Dù cố giải thích cách nào, th́ vẫn không thể chối bỏ PG đă đóng một vai tṛ lớn trong biến cố 1963
Ôb Phèng ni nói câu ni th́ hơi bị thừa. Chiện ai ai cũng phải noái như rứa thui mà.
mà tu dĩ PG là những người đă lợi dung chiếc áo thầy tu mà thao túng tinh thần Phật tử cho mục đích chính trị
Ôb Phèng...chua câu này th́ hơi bị....phèng.
Thôi th́ lại phải sơ lược vài mốc chính của vấn đề để xem ôb phèng ni phèng tới đâu.
Ngày 10 tháng 5 năm 1963, PG ra tuyên ngôn phát động cuộc tranh đấu, đưa ra "5 NGUYỆN VỌNG":
1.Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa thu hồi vĩnh viễn công điện cấm treo cờ tôn giáo nơi công cộng.
2.Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các hội truyền giáo Thiên Chúa Giáo đă được ghi trong Đạo dụ số 10.
3.Yêu cầu chính phủ chấm dứt t́nh trạng bắt bớ và khủng bố tín đồ Phật giáo.
4.Yêu cầu cho tăng ni phật tử được tự do truyền đạo và hành đạo.
5.Yêu cầu chính phủ bồi thường thích đáng cho những người chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải bị xét xử.
Ngày 20/5/1963, Phật giáo gửi chính quyền một tài liệu 45 trang trong đó liệt kê những vụ đàn áp, bắt bớ và thủ tiêu.
Ngày 23/5/1963, tại chùa Từ Đàm, một Bản Phụ đính của Tuyên ngôn 10/5/1963 được công bố, giải thích rơ ràng năm nguyện vọng nói trên. Nội dung bản Phụ đính này gồm:
1.Phật Giáo Việt Nam không chủ trương lật đổ chính phủ để đưa người của ḿnh lên thay thế mà chỉ nhằm đến sự thay đổi chính sách của chính phủ.
2.Phật Giáo Việt Nam không có kẻ thù, không xem ai là kẻ thù. Đối tượng của cuộc tranh đấu tuyệt đối không phải là Thiên Chúa Giáo mà là chính sách bất công tôn giáo.
3.Cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ cho b́nh đẳng tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của lư tưởng công bằng xă hội.
4.Cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ được thực hiện theo đường lối bất bạo động.
5.Phật Giáo Việt Nam không chấp nhận sự lợi dụng của bất cứ ai vào cuộc tranh đấu cho b́nh đẳng tôn giáo và công b́nh xă hội.
Bản Phụ đính cũng đề nghị chính quyền rút tất cả các tôn giáo ra khỏi phạm vi ràng buộc của Đạo dụ số 10, và ban hành một chế độ đặc biệt cho tất cả các tôn giáo, trong đó có Phật giáo và Gia Tô giáo.
Ngày 25/5/1963, Phụ trương của Bản Phụ đính được công bố. Mục đích của văn kiện này là nhắc lại vai tṛ lập quốc và xây dựng nền văn hóa quốc gia trong quá tŕnh lịch sử dân tộc của Phật giáo và nói rơ lập trường tranh đấu của Phật giáo cho công bằng xă hội.
Theo như rứa th́ "5 NGUYỆN VỌNG" được nêu ra có ǵ mang mục đích chính trị hông nhể?
Sau đó, h́nh như để tránh đụng chạm đến "tôn giáo bạn" và những xuyên tạc, chụp mũ, PG lại đưa ra bản "PHỤ ĐÍNH" để xác định rơ lập trường theo đuổi cuộc đấu tranh.
Như vậy th́ tui thấy PG đă chuẩn bị kỹ lưỡng và cân nhắc thấu đáo.
Để trả lời "5 NGUYỆN VỌNG" của PG, ông Diệm một mặt th́ "phớt lờ" hỏng thèm quan tâm nguyện vọng nguyện viết ǵ sất. Một mặt ông Diệm tung quân đi đàn áp các cuộc biểu t́nh, bao vây chùa chiền, bắt bớ những người tham gia tranh đấu. Trước thái độ chây ĺ của chế độ Diệm và trước t́nh cảnh bi quan của cuộc tranh đấu, ngày 11/6/1963, ông thầy Thích Quảng Đức bèn phát nguyện làm một cú tự thiêu chưa ai từng nghĩ đến. Và đúng là cuộc tự thiêu "kiêu hùng" của ông thầy chùa này đă làm "ngai vàng" của ông Diệm bắt đầu lung lay.
2 giờ sáng ngày 16/6/1963, ông Diệm chấp thuận "đàm phán" với PG bằng 1 Bản Thông Cáo Chung với nội dung:
I- Quốc Kỳ - Đạo Kỳ
Quốc kỳ tượng trưng cho Linh Hồn Dân Tộc, phải được luôn luôn tôn trọng và phải được đặt đúng vị trí.
A- Lễ Quốc gia: Chỉ treo cờ Quốc gia.
B- Lễ Phật giáo:
1. Tại chùa: Quyền Môn, Cổng Chùa, Cột lớn giữa sân chùa. Mặt tiền chùa, Cờ Quốc gia bên phải, Cờ Phật giáo bên trái, nhỏ hơn (hai phần ba)
* Cờ rủ: Cờ Phật giáo mà thôi
* Sân chùa (để trang hoàng) mắc trên dây: toàn cờ Phật giáo, bằng giấy cỡ nhỏ
* Trong chùa: chỉ treo cờ Phật giáo
2. Lễ đài:
* Chân đài và chung quanh: Cờ Quốc gia bên phải, Cờ Phật giáo bên trái, nhỏ hơn (hai phần ba)
* Trên đài (có thể coi như là trong chùa): Chỉ treo cờ Phật giáo
3. Đám rước:
* Đi trước:
Nếu chỉ một người đi trước, cầm hai cờ: Quốc gia bên phải, Phật giáo bên trái, nhỏ hơn (hai phần ba)
Nếu có hai người đi trước, mỗi người cầm một, cũng theo thể thức trên.
* Phía sau: Tín đồ chỉ cầm một cờ Phật giáo cỡ nhỏ
4. Xe nhân vật Phật giáo: Không treo cờ ǵ cả
5. Tư gia:
* Trước nhà: Hai cờ như trước chùa
* Trong nhà: Chỉ treo cờ Phật giáo
Để áp dụng đúng đắn các khoản trên đây, cần quy định:
Cờ treo bên phải: (phải) từ ngoài lộ trông vô chùa
Cờ nhỏ hơn: (nhỏ) là bằng hai phần ba cờ quốc gia (các cán bộ không nên quá khắc khe về kích thước)
II. Dụ số 10.
Tách hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ số 10 và lập một quy chế hợp với tính cách đặc biệt về nhu cầu sinh hoạt của những Hiệp Hội Tôn Giáo ấy.
Quy chế đó sẽ là một đạo luật do Quốc hội soạn thảo với sự tham khảo trực tiếp ư kiến các tôn giáo liên hệ.
Quốc hội sẽ biểu quyết Đạo luật này chậm lắm là cuối năm 1963 hoặc đầu năm 1964. Trong khi chờ đợi ban hành Đạo luật mới. Ủy Ban Liên Bộ đồng ư sẽ có những chỉ thị cần thiết để Dụ số 10 không áp dụng quá khắc khe đối với các hội Phật giáo, Phật học hiện hữu. Phái đoàn Phật giáo cam kết chỉ thị cho các tăng ni chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp quốc gia và thi hành mọi biện pháp kỷ luật nội bộ đối với những hành động lệch lạc.
III. Vấn đề bắt bớ và giam giữ Phật giáo đồ
Chính phủ lập một Ban Điều Tra để xét lại các hồ sơ khiếu nại của Phật giáo. Tất cả những ai có liên can đến cuộc vận động thực hiện năm nguyện vọng của Tổng Hội Phật giáo đề ra, bất luận ở đâu, sẽ được tổng thống đặc biệt khoan hồng. Chính phủ sẽ xác nhận lệnh sửa sai đă ban ra cho các cán bộ để thực thi chính sách b́nh đẳng tôn giáo của chính phủ.
IV. Tự do truyền đạo và hành giáo.
1. Những sinh hoạt thuần túy tôn giáo và thường xuyên như ngày 14, rằm, 30, mồng một, cầu siêu, cầu an hay các ngày vía nếu làm trong phạm vi nhà cửa hay trụ sở Hội th́ khỏi phải xin phép.
Các sinh hoạt bất thường và ngoài phạm vi nhà chùa hay trụ sở Hội th́ phải xin phép.
2. Về vấn đề các chùa làng có tính cách thuần túy địa phương. Trung ương cần phải có th́ giờ gom góp đủ hồ sơ liên hệ. V́ thế, trong khi chờ đợi, chỉ có thể cho bầu lại ban quản trị mới của các chùa làng nếu xét thấy cần, hầu để cho giới phật tử được tham gia quyền quản trị các chùa này.
3. Xác nhận thông tư số 16-TPP.TTK ngày 23.9.1960 không áp dụng cho việc tiếp nhận cũng như tạo măi động sản và bất động sản của Phật giáo.
4. Dành mọi sjư dễ dàng cho các sư xây cất (chùa, trường học và cơ sở từ thiện)
V. Trách nhiệm và trợ giúp.
Những cán bộ có trách nhiệm về các vụ đă xảy ra từ ngày 8 tháng 5 năm 1963, bất kỳ thuộc thành phần nào, cũng sẽ bị nghiêm trị, nếu cuộc điều tra đang tiến hành chứng tỏ lỗi của họ.
Sự cứu trợ gia đ́nh nạn nhân đang là một mối lo âu của các cơ quan xă hội và của chính quyền.
Các gia đ́nh nạn nhân ở Huế đă được trợ giúp kịp thời và có thể được trợ giúp thêm tùy theo gia cảnh từng người.
Ủy Ban Liên Bộ sẽ phụ trách theo dơi việc thi hành các điều khoản trên nhất là tại các địa phương.
Nếu có sự lệch lạc Tổng Hội Phật giáo sẽ kịp thời báo tin cho Ủy Ban Liên Bộ
Lập thành hai bản chính tại Sài G̣n
Ngày 16.6.1963.
PHÁI ĐOÀN PHẬT GIÁO ỦY BAN LIÊN BỘ
Kư tên Kư tên
Thượng tọa Thích Thiện Minh Nguyễn Ngọc Thơ
Thích Tâm Châu Nguyễn Đ́nh Thuần
Thích Thiện Hoa Bùi Văn Lượng
KHÁN
Ḥa thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam
Kư tên: THÍCH TỊNH KHIẾT
Những diều được ghi trong Thông Cáo Chung này đă được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu.
Kư tên: NGÔ Đ̀NH DIỆM
Văn kiện này là 1 cách xác nhận "5 NGUYỆN VỌNG" mà PG đưa ra là chính đáng. Và là 1 cách gián tiếp, chính quyền Diệm xác nhận những sai sót và trách nhiệm đối với PG. Mục tiêu chính của ông Diệm khi chấp thuận bản TCC này có lẽ là t́nh h́nh xă hội đang sôi sục sau vụ tự thiêu của thầy TQĐ cũng như nguy cơ bùng nổ khi đám tang ngài diễn ra. Sau khi đạt được bản TCC, phía PG đă đáp ứng bằng quyết định tŕ hoăn tang lễ ngài TQĐ và sau đó, tổ chức lễ thiêu ngài trong khuông khổ hạn chế.
Văn kiện này ra đời tưởng chừng như mọi chiện đă xong xuôi. Chính quyền đă đáp ứng "nguyện vọng" của PG. Các cuộc xuống đường của PG đă tạm chấm dứt. Rất tiếc, 1 lần nữa, ông Diệm giỡ tṛ lừa đảo.
Ngày 18.6.1963, văn pḥng tổng thống đánh mật điện cho đại biểu chính phủ các Miền, các vị tổng giám đốc và các vị tư lệnh vùng chiến thuật, ra lệnh tạm thời nhún nhường trước phong trào Phật giáo và chuẩn bị dư luận để đợi phản công lại phong trào này. Bức mật điện mang số 1432/VP/TT, do Đổng lư văn pḥng Phủ Tổng Thống là Quách Ṭng Đức kư ngày 19.6.1963, một bản sao của mật điện lọt vào tay của Ủy Ban Liên Phái. Nguyên văn bức điện như sau: “Để tạm thời làm êm dịu t́nh h́nh và khí thế tranh đấu quyết liệt của bọn tăng ni Phật giáo phản loạn, Tổng Thống và ông Cố Vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ - Các nơi nhận hăy theo đúng chủ trương trên và đợi lệnh - Một kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gửi đến sau - Ngay từ giờ hăy chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới - Hăy theo dơi điều tra thanh trừng những phần tử Phật giáo bất măn và tŕnh thượng cấp kể cả sĩ quan và công chức cao cấp."
Ngày 12/7/1963, thiền sư Thích Tịnh Khiết và lănh đạo các phái Phật giáo khác gửi tổng thống Ngô Đ́nh Diệm kiến nghị yêu cầu chính phủ thực thi nghiêm túc bản Thông cáo chung.
Ngày 14/7/1963, thiền sư Thích Tịnh Khiết gửi thư cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm thông báo quyết định tiếp tục đấu tranh bất bạo động để đ̣i hỏi thực thi nghiêm chỉnh bản Thông cáo chung, đồng thời ra thông bạch kêu gọi tăng ni và tín đồ tiếp tục đấu tranh trên nguyên tắc bất bạo động.
Ngày 15/8/1963, khoảng 1.000 sinh viên - học sinh biểu t́nh tại Huế để phản đối vụ đàn áp trước chùa Phước Duyên và buộc chính quyền trả lại di thể thiền sư Thanh Tuệ, đă tự thiêu trước đó và bị cảnh sát cướp thi thể mang đi. Có lẽ đây là lần đầu tiên Sinh viên-Học sinh nhập cuộc.
Ngày 16/8/1963, tại Huế, tất cả chợ búa, trường học, công ty, xí nghiệp và công sở đều nhất loạt tổng đ́nh công.
Ngày 20 tháng 8 năm 1963, chính phủ huy động cảnh sát, quân đội và lực lượng đặc biệt, với kế hoạch gọi là "Nước Lũ", đồng loạt tấn công các chùa trung tâm tại Sài G̣n và Huế như chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Từ Đàm, Diệu Đế, Linh Quang cùng các chùa lớn làm căn cứ cho cuộc tranh đấu của Phật giáo trên cả nước, bắn nát mặt tượng Phật, bắt giam 1.400 nhà sư cùng các lănh đạo Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Phong trào tranh đấu của PG xem như đă bị dập tắt. Nhưng lại là điểm khởi động của phong trào quần chúng cùng đứng lên tố cáo chế độ Ngô Đ́nh Diệm độc tài, gia đ́nh trị, kỳ thị tôn giáo, phi nhân và gian ác.
Chế độ Diệm tiếp tục đáp trả bằng đàn áp và bắt bớ. Khi xă hội đă đến bên bờ bùng vỡ th́:
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Hội đồng Quân nhân Cách mạng tuyên bố "đáp ứng nguyện vọng của quần chúng" đứng ra lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm.
Ngày 2 tháng 11 năm 1963, 2 anh em Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu bị bắt, và đă trả "quả báo nhăn tiền" thê thảm nhất.
Phần này mai gơ típ.
he he......si du.
Tài liệu lấy ở đây:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%B..._10.2F5.2F1963
http://www.quangduc.com/lichsu/17vnp...38.html#_ftn13
Bookmarks