hợp thành. Sư đoàn pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ đă trở thành một binh đoàn chiến thuật - chiến dịch cơ bản của lực lượng pḥng không Việt Nam.
Thứ năm, trận đầu ra quân của tên lửa là một biểu hiện sinh động của sự vận dụng quan điểm chiến tranh nhân dân trên mặt trận đối không.
Trận đầu ra quân của tên lửa không phải là một trận đánh độc lập mà là một trận đánh hiệp đồng giữa tên lửa - cao xạ, giữa lực lượng pḥng không Quân chủng với lực lượng pḥng không địa phương để bảo vệ tên lửa và thực hiện phương pháp chiến thuật "nhử địch". Trận đánh đă thực sự phát huy tối đa khả năng chiến đấu của lực lượng pḥng không 3 thứ quân, tạo sức mạnh tổng hợp đạt hiệu quả chiến đấu cao. Lực lượng pḥng không Quân chủng bố trí thành cụm trung tâm, lực lượng pḥng không địa phương và dân quân tự vệ bố trí đón các đường bay thấp của địch, lúc bay vào cũng như hạ thấp độ cao thoát ra. Tên lửa đánh địch tầng cao, buộc địch phải hạ thấp độ cao bay vào đánh trận địa tên lửa, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại pháo cao xạ và súng pháo phát huy khả năng tác chiến.
Để phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, bảo đảm cho trận đánh thắng lợi, Uỷ ban nhân dân và Sở Công an tỉnh Hà Tây đă cử đại diện bên cạnh Sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng để huy động lực lượng công an bảo đảm an ninh địa bàn, bảo đảm an ninh trong hành quân cơ động, huy động lực lượng địa phương phục vụ cơ động triển khai, ngụy trang che giấu, tổ chức lực lượng pḥng không địa phương và dân quân phối hợp tác chiến, tổ chức lực lượng vây bắt giặc lái. Đặc biệt Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây và chính quyền địa phương đă phối hợp với Quân chủng huy động nhân dân tham gia làm trận địa dă chiến và đường cơ động trong địa bàn một cách bí mật, khẩn trương, đáp ứng yêu cầu tác chiến. Đó là một thực tiễn rất sinh động trong việc vận dụng quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào mặt trận đối không.
Trận đánh mở đầu của tên lửa ngày 24-7-1965 trên vùng trời Hà Tây là điểm khởi đầu thành công, là một thực tiễn rất phong phú làm cơ sở cho sự phát triển nghệ thuật tác chiến pḥng không trong chiến tranh, nhất là đối với bộ đội tên lửa. Do vậy, ngày 24-7-1965 đă trở thành Ngày truyền thống của bộ đội tên lửa Việt Nam. Trận đánh mở đầu của tên lửa tuy đă cách đây mấy chục năm, nhưng măi măi vẫn là một mốc son chói sáng trong lịch sử chống chiến tranh phá hoại của quân dân miền Bắc. Những bài học kinh nghiệm của trận đánh sẽ c̣n được các thế hệ tiếp tục nghiên cứu khai thác ở nhiều góc độ để vận dụng trong điều kiện mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(Nguyễn Ngọc Quư)
Khi nhóm máy bay tham gia không kích bay đến khu vực biển Nam của Trung Quốc, mỗi phi công hô lên qua radio "tới biển rồi". Khi người cuối cùng hô lên, chỉ huy nhóm không kích thông báo lần cuối về cuộc tấn công vừa rồi "một chiếc bị mất tích - Super heat 3".
Jim Nunn vẫn không nh́n Cal Swanson. Khi cậu ta bay đến bờ biển th́ nh́n thấy một chiếc F-8 đang bay một ḿnh. Đó là một chiếc F-8 từ một phi đội anh em của phi đội 162. Viên phi công này cũng lạc mất chỉ huy nhóm bay. Nunn nhập vào với chiếc F-8 này và họ đă khiêu khích lực lượng pḥng không của miền Bắc Việt; thế là họ phải lượn sang phải, quặt sang trái để tránh pháo pḥng không.
Khi Swanson hạ cánh xuống tàu Oriskany th́ Nunn đă đưa máy bay vào đúng vị trí đỗ rồi. Cal hỏi ngay: "Chuyện ǵ đă xảy ra vậy?".
Nunn nói "Tôi lượn vào khu vực mục tiêu và cắt bom. Lúc nh́n lên th́ anh đă bay đi đâu mất rồi”. Rơ ràng là Nunn cảm thấy có lỗi về việc bỏ bạn bay cùng là Swanson, v́ lo lắng cho sự mất tích của Dennison, đă vội vă đi nhanh vào pḥng chuẩn bị.
Rick Adams nói đầu tiên: "Tôi chắc chắn rằng tôi đă nghe thấy tiếng Terry cố gắng gọi cho đồng đội nhưng họ không nghe thấy. V́ lúc đó có quá nhiều máy bay liên lạc điện đàm. Có lẽ hệ thống radio bị trục trặc và câm như đá. Anh ta đang gọi th́ phải. Chờ đă?".
Một viên phi công khác cũng kêu lên: "A, tôi đă nghe thấy anh ấy. Chắc chắn là anh ấy đang gọi đó".
Và một viên phi công ôm lấy mặt: "Vâng tôi cũng đă nghe thấy anh ấy gọi?".
Thuyền trưởng Iarrobino bước vào pḥng chuẩn bị. Mọi người đứng yên và giăn ra nhường đường cho thuyền trưởng và lùi ra sau. Iarrobino tiến về phía b́nh cà phê nơi chỉ huy Bellinger đang đứng với hai bàn tay cầm chặt một cốc cà phê. Cal Swanson bước vào pḥng trước khi hai người đó có cơ hội trao đổi với nhau. Swanson nói: "Hôm nay chúng bắn ác quá. Tôi nh́n thấy 3 quả tên lửa lao về phía tôi. Và có quá nhiều tên lửa đến nỗi tôi không đếm được". Anh ta tḥ tay vào chiếc túi trên ống tay áo của bộ đồ bay và móc ra một bao thuốc hiệu Luckies. Hai bàn tay của anh ta rung rung. Bellinger nhanh nhẹn rút bật lửa từ trong túi ḿnh ra và bật lửa mời Swanson châm thuốc.
Thuyền trưởng Iarrobino hỏi: "Phi đội của cậu mất một chiếc hả Cal?".
"Vâng thưa thuyền trưởng. Anh ta trúng tên lửa”. Swanson vừa nói vừa cúi mặt nh́n xuống sàn nhà. "Sau một hồi tất cả máy bay đều lao xuống cắt bom và thoát ra khỏi đó càng nhanh càng tốt. Chúng tôi đă không phá sập được cây cầu đó". Giọng anh ta đanh lại: "Chúng ta đă sử dụng quá nhiều máy bay cho cuộc chơi này, có quá nhiều máy bay trên trời”.
Bellinger cắt lời rất nhanh: "Thế vậy chúng ta nên làm ǵ?". Anh ấy nói to và mỉm cười: "Chẳng nhẽ là treo giải thưởng cho những gă phi công đó 5 triệu đô la để họ phá tan cái cây cầu quái quỉ đó hả?".
Swanson và thuyền trưởng Iarrobino bước vào pḥng tác chiến để thực hiện cuộc phỏng vấn về những diễn biến cuộc không kích vừa qua. Rick Adams đứng bên cạnh Bellinger trước khi hai người đó bước ra khỏi cửa "Thuyền trưởng, tôi đă nghe thấy Terry gọi. Một số người khác cũng nghe thấy vậy". Anh nói.
"Không đâu Rick ạ. Cậu ta đă bị bắn hạ rồi?" Bellinger nói và ôm lấy viên phi công trẻ này.
Sau mấy tháng leo thang đánh phá đến vĩ tuyến 20 không đạt kết quả, giặc Mỹ mở rộng phạm vi đánh phá lên phía bắc, đánh các tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội, Lạng Sơn - Hà Nội, đường sắt Hải Pḥng - Hà Nội... nhằm cắt đứt các tuyến vận tải chiến lược của miền Bắc.
Đường bộ số 5 từ Hà Nội đi Hải Pḥng về tuyến đường sắt chạy song song với nó dài trên 100 km là một trong những đường giao thông huyết mạch của miền Bắc. 60% khối lượng hàng hóa nhập qua cảng Hải pḥng được vận chuyển bằng tuyến đường bộ và đường sắt này lên Hà Nội, từ đó chuyển đi các địa phương và vào chiến trường đánh Mỹ.
Ngày 5 tháng 11 năm 1965, địch huy động 15 máy bay thuộc lực lượng Hải quân, cất cánh từ tàu sân bay Oriskany đánh phá cầu Lai Vu trên đường số 5 và một số trận địa tên lửa, pháo cao xạ ở phía tây Hải Pḥng. Các lực lượng pḥng không bảo vệ cầu Lai Vu đă hiệp đồng chặt chẽ, nổ súng kịp thời và chính xác, bắn rơi tại chỗ một máy bay A 4. Tên giặc lái bị quân, dân huyện Thanh Hà (Hải Hưng) bắt sống. Cầu Lai Vu được bảo vệ nguyên vẹn.
Ngày 9 tháng 11 , Thường vụ thành ủy Hải Pḥng họp; có đại diện Bộ Tư lệnh 350 , Bộ Tư lệnh sư đoàn pḥng không 363 tham dự, nghiên cứu rút kinh nghiệm trận đánh ngày 5 tháng 11 và phán đoán âm mưu thủ đoạn hoạt động của địch ở khu vực Hải Pḥng - đường số 5. Thường vụ Thành ủy nhận định: trong những ngày tới, địch sẽ tiếp tục đánh phá cầu Lai Vu, cầu Phú Lương. Có thể chúng sẽ chưa đánh vào trung tâm thành phố. Phân tích đường bay của địch, Hội nghị nhận thấy địch sử dụng máy bay của hải quân cất cánh từ các tàu sân bay ngoài biển Đông rà thấp theo triền sông Văn Úc, sông Thái B́nh để tránh sự phát hiện của các đài ra-đa của ta. Thường vụ Thành ủy giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh 350 và lực lượng pḥng không thuộc thành phố rút một bộ phận lực lượng bảo vệ yếu địa, tổ chức thành một cụm chiến đấu tương đối mạnh, xây dựng trận địa phục kích đón lơng đường bay của địch, quyết tâm bắn rơi từ 2 đến 4 máy bay, phối hợp với các lực lượng pḥng không bảo vệ đường số 5.
Được Quân khu đồng ư, Bộ Tư lệnh 350 đă tập trung phần lớn các đơn vị pḥng không trực thuộc thành một cụm, gọi là cụm Thành Công, gồm 2 đại đội pháo cao xạ 37mm, 1 đại đội súng máy cao xạ 14 ly 5, 2 đội súng máy. Thiếu tá Đoàn Ngọc Cát, Chủ nhiệm cao xạ thuộc Bộ tư lệnh, được chỉ định làm chỉ huy trưởng cụm. Hỏa lực của cụm gồm 6 khẩu 37 ly, 6 khẩu 14 ly 5, 14 khẩu đại liên. Các trận địa bố trí ở hai bên bờ sông Mới, bên trái thuộc hai xă Tiên Cường, Đại Thắng (huyện Tiên Lăng), bên phải thuộc xă Giang Biên (huyện Vĩnh Bảo). Trận địa phục kích bố trí ở đây có thể cắt ngang đường bay của địch từ biển vào, tạo thế bí mật, bất ngờ đánh máy bay địch lúc chúng bay thấp dọc triền sông hoặc hất chúng lên cao, tạo điều kiện cho các đơn vị pháo cao xạ và tên lửa ở tầm trung và tầm cao tiêu diệt. Phốt hợp chiến đấu với cụm Thành Công có các tổ bắn máy bay của trung đoàn 50 bộ binh và dân quân thuộc 20 xă ven sông Văn Úc, sông Thái B́nh và ven biển các huyện Tiên Lăng, Vĩnh Bảo, An Thụy. Các tổ này chỉ được bắn máy bay khi chúng bay ra và những chiếc bay lẻ, tuyệt đối không nổ súng vào đội h́nh địch lúc chúng bay vào, nhằm bảo đảm bí mật. bất ngờ cho cụm Thành Công.
Ngày 13 tháng 11 , sau khi vượt qua những đoạn đường trơn lầy sau các trận mưa to, các đơn vị đă chiếm lĩnh vị trí chiến đấu đúng thời gian qui định, bảo đảm bí mật, an toàn. Các chiến sĩ tranh thủ củng cố công sự. lấy phần tử bắn, tập bắt mục tiêu.
10 giờ 45 phút ngày 17 tháng 11 năm 1965 , hai tốp máy bay địch gồm 8 chiếc bay ở cự ly khoảng 100 đến 300 mét dọc theo triền sông Văn Úc vào đánh phá đường số 5. Đường bay của địch qua khu vực trận địa phục kích của cụm Thành Công đúng như phương án tác chiến đă được chuẩn bị. Các trận địa đồng loạt nhả đạn và ngay từ loạt đầu đă bắn cháy 1 chiếc A-4.
5 phút sau, tốp thứ hai cũng gồm 8 chiếc, theo đường bay của tốp trước qua khu vực phục kích của cụm. Một chiếc trúng đạn, rớt cách trận địa 1800 mét. Tên giặc lái nhảy dù xuống cánh đồng thôn An Bồ liền bị nhân dân bắt sống.
Đúng 11 giờ, tốp thứ ba, cũng với đường bay và độ cao như tốp trước bay qua trận địa. Thêm một chiếc nữa trúng đạn, rơi tại chỗ. Cùng lúc, những tốp bay vào trước bị các đơn vị tên lửa, pháo cao xạ bảo vệ đường số 5 đánh trả quyết liệt, vội vă tháo chạy ra hướng biển Các trận địa lập tức quay ṇng pháo, chặn đường bay ra của chúng. Pháo đặt trên nền đất mới đắp, có chỗ bị sụt lún. Các pháo thủ ghé lưng, gồng pháo lên, kê lại chân. Trong giây phút khẩn trương, chiến sĩ Phạm Văn Ph́ dùng tay nắm ṇng khẩu súng máy cao xạ c̣n đang nóng bỏng, nhanh chóng đều chỉnh thăng bằng mặt súng, tranh thủ thời cơ diệt địch. Một chiếc A-4 trúng đạn bốc cháy, rơi xuống chân Ḥn Dáu. Tên giặc lái nhảy dù xuống băi phi lao nằm giữa địa giới hai xă Đại Hợp, Đoàn Xá.
Trận địa trên đồi 72.
Một phi đội cứu hộ của địch gồm máy bay đậu trên nước, máy bay trực thăng và máy bay phản lực cường kích yểm hộ từ ngoài biển bay vào ḥng cứu giặc lái. Chúng lùng sục dọc theo triền sông Văn Úc, bắn phá các băi cát ven biển và ở cửa sông thuộc các xă Đại Hợp, Đoàn Xá, Vinh Quang, nhằm ngăn chặn lực lượng bắt giặc lái của ta. Các tổ chiến đấu phối hợp với cụm Thành Công đặt trận địa dọc triền sông Văn Úc kịp thời nổ súng đánh địch. Tổ chiến đấu của nhân dân hai xă Thụy Hương, Thuận Thiên trang bị toàn súng trường đặt trận địa trên đỉnh núi Trà Phương, đón đúng ṿng lượn của một chiếc AD-6. Chiếc máy bay này trúng đạn, rơi xuống cồn cát xă Vinh Quang. Sau trận đánh, khi thu lượm mảnh xác máy bay, các chiến sĩ dân quân phát hiện, tên giặc lái bị một viên đạn súng trường xuyên qua gót chân lên ngực, chết ngay trong buồng lái. Đây là chiếc máy bay đầu tiên bị súng trường của dân quân bắn rơi trên vùng trời Hải Pḥng.
Cuộc chiến đấu ở khu vực tên giặc lái nhảy dù diễn ra căng thẳng phức tạp. Tiểu đoàn 7 bộ binh điều ngay khẩu đội 12 ly 7 từ thôn Đại Lộc sang Quần Mục và đưa khẩu đội ĐKZ ra sát mép nước để tăng cường lực lượng đánh địch. Tốp máy bay AD-6 lồng lộn dữ dội. Chiếc cầu tre trên đường cơ động của khẩu đội 12 ly 7 bị địch bắn gẫy. Bốn chiến sĩ dân quân gái dùng vai nâng cầu cho khẩu đội vượt qua. Chị Phạm Thị Thuận, xă viên hợp tác xă Nam Hải dùng thuyền ghép thành cầu phao đưa khẩu đội ĐKZ nhanh chóng đến vị trí chiến đấu. Đại đội súng máy cao xạ thuộc trung đoàn 50 đặt trận địa trên đồi 72 (Đồ Sơn) bắn mănh liệt vào đội h́nh máy bay địch, hất chúng lên cao, bảo vệ cho các đơn vị bạn bắt giặc lái. Khi chiếc máy bay lên thẳng phát hiện được vị trí tên giặc lái bị rơi, đang hạ độ cao th́ khẩu đội ĐKZ cũng vừa ra đến cồn cát sát mép nước. Khẩu đội kịp thời nổ súng, buộc chiếc máy bay lên thẳng và toàn phi đội cứu hộ của địch phải bỏ chạy.
Toàn bộ trận đánh diễn ra trong 30 phút. Sáu máy bay Mỹ bị diệt, trong đó cụm Thành Công bắn rơi 4 chiếc, dân quân hai xă Thụy Hương, Thuận Thiên bắn rơi 1 chiếc và tiểu đoàn 7 bộ binh (trung đoàn 50) bắn rơi 1 chiếc. Đây là một trận đánh có hiệu suất cao, do bộ đội ta nắm được quy luật hoạt động, phán đoán đúng đường bay của địch, bố trí trận địa , hỏa lực tập trung và thích hợp, chiến đấu dũng cảm, hiệp đồng chặt chẽ. Cùng với chiến công của bộ đội pháo cao xạ, tên lửa, của vũ khí tầm trung và tầm cao, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ với súng máy cao xạ và súng trường đă bắn rơi tại chỗ máy bay phản lực hiện đại. Trận đánh phi đội máy bay cứu hộ của địch diễn ra ở những phút chót thể hiện quyết tâm diệt địch đến cùng và có ư nghĩa như một trận tập dượt, mở đầu cho những chiến công bắt giặc lái sau này của quân và dân thành phố Cảng.
Chiến thắng của cụm Thành Công ngày 17 tháng 11 năm 1965, là trận đầu ra quân thắng Mỹ tuyệt đẹp của quân, dân Hải Pḥng. Nó củng cố niềm tin đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch , mang lại nhiều kinh nghiệm quư và cổ vũ mạnh mẽ khí thế quyết đánh và quyết thắng của nhân dân và các lực lượng vũ trang thành phố Cảng.
HỎA HOẠN TRÊN TÀU ORISKANY
Ngày 26 tháng 10 năm 1966, khi tiếng c̣i báo cháy vang lên. Cal Swanson c̣n đang ngủ say sưa hơn cả vào buổi sáng diễn ra vụ tấn công Cổ Chai 3 tháng trước. Chiếc Oriskany phải rời bến sớm để tới San Diego, chuyến chinh chiến của nó sắp kết thúc. Cổ Chai hiện ra trong đầu Swanson là vụ tấn công tồi tệ nhất mà ông từng tham gia vụ duy nhất trong đó một phi công của hạm đội phải thiệt mạng. Butch Verich đă bị bắn rơi hồi tháng 8 nhưng đă được t́m thấy bởi 1 máy bay lên thẳng mà không có rắc rối ǵ. Ít tuần sau, vào ngày 9 tháng 10, Trung tá Bellinger hạ được 1 chiếc Mig. Đó là một trận oanh tạc kinh điển. Belly đă chiến đấu rất hay. Mọi người đều cho rằng lẽ dĩ nhiên anh đáng được phấn khởi dù sau đó anh có hành vi không hay khi đi quanh boong tàu nốc hết cốc này sang cốc khác mà điều đó theo một số thuỷ thủ đoàn đă gây khó chịu cho cấp dưới của anh ta. Rượu bị cấm trên tàu Mỹ chỉ trừ những dịp đặc biệt như sau vụ giải cứu ra khỏi lănh thổ của kẻ thù hay sau một chiến thắng quan trọng, khi đó cũng chỉ được uống một cốc rượu chiếu lệ. Rất nhiều đồ uống được đưa lên tàu nhưng được cất kín chứ chẳng ai lại phô ra như Bellinger. Đại tá Iarrobino đă bỏ qua hành vi sai trái đó của Belly và cho anh ta tới Sài G̣n để thuật lại thắng lợi của ḿnh cho phóng viên mục tin vắn hằng ngày tờ Five O'clock follies và rồi mọi người cũng được đọc báo viết về Oriskany và phi đội 162 . Chí khí của phi đội vốn đă cao lại được đẩy lên cao hơn và ai cũng cảm thấy ḿnh đóng vai tṛ quan trọng trong việc ngăn chặn miền Nam Việt Nam đến với Chủ nghĩa cộng sản.
Khi tiếng c̣i báo cháy vang lên, Đại tá JohnIarrobino đang ngồi trên bàn giấy trong ca bin nhưng ông vẫn có thể vui mừng trước chuyến đi của Oriskany trên Yankee Station. Tất cả mọi người trên chuyến bay đă thực thí nhiệm vụ rất xuất sắc. Chưa có chiếc không hạm nào làm nhiệm vụ trên biển mà dũng cảm và quyết tâm đến thế, chưa thủy thủ đoàn của con tàu nào lại phải làm việc trong một thời gian dài dưới điều kiện khó khăn và nguy hiểm như vậy. V́ khiêm tốn, Iarrobino đă không nói rằng sự thành công của Oriskany một phần là nhờ công điều khiển con tàu của ông nhưng trên thực tế, con tàu đă lập một kỷ lục về tiếp tế quân trang mà không ai ở Yankee Station có thể vươn tới: trung b́nh 1 giờ 435.5 tấn đạn dược đă được vận chuyển từ tàu chở vũ khí USS Mt Ratmai ở ngay giữa biển. Iarrobino rất hài ḷng với phản ứng của thuỷ thủ đoàn khi ông nói rằng chiếc tàu sân bay Franklin D. Roosevelt sẽ thay thế Oriskany. Họ đă ném chiếc đinh vít đi để quay lại Nhật sửa chữa con tàu, đồng ư lại lâu hơn. Đă quá 2 tuần so với lịch tŕnh mà Oriskany chưa cập bến nên việc ghé lại Hồng Công theo dự kiến bị loại bỏ khiến mọi người rất buồn nhưng rồi họ vẫn tiếp nhận điều đó hết sức b́nh thường. Chí khí của họ vẫn c̣n cao.
Ngoài sự thiệt mạng của các phi công dưới lưới lửa BắcViệt chỉ có 2 sự cố xảy ra trong suốt chuyến đi làm ông kém vui. Sự cố thứ nhất xảy ra vào ban đêm, dây dẫn bị đứt khi b́nh tiếp nhiên liệu được hạ xuống tàu. Một chiếc máy bay hạ cánh vướng đuôi vào một trong bốn dây cáp dăng trên sàn boong. Dây dẫn quấn vào đuôi máy bay, giật máy bay đi một đoạn rồi mới dừng. Khi tai nạn xảy ra, dây dẫn dứt, nó lướt nhanh trên boong như một lưỡi hái, xén đứt bất cứ thứ ǵ trong tầm hái của nó. Trong đêm đó, một binh nh́ và một hạ sĩ quan đă phải chịu nạn. Một phi công thuộc hạm đội 162 vừa mới từ buồng lái bước xuống đột nhiên cảm thấy có cái ǵ đó ướt và nhớp nháp giáng mạnh vào ngực. Đó là cái chân của anh hạ sĩ quan nằm trên sàn máy bay đang cố đứng dậy nhưng không hiểu sao lại không được và không nhận ra rằng cả hai chân ḿnh vừa bị cắt đứt. C̣n anh binh nh́ bị thương rất nặng.
Bookmarks