Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
Richard H.Shultz, Jr
P30
CHƯƠNG TÁM
VIỆC KIỂM SOÁT CỦA TỔNG THỐNG
ĐỐI VỚI CHIẾN TRANH BÍ MẬT:
THÁI ĐỘ HĂNG HÁI CỦA KENEDY VÀ SỰ BỐI RỐI CỦA JOHNSON
Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, hồ sơ các điệp vụ bí mật của SOG và sự giám sát của Nhà Trắng đối với các điệp vụ đó bị vùi sâu trong hầm chứa của Lầu Năm Góc. Người ta không bao giờ định đưa chúng ra ánh sáng. Những con người dũng cảm vạch kế hoạch và thực hiện những hoạt động đó không được công chúng công nhận. SOG quá nhạy cảm về chính trị.
Rồi chiến tranh lạnh kết thúc. Dần dần, những câu chuyện về SOG xuất hiện. Một cựu nhân viên của SOG đă kể lại những hoạt động dũng cảm. John Plaster công tác ở SOG ba năm, trong đó có hai năm lănh đạo các toán thám báo “vượt qua giới tuyến” sang Lào. Năm 1997, Plaster xuất bản một cuốn sách đáng chú ư về những con người đương đầu với quân đội miền Bắc trên đường ṃn Hồ Chí Minh1. Cuối cùng, những thành tích của cựu chiến binh SOG, sự hy sinh và ḷng dũng cảm của họ cũng như các chiến hữu đă nằm lại, được xuất hiện trước công chúng.
Sự ghi nhận này không bền lâu. Thậm chí SOG c̣n bị xuyên tạc trong một phóng sự của CNN về một điệp vụ tại Lào mang mật danh “Tailwind” - Đuôi gió. Phóng sự điều tra này được phát ngày 7-6-1998 và cáo buộc rằng trong một điệp vụ tuyệt mật của SOG nhằm tiêu diệt lính Mỹ đào ngũ ở Lào, hơi độc, chất Sarin, đă được thả xuống số nhân viên dân sự và quân sự của đối phương. Sau đó, bài phóng sự c̣n được hai tác giả April Oliver và Peter Arnett đăng trên tạp chí “Time”2.
CNN cho hay vào ngày 11-9-1970, một đơn vị của SOG gồm 16 lính Mỹ và 140 người Thượng đổ bộ xuống Lào để tấn công một “bản được coi là nơi trú ẩn của một nhóm binh sĩ Mỹ đào ngũ chạy sang đối phương”. Theo Oliver và Arnett, “nhiệm vụ của đơn vị này là tiêu diệt họ”. Trước khi tiến hành tấn công, một toán thám báo được cử đi trinh sát xem số đào ngũ có ở đó không. Toán này đă phát hiện “một số người Mỹ ở trong bản”3. Ngày hôm sau, cuộc tập kích bắt đầu và chỉ diễn ra “không quá mười phút”. Oliver và Arnett cho hay: “12, 15 hoặc có thể là 20” lính Mỹ đào ngũ bị giết, nhưng “không một xác chết nào được nhận dạng hoặc mang về” v́ lực lượng của đối phương đang áp sát. Khi trận chiến trở nên ác liệt, “các toán thám báo được chỉ thị sử dụng mũ pḥng độc. Sau đó là tiếng nổ của quả nổ chứa hơi độc”4. Theo CNN, “điều này mang lại kết quả ngay lập tức. Khi máy bay trực thăng cất cánh, một thành viên tham gia tập kích nh́n thấy “toàn là xác chết, ... họ không c̣n chiến đấu được nữa. Họ nằm la liệt, số nằm nghiêng, số nằm ngửa. Họ đă không c̣n là chiến binh nữa”5.
Sự cáo buộc, nếu đúng, sẽ biến những binh lính và phi công Mỹ, những người tham gia vào cuộc tập kích, trở thành tội phạm chiến tranh. Hơn nữa, như CNN lưu ư, hành động đặc biệt như vậy phải được Nhà Trắng cho phép trước khi thực hiện. “Mọi trường hợp sử dụng hơi độc phải có sự phê chuẩn của nhóm an ninh quốc gia của Nixơn”6. Điều đó có đúng sự thật không?
CNN tuyên bố bài phóng sự là quả bom tấn gây chấn động lớn và có những nhân vật tiếng tăm trong giới truyền thông Mỹ đứng đằng sau. Đối với nhiều người, câu chuyện thật đáng tin. Nhưng tin tức bắt đầu dần sáng tỏ. Các nhà báo khác bắt đầu phân tích kỹ bài phóng sự, đặt ra nghi ngờ về tính xác thực của lời cáo buộc và chỉ ra những sai sót hiển nhiên trong bài báo.
Tạp chí Newsweek - Tuần tin tức - nổ phát súng đầu tiên bằng việc nêu ra những nghi ngờ về tính xác thực của nhân chứng chính mà CNN đưa ra - một thành viên của điệp vụ “Tailwind”, người cung cấp phần lớn nội dung câu chuyện. Sau đó, nhân chứng này trở cờ, công khai phủ nhận rằng ḿnh là nguồn tin cho những lời cáo buộc của CNN. Uy tín của CNN bị suy giảm nghiêm trọng khi tính xác thực của hai trong số các nhân chứng khác bị lật tẩy. Họ không hề tham gia vào điệp vụ đó.
Một nhân chứng chủ yếu khác của Oliver và Arnett là cựu Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, đô đốc Thomas Moore. Tin tức cho biết: ông đă “khẳng định có việc sử dụng Sarin trong hoạt động ở Lào và các điệp vụ giải cứu phi công bị bắn rơi trong chiến tranh Việt Nam”7. Tuy nhiên không có đoạn băng quay cảnh Moore đang nói như vậy. Arnett và Oliver giải thích rằng Moore “khẳng định có sử dụng Sarin nhưng không muốn bị ghi lại”8. Trong Newsweek và các báo chí khác, Moore kịch liệt bác bỏ tin trên. Các nguồn tin khác của CNN, kể cả viên đại uư lục quân chỉ huy cuộc tập kích, đều tố cáo bài phóng sự đă hiểu sai lệch lời nói của họ. Trong quá tŕnh chuẩn bị, CNN cho biết đă phỏng vấn tất cả 200 nguồn tin. Sau chương tŕnh phóng sự, một số người nói với phóng viên là họ chỉ khẳng định có sử dụng hơi cay chứ không phải hơi ngạt.
Sự mổ xẻ của báo chí đối với phóng sự gần như là cuộc giải phẫu pháp y. Sau đó, cuộc điều tra nội bộ của CNN do Floyd Abram, một luật sư được giới truyền thông rất tôn trọng, thực hiện đă bồi thêm đ̣n cuối cùng. Abram tuyên bố: “Luận điểm chính của phóng sự không đứng vững tại thời điểm phát sóng cũng như hiện nay”9.
Tuy nhiên, có một câu hỏi cần được nhấn mạnh nhưng đă bị bỏ qua trong quá tŕnh xem xét trên, mà câu trả lời chỉ càng làm đậm thêm tính không tin cậy của toàn bộ phóng sự do CNN thực hiện. Liệu Nhà Trắng có chiều hướng cho phép SOG tiến hành điệp vụ ngầm nguy hiểm và dễ gây bùng nổ về chính trị như vậy không? Sự thật lịch sử chứa đựng trong các tài liệu giải mật của SOG cho thấy Nhà Trắng không có xu hướng đó. Sự giám sát của tổng thống đối với mọi hoạt động của SOG, bắt đầu từ 1964 và kéo dài trong suốt tám năm tồn tại của SOG, không phải đặc trưng bởi sự sẵn sàng chấp nhận mà là mong muốn tránh rủi ro. Phóng sự của CNN về điệp vụ “Tailwind” đă vẽ ra một bức tranh lộn ngược về thái độ của Nhà Trắng.
SỰ GIÁM SÁT CỦA NHÀ TRẮNG VỀ CHIẾN TRANH BÍ MẬT
SOG điều hành hoạt động bí mật lớn nhất của Hoa Kỳ trong thời chiến tranh lạnh. Tổ chức này thực hiện hàng loạt điệp vụ bí mật trong ḷng miền Bắc Việt Nam và chống lại đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào và Campuchia. Mỗi một hoạt động đều cần sự phê chuẩn của Nhà Trắng. Chiến tranh bí mật không phải là một hoạt động đơn độc và độc lập của CIA hoặc Lầu Năm Góc. Tổng thống Kenedy và tổng thống Johnson đều giám sát một cách sát sao nhưng với nguyên nhân rất khác nhau. Kenedy tích cực t́m cách sử dụng hoạt động ngầm để làm suy yếu và buộc Hà Nội phải ngừng thúc đẩy chiến tranh ở Việt Nam. Johnson có cách tiếp cận thận trọng hơn. Ông hạn chế chiến tranh bí mật v́ e ngại có thể gây ra những đổ vỡ về chính trị nếu các hoạt động này bị phơi bày trước quốc tế. Do đó, không một việc ǵ SOG thực hiện mà Nhà Trắng lại không biết và tán thành. Sau khi đă được đề cập qua trong các chương trước, chương này phân tích tỷ mỷ phương pháp tiếp cận của Kenedy và Johnson.
Sự hăng hái của “Giới tuyến mới”
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1960, ứng cử viên John F. Kenedy tuyên bố: “giới tuyến của nước Mỹ là ở sông Ranh, sông Mê Công, sông Tigris và sông Amazon. Chúng ta có trách nhiệm duy tŕ tự do cho toàn thế giới”10. Khi đă vào Nhà Trắng, Kenedy lo ngại rằng những đường biên giới mới đó đang có nguy cơ bị đẩy lùi bởi sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản và nhất là thông qua lật đổ du kích. Ông nhanh chóng nhận ra t́nh h́nh ở Mê Công đang xấu và Nam Việt Nam đang gặp phiền phức. Kenedy sẵn sàng trụ lại ông không có ư định để mất Việt Nam. Thay vào đó như Bobby Kenedy tuyên bố, “chúng ta sẽ giành thắng lợi ở Việt Nam”11. Để làm điều đó, những con người của đường biên giới mới kết luận rằng cần phải có học thuyết mới và phương pháp tiếp cận mới để đánh bại phong trào cộng sản.
Nhằm phát triển những khái niệm này, Kenedy tuyển chọn những người mà Halberstam mô tả là “những nhà tư duy và hành động thế hệ mới”. Những người này tin rằng “chúng ta phải ngăn cản chủ nghĩa độc tài và do điều duy nhất mà các nhà độc tài hiểu được là vũ lực, chúng ta phải sẵn sàng sử dụng sức mạnh”12. Tuy nhiên, họ bác bỏ phương pháp tiếp cận thông thường cũ kỹ v́ cho đó không c̣n phù hợp với những mối đe doạ mới. Những ǵ cần thiết ở đây là tư duy sáng tạo và sức tưởng tượng, điều đó dẫn đến chiến lược chiến tranh đặc biệt và các biện pháp ngầm đặc biệt. Các quan chức cao cấp trong chính quyền mới, từ Kenedy trở đi, là những người ủng hộ mạnh mẽ những biện pháp mới này.
Walt Rostow, một trong số thuộc giới thân cận đó, nhớ lại trong những ngày đầu tiên của Kenedy ở Nhà Trắng, “bài phát biểu khuyến khích chiến tranh giải phóng dân tộc và cách mạng ở Đông Nam Á, châu Phi và Cu Ba của Khrushchev đă thu hút sự quan tâm của tổng thống về những thách thức mới này”. Rostow nhận xét những diễn biến trong chính sách của Kremlin “làm cho báo cáo của Lausdale trở nên rất quan trọng”. Khi được hỏi liệu Kenedy có ủng hộ mạnh mẽ việc khởi đầu hoạt động ngầm chống Hà Nội để đáp lại việc họ hỗ trợ Việt Cộng không, Rostow trả lời: “Có chứ. V́ cộng sản khuyến khích nổi dậy, tổng thống muốn làm tương tự để buộc Hà Nội vào thế pḥng thủ”13.
____________________ ___________________
1. Plaster, “SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam”
2, 3, 4. April Oliver và Peter Arnett “Hoa Kỳ có rải hơi ngạt không?”, Time, số ra ngày 15-6-1998, tr. 37-39, 38, 37, 39.
5, 6, 7. April Oliver và Peter Arnett, Sđd, tr. 38,37,39, 38-39
8. Robert Caldwell, “Câu chuyện đầy nghi ngờ của CNN về hơi ngạt và lính đào ngũ” Sandiego Times Union (ngày 21-6-1998), tr.G-1.
9. CNN đă mời luật sư Floyd Abrams tiến hành cuộc điều tra độc lập về phóng sự, kết luận của ông, được đưa lên mạng Internet, đă bác bỏ thẳng thừng nội dung phóng sự.
10. Lloyd C.Gardner “chịu bất kỳ giá nào: Lyndon Johnson và chiến tranh Việt Nam”, (Chicago: Ivan R.Dee, 1995), tr.32.
11. Lloyd C.Gardner “chịu bất kỳ giá nào: Lyndon Johnson và chiến tranh Việt Nam”, (Chicago: Van R.Dee, 1995), tr.66.
12. Halberstam, “Những người xuất sắc và thông minh nhất”, tr.43.
13. Phỏng vấn với Walt Rostow, ngày 2-4-1998, tr. 1.
Trong giới thân cận của Kenedy, người cổ vũ hoạt động ngầm mạnh mẽ nhất là Bộ trưởng Tư pháp Robert Kenedy. Ông là thành viên của cả Uỷ ban 5412 (sau này là 303) và Nhóm đặc biệt chống bạo loạn, hai cơ quan bí mật của Hội đồng an ninh quốc gia được thành lập để chỉ đạo chính sách của Nhà Trắng về hoạt động chiến tranh đặc biệt. Việc Bộ trưởng Tư pháp tham gia vào các vấn đề này là điều hết sức lạ lùng. Bởi v́, cơ quan của ông chủ yếu xử lư các vấn đề pháp lư trong nước chứ không có nhiệm vụ chống du kích quân cộng sản và lật đổ những chính phủ ủng hộ họ. Brute Krulak c̣n nhớ mối quan tâm của Robert Kenedy về hành động ngầm và vai tṛ của ông trong quyết tâm sử dụng hành động đó làm công cụ của chính sách ngoại giao. Theo Krulak, “ông có ảnh hưởng rất lớn”.
Ảnh hưởng của Robert Kenedy thể hiện rơ trong việc ông hối thúc CIA xoá bỏ chế độ Castro sau sự kiện Vịnh Con lợn. Sau thất bại đó, chính quyền thành lập một tổ chức bí mật khác trong Hội đồng an ninh quốc gia mang tên Nhóm đặc biệt - SGA. Nhiệm vụ của nhóm là chỉ đạo giai đoạn tiếp theo của hoạt động chống Cu Ba mang mật danh “Mongoose”. Tổng thống chỉ định em trai làm Chủ tịch SGA với mục đích nhanh chóng đẩy mạnh hoạt động ngầm chống Castro. Khi kết quả không có ǵ khả quan, anh em Kenedy đều rất thất vọng.
Người phụ trách các hoạt động bí mật của CIA lúc bấy giờ là Richard Bissell bị triệu đến Nhà Trắng vào mùa thu 1961, và, theo Bissell, “bị khiển ngay trong pḥng họp chính phủ bởi Tổng thống và Bộ trưởng Tư pháp v́ lỗi ngồi ỳ và không chịu làm ǵ để gạt bỏ Castro”1. Trong hồi kư, Bissell tường thuật chi tiết cách thức anh em Kenedy yêu cầu CIA tăng cường hoạt động: “Anh em Kenedy muốn có hành động nhanh chóng. Robert Kenedy sẵn sàng t́m giải pháp ở mọi nơi... sự tham gia của ông vào việc tổ chức và chỉ đạo Mongoose sâu sát đến mức như ông là phó giám đốc chỉ đạo nghiệp vụ của CIA”2. Tương tự, Robert McNamara cũng xác nhận có “sức ép từ John Kenedy và Robert Kenedy đ̣i hỏi phải làm điều ǵ đó đối với Castro”3.
Theo Richard Helm, cựu giám đốc CIA, công cụ được chọn để loại bỏ Castro sau sự kiện Vịnh Con lợn là “hoạt động” ngầm4. Là đại diện của CIA tại Uỷ ban 5412 đầu những năm 1960. Helm thường gần gũi với anh em Kenedy. Ông nhớ lại “phải chịu áp lực hàng ngày từ Bobby Kenedy”5. Anh em nhà Kenedy “muốn có hoạt động ngầm chống Cu Ba, Việt Nam và những nơi khác và t́m cách nhanh chóng triển khai việc đó”6.
Trong những người thân cận của Kenedy, Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara là người ít có khả năng ủng hộ hoạt động ngầm nhất v́ vị cựu Chủ tịch công ty Ford Motor ít hiểu biết về vấn đề này. Tuy nhiên, từ mùa hè 1962, đến .cuối 1964, McNamara là chất xúc tác thúc đẩy Lầu Năm Góc tiếp nhận và leo thang chiến tranh ngầm chống Hà Nội của CIA. Đến 1965, sự ủng hộ của McNamara bị suy giảm nhanh chóng do ông chuyển trọng tâm sang việc áp dụng chiến lược theo quy ước cho chiến tranh Việt Nam.
William Colby, người trực tiếp chỉ đạo hoạt động ngầm chống Hà Nội khi c̣n là trưởng trạm CIA ở Sài G̣n, nhớ rằng McNamara là người quyết đoán. Theo Colby, McNamara tin rằng CIA chỉ “ham chơi chứ chưa thực sự có hoạt động lớn quan trọng trong ḷng miền Bắc đến mức có tác động”. Colby không quan tâm đến quy mô của chương tŕnh CIA mà coi trọng tính chất của mục tiêu. Ông cho rằng Hà Nội là hạt đỗ quá cứng không thể nghiền được. Quan điểm này bị Bộ trưởng Quốc pḥng bác bỏ: “Ông phản bác lập luận đó bằng quan điểm cho rằng CIA làm không đủ lớn”. Bộ Quốc pḥng “có thể cung cấp thêm sức lực và làm cho hoạt động ngầm hiệu quả hơn”7.
Khi đă có quyết định chuyển giao chiến tranh ngầm cho Lầu Năm Góc, thái độ trên của McNamara dẫn đến việc thực hiện sớm kế hoạch 34A. Đó là những ǵ đại uư Murray trải qua trong năm 1964 khi tŕnh các đề nghị hoạt động của SOG lên cho Bộ trưởng Quốc pḥng phê duyệt. Murray trực tiếp mang những đề nghị đó vào văn pḥng của McNamara. Khi nhớ lại giai đoạn này, Murray nhận xét rằng trong toàn bộ hệ thống chỉ huy, McNamara là “động lực chủ yếu. Tôi không t́m được ai khác ở Lầu Năm Góc là động lực đằng sau hoạt động này”. Khi được hỏi McNamara có phản đối đề nghị nào của SOG không, Murray khẳng định “không, ít nhất là theo tôi biết”8.
Những người thân cận khác của Kenedy như McGeorge Bundy và Walt Rostow cũng cổ vũ việc sử dụng hoạt động ngầm chống lại miền Bắc. Ngoài ra, theo William Sullivan, William Bundy cũng đóng vai tṛ quan trọng. Trong năm 1964, anh trai của George Bundy làm việc dưới trướng McNamara với chức vụ phó trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng về các vấn đề an ninh quốc tế. Sullivan khẳng định rằng Bill Bundy soạn thảo các công văn và điện về 34A cho McNamara. “Mặc dù các bức điện có chữ kư của McNamara”, Sullivan tin là “phần lớn số đó là do Bill Bundy khởi xướng và soạn thảo”9.
Với tất cả sức mạnh hỗ trợ việc đẩy mạnh hành động ngầm chống lại miền Bắc như trên, không có ǵ ngạc nhiên khi CIA tỏ ra bất lực, chính quyền Kenedy rất không hài ḷng về công việc của cơ quan này. Các nhân viên CIA trực tiếp chỉ đạo hoạt động chống Hà Nội được Washington chỉ thị đẩy mạnh công việc. Ví dụ Tucker Gougelman, người phụ trách hoạt động ngầm trên biển trong chương tŕnh hoạt động của CIA, được chỉ thị mở rộng tập kích phá hoại để “chuẩn bị cho việc thành lập hoạt động chống đối ở miền Bắc trong tương lai”10. Hay nói một cách khác, Gougelman được thông báo bước tiếp theo sẽ là gây dựng phong trào du kích bên trong miền Bắc. Bill Colby, lúc bấy giờ đang ở Sài G̣n, nhớ lại sức ép từ Nhà Trắng: “Họ hy vọng muốn làm điều ǵ đó một cách nhanh chóng để cân bằng với những vấn đề chúng ta đang chịu đựng ở miền Nam”11.
Thất bại của CIA trong việc tạo ra hiệu quả dẫn đến việc chính quyền t́m phương tiện thực hiện khác thay thế. Lầu Năm Góc là ứng cử viên duy nhất. Theo hồ sơ, có ba yếu tố dẫn đến quyết định chuyển giao hoạt động ngầm cho quân đội. Yếu tố thứ nhất liên quan đến sự cam kết “ngăn chặn sự thống trị của cộng sản ở Nam Việt Nam và mở rộng cường độ các hành động liên minh” của Kenedy. Vào năm 1963, t́nh h́nh ở Nam Việt Nam đă đạt đến đỉnh điểm của một cuộc khủng khoảng. Cần phải áp dụng các biện pháp mới - dưới dạng hoạt động tăng cường - để ngăn chặn cuộc khủng hoảng đó. Các biện pháp đó bao gồm “những hoạt động bán quân sự ngầm chống Bắc Việt Nam”12.
Lư do thứ hai dẫn đến việc giao nhiệm vụ trên cho Lầu Năm Góc là việc “cần có nỗ lực chung ăn khớp chống Hà Nội trong lĩnh vực hoạt động bán quân sự bí mật”13. Nhà Trắng kết luận rằng việc này nằm ngoài khả năng của CIA. Chỉ có quân đội, với hiểu biết về chiến tranh đặc biệt, có thể đẩy mạnh hoạt động đến mức có thể kiềm chế được Hà Nội.
Lư do thứ ba, liên quan trực tiếp đến lư do thứ hai, nhấn mạnh sự khó chịu ngày càng tăng của chính quyền đối với “tính tương đối kém hiệu quả của chương tŕnh chống Hà Nội của CIA”14. Cơ quan t́nh báo đă không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, ngay trong việc thực hiện kém cỏi đó của CIA, có hy vọng le lói có thể thành hiện thực nếu hoạt động ngầm được mở rộng. Mặc dù chỉ trích CIA v́ không làm được ǵ mấy, Nhà Trắng nhận thấy trong báo cáo hoạt động của CIA, “Bắc Việt Nam rất chú ư đến các hoạt động đó”. V́ vậy họ đă “thành lập hệ thống báo động quốc gia”. Rơ ràng, Hà Nội lo ngại các hoạt động vụn vặt của CIA có thể dẫn đến nguy cơ “h́nh thành nhóm du kích quân được dân chúng miền Bắc ủng hộ”. Điều này có thể dẫn đến việc “nổ ra cuộc nổi dậy”15. Đây là căn cứ để Nhà Trắng xác định hoạt động ngầm đă đi đúng hướng. Hà Nội đang lo lắng về các mối đe doạ đó, ngay cả khi nó c̣n rất yếu ớt. Theo quan điểm của chính quyền đây là điểm cần khai thác và đẩy mạnh việc thực hiện.
____________________ ___________________
1. Quốc hội Hoa Kỳ, Uỷ ban nghiên cứu hoạt động chính phủ trong hoạt động t́nh báo của Thượng viện, “Các âm mưu ám sát liên quan tới lănh đạo nước ngoài”, (Washington DC, Nhà in chính phủ, 1975), tr 334.
2. Richard Bissell; Hồi tưởng về một chiến binh”, (New Haven, Conn. Yale Univvesity Press, 1996), tr.201.
3, 4, 5. “Các âm mưu ám sát liên quan tới lănh đạo nước ngoài, tr.334.
6. Phỏng vấn Richard, ngày 6-6-1997.
7. Phỏng vấn lịch sử với William Colby trong “MACVSOG; Phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan phục vụ trong OP34 của SOG” tr.9 -11.
8. Phỏng vấn với đại úy William Murray, tr.21, 24.
9. Phỏng vấn với đại sứ William Sullivan ngày 27-9-1997, tr.5.
10. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG” phụ lục C, phần hoạt động trên biển”, tr. 1.
11. Phỏng vấn lịch sử với William Colby, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP34 của SOG”.
12, 13, 14. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, Phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 88.
15. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr.64 - 65
Ảo tưởng của chính quyền Kenedy
Khi đă quyết định chuyển giao nhiệm vụ cho Lầu Năm Góc, chính quyền Kenedy không nhượng bộ bất kỳ một sức ép nào từ giới tướng lĩnh nhằm đá lại quả bóng cho CIA. Mỗi khi Maxell Taylor, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân có ư định đó, mọi cố gắng của ông đều bị ngăn chặn. McNamara đă nhận nhiệm vụ và trù tính sẽ triển khai thực hiện. Nếu Nhà Trắng đang vội vă thúc đẩy chiến tranh bí mật, Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara cũng vậy.
Sự cam kết của McNamara đối với chương tŕnh chiến tranh đặc biệt của Kenedy là lư do chủ đạo dẫn đến việc ông ủng hộ quyết định chuyển giao hoạt động ngầm cho Lầu Năm Góc, mặc dù phải đối mặt với sự phản kháng của Hội đồng tham mưu trưởng. Walt Rostow ghi nhận: McNamara “hậu thuẫn mạnh mẽ tổng thống, người muốn chuyển hoạt động ngầm chống Bắc Việt Nam ra khỏi CIA”1. Richard Helm cũng đưa ra lời giải thích tương tự: “Sự nhiệt t́nh của McNamara phản ánh thái độ của John và Bobby Kenedy. Nếu họ ủng hộ, Menamara cũng vậy”2.
McNamara xây dựng quan hệ cá nhân với anh em Kenedy, như ông đă kể lại trong cuốn sách về Việt Nam xuất bản năm 1995. Tuy nhiên, vào năm 1961, McNamara vừa được bổ nhiệm làm Chủ tịch công ty Ford Motor và không có quan hệ ǵ với tổng thống vừa đắc cử. Đột nhiên, một hôm Bobby Kenedy gọi điện thoại cho McNamara: “Tổng thống đắc cử rất vui nếu anh có thể gặp em rể chúng tôi Sargent Shriver”. McNamara nhận lời và cuộc gặp được thu xếp vào buổi chiều cùng ngày. McNamara sửng sốt khi nghe Shriver nói: “Tôi được uỷ quyền để nói với anh rằng Jack Kenedy muốn anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng”. McNamara đáp. “Điều này thật vô lư... Tôi không đủ năng lực”3. Hai tuần sau McNamara nhận lời.
Tại sao Kenedy lại chọn một người không có kinh nghiệm thực sự về các vấn đề an ninh quốc gia? Theo McNamara giải thích, ông được người khác giới thiệu: “Tôi biết có hai người có vai tṛ chủ yếu: Bob Lovett, người biết tiếng tăm của tôi tại Ford và công việc của tôi trong quân đội trong chiến tranh thế giới thứ hai và John Keneth Galbraith, một nhà kinh tế học theo trường phái tự do ở Harvard”. cả hai cho rằng tổng thống đắc cử cần một Bộ trưởng Quốc pḥng là “doanh nghiệp với những tư tưởng sáng tạo”4. Hiển nhiên là, những người giới thiệu McNamara cho Kenedy tin là Lầu Năm Góc cần một vị giám đốc điều hành doanh nghiệp cao cấp chứ không phải là một nhà tư duy chiến lược sáng tạo. Mặc dù không phải người thuộc giới thân cận của Kenedy từ ban đầu, McNamara trở thành người được anh em nhà Kenedy ưa thích.
Theo Roger Hilman, người được Kenedy bổ nhiệm làm trợ lư ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Viễn Đông năm 1963, lư do thứ hai dẫn đến việc Kenedy ủng hộ chiến tranh bí mật chính là phương pháp quản lư của ông. Hilsman giải thích: “McNamara muốn tự ḿnh kiểm soát mọi thứ và cố gạt những người khác ở Washington ra”5. Hilsman chỉ ra: “giới báo chí thường cáo buộc McNamara là khao khát quyền lực và độc đoán. Là Bộ trưởng Quốc pḥng, ông có dịp bộc lộ những điều đó... McNamara sắc sảo, quyết đoán, và tự tin”6.
Nhận xét của Hilsman giúp làm sáng tỏ vai tṛ của McNamara trong quyết định năm 1963 chuyển giao hoạt động ngầm chống miền Bắc từ CIA sang Lầu Năm Góc. Phong thái quản lư của McNamara tại Lầu Năm Góc gần giống như chế độ một người lănh đạo và điều này làm ông luôn bất hoà với Hội đồng tham mưu trưởng. Trong tám năm làm Bộ trưởng Quốc pḥng, McNamara chưa bao giờ ngần ngại bác bỏ quan điểm của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân về các vấn đề quân sự thuần tuư. Những người bất đồng với ông mà t́m cách kêu lên Nhà Trắng hoặc Quốc hội thường thua khi tranh luận và buộc phải nghỉ hưu.
Do đó, không có ǵ ngạc nhiên khi McNamara qua mặt giới tướng lĩnh trong hoạt động ngầm chống Hà Nội. Ông nghĩ ḿnh biết nhiều hơn là các tham mưu trưởng. Sự phản đối mănh liệt của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đối với chương tŕnh chiến tranh đặc biệt của Kenedy cũng chẳng ăn thua ǵ. McNamara đang lănh đạo Lầu Năm Góc c̣n Hội đồng tham mưu trưởng liên quân th́ ngày càng thấy bị gạt ra khỏi quyết định mà ḿnh phản đối. Đối với chiến tranh bí mật, Rostow mô tả như sau: “Vào năm 1963, McNamara đă tăng cường quyền lực và cho rằng ḿnh sẽ làm tốt hơn CIA”7.
Trên thực tế, hai lư do trên đây đă dẫn McNamara đến chỗ cổ vũ cho một chính sách mà ḿnh ít hiểu biết. Ông chỉ đạo Lầu Năm Góc tiếp nhận và gia tăng chiến tranh bí mật chống Bắc Việt Nam đồng thời phải làm ngay sau một đêm!
McNamara không phải là người duy nhất thiếu hiểu biết về hành động ngầm. Số người có thái độ nhiệt t́nh về chiến tranh đặc biệt trong chính quyền Kenedy nh́n chung không hiểu biết về tính phức tạp trong việc thực hiện hoạt động ngầm chống địa bàn bị từ chối. Krulak tin là “những người nhiệt t́nh đó... nhiệt t́nh bởi v́ họ nghĩ đó là cách đơn giản và rẻ tiền để gây sức ép với Hà Nội”8. Mặc dù Bắc Việt Nam dễ bị tổn thương, khai thác những điểm yếu đó không phải chuyện dễ dàng và có thể làm được trong chốc lát. Không có căn cứ ǵ cho thấy những người thúc đẩy chính sách này trong chính quyền Kenedy hiểu được thực tế đó.
Hilsman nói thẳng: “Họ không hiểu. Họ không có lư do ǵ để tin là chúng ta có thể thực hiện ở Bắc Việt Nam những ǵ họ đang làm ở Nam Việt Nam. Tôi không tin là các thành viên của Uỷ ban 303 có hiểu biết sâu sắc về vấn đề này”9.
Helm c̣n thẳng thắn hơn: “có sự nhiệt t́nh lớn về hoạt động ngầm đồng thời cũng có sự thiếu hiểu biết lớn về việc các hoạt động đó và tính phức tạp khi thực hiện chúng”10.
Tương tự như vậy, Kenedy và các cố vấn thân cận dường như không nắm được sự thiếu năng lực của Lầu Năm Góc trong việc phát động hoạt động ngầm. V́ lực lượng đặc biệt đang được mở rộng, họ giả định là các phương tiện đề tăng cường hoạt động ngầm ra Bắc đă sẵn sàng. Tuy nhiên, sự thực lại không phải như vậy, nhất là năng lực thành lập và chỉ đạo mạng lưới gián điệp và tiến hành chiến tranh tâm lư. Ở cương vị của ḿnh, Brute Krulak nh́n thấy rơ những khoảng cách này trong năng lực quân đội. Krulak tin rằng chỉ đạo mạng lưới gián điệp và điều phối những hoạt động chiến tranh tâm lư là nằm ngoài khả năng của Lầu Năm Góc. Thậm chí, kết luận này c̣n đúng với lực lượng đặc biệt, mà “chức năng chủ yếu... là nhảy dù vào một nước, nơi đă sẵn có tổ chức bạn bè, và giúp đỡ họ một chút... Hoạt động gián điệp tương thích với CIA nhiều hơn”11.
Vào cuối mùa thu 1963, động lực mà Nhà Trắng tạo ra đă đạt đỉnh cao và tạo đà cho việc duy tŕ hoạt động ngầm ngay cả sau khi Kenedy bị ám sát. Tuy nhiên, khi Johnson nghiên cứu kỹ nội dung kế hoạch 34A và khả năng tác động của kế hoạch này đối với chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964 và chương tŕnh chính trị trong nước, ông nhanh chóng giảm bớt nỗ lực đẩy mạnh chiến tranh bí mật và chọn phương án thận trọng hơn.
____________________ ____________________ ___
1. Phỏng vấn với W.W. Rostow, tr.2.
2. Ghi chép của tác giả trong buổi phỏng vấn Richard Helms (6-6-1997 ).
3, 4. McNamara. “Hồi tưởng- Bi kịch và bài học của Việt Nam”, tr.14.
5. Thư của Roger Hilsman (1-8-1997), tr. 1.
6. Roger Hilsman, “Để lay chuyển một dân tộc” (New York: Della Books, 1967), tr.44.
7. Phỏng vấn với W.W. Rostow, tr.2.
8. Phỏng vấn với thiếu tướng Victor Krulak, tr.1.
9. Thư từ của Hilsman, tr.2.
10. Ghi chép của tác giả trong buổi phỏng vấn Richard Helms. (6-6-1997).
11. Phỏng vấn tướng Victor Krulak, tr.5.
Tổng thống Johnson tiếp nhận: sự bối rối xuất hiện.
Ngày 22 tháng 11 năm 1963, vào khoảng 2h40 chiều, Lyndon Baines Johnson trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Trong hồi kư, Johnson nhắc lại sự choáng ngợp mà ông phải đối mặt ngày hôm đó: “tôi bị kéo vào một công việc khó khăn nhất mà một người phải đảm đương và không hề được chuẩn bị trước. Công việc không thể chờ đợi một tuần, hay một ngày, hoặc thậm chí một giờ”1. Điều này đúng với t́nh h́nh ở Nam Việt Nam hiện đang vật vă sau khi Diệm bị ám sát.
Bookmarks