Tờ “Quan điểm” Nga ngày 19/9 có bài viết cho rằng, cuộc đối đầu chính trị giữa Trung Cộng và Nhật Bản (do vấn đề tranh chấp đảo) ngày càng gay gắt. Chuyên gia chiến lược quân sự Nga đă tiến hành đánh giá về thực lực quân sự của hai bên, và dự đoán “cơ” giành chiến thắng của mỗi bên nếu xảy ra xung đột quân sự.
Máy bay chiến đấu J-10 của Trung Cộng
Máy bay chiến đấu F-15J Nhật Bản
Ưu thế thực lực của mỗi bên
Vasily Kashin, nhà nghiên cứu cấp cao, Trung tâm Phân tích Chiến lược và Công nghệ Nga cho rằng, ở trên biển, Bắc Kinh hoàn toàn không có ưu thế số lượng mang tính áp đảo, đồng thời, về chỉ tiêu chất lượng, tàu chiến Trung Cộng hoàn toàn thua xa Nhật Bản.
Ông nói: “Bắt đầu từ năm 2007, người Trung Cộng mới bắt đầu chế tạo được tàu chiến đáng nói, c̣n các tàu chiến cũ kỹ trước đó hoàn toàn không có “đất dụng vơ”. Bắc Kinh sở hữu tàu ngầm có thể tạo ra mối đe doạ nhất định đối với Nhật Bản, nhưng Hải quân Nhật Bản luôn coi trọng khả năng chống tàu ngầm.
Tôi từng có cơ hội được nghe chuyên gia chiến tranh trên biển của Mỹ đánh giá, họ nói thẳng rằng, trong tác chiến chống tàu ngầm, bất kể là kinh nghiệm, thiết bị, chiến thuật, Lực lượng Pḥng vệ Nhật Bản thậm chí c̣n mạnh hơn quân Mỹ. Trong khi đó, chỉ nói về tần suất diễn tập sẵn sàng chiến đấu trên biển, tàu ngầm Trung Cộng làm c̣n lâu mới đủ”.
Ông nhấn mạnh: “Hạm đội Trung Cộng cấp bách muốn có bước nhảy vọt về sẵn sàng chiến đấu, chiến thuật và tác chiến biên đội. Vào thời điểm tương tự, Liên Xô hoàn toàn không có lực lượng bờ biển tác chiến độc lập ở vùng biển cách xa tuyến đường bờ biển của nước này, nhưng trải qua mấy chục năm nỗ lực, cuối cùng họ trở thành một hạm đội toàn cầu. Trên con đường này, Trung Cộng chỉ mới có những bước đi đầu tiên.
Biên đội tàu khu trục 052B/C của Hải quân Trung Cộng.
Tàu khu trục hoả tiển Aegis lớp Atago Nhật Bản
Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, Hải quân Trung Cộng c̣n lấy pḥng ngự duyên hải là tư tưởng tấn công chủ yếu, tức là lấy hạm đội duyên hải làm chủ lực, tàu chiến cỡ lớn rất hiếm, ṇng cốt là thuyền máy và rất nhiều pháo binh bờ biển.
Măi đến giữa thập niên 90, sức mạnh của Hải quân Trung Cộng mới bắt đầu thực sự phát triển, về chất lượng, thành quả này mấy năm trước mới từng bước được thể hiện. Hải quân Trung Cộng thiếu kinh nghiệm làm cho họ có cảm giác tự tin”.
Khác với Kashin, Konstantin Sivkov, Phó Viện trưởng Học viện Địa-chính trị Nga đánh giá sức mạnh của Hải, Không quân Trung Cộng cao hơn một chút: “Về số lượng, Quân đội Trung Cộng hơn nhiều Nhật Bản. Trung Cộng có 2,5 triệu quân, Nhật Bản chỉ có 250.000 quân. Nhưng, chiến tranh xung quanh ḥn đảo tranh chấp sẽ chủ yếu dựa vào hải, không quân.
Để đoạt lấy các ḥn đảo trên, Trung Cộng có thể sẽ điều động 400-500 máy bay chiến đấu, không ít hơn 20 tàu ngầm diesel, rất có thể sẽ c̣n điều 3 tàu ngầm hạt nhân. Do những ḥn đảo trên cách đất liền không xa, không loại trừ sẽ điều động rất nhiều tàu tên lửa, tàu khu trục tên lửa.
Phía Nhật Bản có thể điều gần 150 máy bay tiêm kích chiến thuật, tàu ngầm diesel, 5-10 tàu khu trục và tàu hộ vệ. Số lượng tàu chiến dùng để bảo vệ đảo tranh chấp của Nhật Bản chỉ bằng 1/3 của Trung Cộng”.
Nhưng ông chỉ ra: “Không quân Cộng chủ yếu sử dụng máy bay kiểu cũ. Về chất lượng, máy bay chiến đấu của Nhật Bản có ưu thế mang tính quyết định. Bắc Kinh thiếu máy bay cảnh báo sớm trên không, c̣n loại máy bay này của Tokyo có thể đảm bảo được việc đoạt lấy quyền kiểm soát trên không, chỉ huy không chiến tốt hơn, giúp cho ưu thế của Không quân Nhật Bản nổi bật hơn. Nói chung, trong không chiến, cho dù Bắc Kinh có ưu thế về số lượng, nhưng Trung Cộng và Nhật Bản có lực lượng tương đương.
Về hải quân, tŕnh độ công nghệ và kỹ thuật chế tạo tàu ngầm của Trung Cộng c̣n dừng lại ở những thập niên của thế kỷ trước, tiếng ồn rất lớn. Tàu ngầm của người Nhật lại hoàn thiện hơn, tiếng ồn nhỏ hơn, có thể đối phó có hiệu quả với tàu ngầm Trung Cộng.”.
Hoả tiển tầm trung DF-21C Trung cộng
Hoả tiển Patriot-3 Nhật Bản
Bookmarks