Đă lỡ nhắc đến " Tiếng Việt...Cộng " , vậy xin nói tiếp...
Chữ-nghĩa-Việt-Cộng-ngày-nay
NỖI BUỒN TIẾNG VIỆT CỦA NGƯỜI DÂN Ở TRONG NƯỚC
Biên khảo của Chu Dau
Ở trong nước, hiện tượng dùng chữ nghĩa kỳ cục do CS Bắc Việt du nhập vào miền Nam, lai căng với nhiều từ ngữ mới chế rất ngô nghê và xa lạ đối với phần đông dân chúng. Với chủ trương nôm na hóa ngôn ngữ Việt, tập đoàn CS nắm quyền đă lạm dụng từ thuần Việt quá mức trở thành thô tục (như: "xưởng đẻ" dùng cho "nhà bảo sanh", "nhà ỉa" dùng cho "nhà vệ sinh", hay "lính thủy đánh bộ" dùng cho "thủy quân lục chiến" v. v... , và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa .
Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, theo sinh hoạt xă hội . Mỗi ngày, từ những đổi mới của đời sống, từ những ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc mà ngôn ngữ dần dần chuyển biến. Những chữ mới được tạo ra, những chữ gắn liền với hoàn cảnh sinh hoạt xưa cũ đă quá thời, dần dần biến mất. Cứ đọc lại những áng văn thơ cách đây chừng năm mươi năm trở lại, ta thấy nhiều cách nói, nhiều chữ khá xa lạ, v́ không c̣n được dùng hàng ngày . Những thay đổi này thường làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động hơn, giàu có hơn, tuy nhiên, trong tiếng Việt khoảng mấy chục năm gần đây đă có những thay đổi rất kém cỏi . Ban đầu những thay đổi này chi giới hạn trong phạm vi Bắc vĩ tuyến 17, nhưng từ sau ngày cộng sản toàn chiếm Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975, nó đă xâm nhập vào ngôn ngữ miền Nam.
Rồi, đau đớn thay, lại tiếp tục xâm nhập vào tiếng Việt của người Việt ở hải ngoại . Người ta thuận theo các thay đổi xấu ấy một cách lặng lẽ, không suy nghĩ, rồi từ đó nó trở thành một phần của tiếng Việt hôm nay . Nếu những thay đổi ấy hay và tốt th́ là điều đáng mừng; Nhưng than ôi, hầu hết những thay đổi ấy là những thay đổi xấu, đă không làm giầu cho ngôn ngữ dân tộc mà c̣n làm tiếng nước ta trở nên tối tăm.
Thế nhưng dựa vào đâu mà nói đó là những thay đổi xấu ?
Nếu sự thay đổi đưa lại một chữ Hán Việt để thay thế một chữ Hán Việt đă quen dùng, th́ đây là một thay đổi xấu, nếu dùng một chữ Hán Việt để thay một chữ Việt th́ lại càng xấu hơn. Bởi v́ nó sẽ làm cho câu nói tối đi . Người Việt vẫn dễ nhận hiểu tiếng Việt hơn là tiếng Hán Việt. Nhất là những tiếng Hán Việt này được mang vào tiếng Việt chỉ v́ người Tầu ở Trung Hoa bây giờ đang dùng chữ ấy . Nếu sự thay đổi để đưa vào tiếng Việt một chữ dùng sai nghĩa, th́ đây là một sự thay đổi xấu vô cùng.
Sau đây, chúng tôi xin ghi lại một số từ ngữ (được tạm xếp theo vần abc) mà chế độ CSVN ép dân chúng dùng, đọc lên, nói lên sai với nguyên nghĩa, nghe thô tục, kỳ lạ và ảnh hưởng Tây phương rất nặng, khó có thể chấp nhận:
1. "Buổi đêm". 'Buổi đêm tôi có gặp đồng chí ấỵ Từ xưa đến nay người Việt không bao giờ nói "buổi đêm" cả, chỉ nói "ban đêm", "ban ngày". "Ban" được hiểu như là một thời gian khoảng 12 giờ, ban đêm 12 giờ cộng với ban ngày 12 giờ là 24 giợ C̣n "buổi" th́ chúng ta có "buổi sáng", "buổi trưa", "buổi chiều", "buổi tối". Ban ngày có 12 giờ và tạm coi như có 4 buổi, như vậy mỗi buổi có 3 giờ đồng hộ Night time, day time khác với morning; noon; afternoon; evening. Chúng ta thường nói: 'Chờ ông ấy mất cả buổị Buổi ở đây là khoảng ba giợ Câu nói khác: 'Thế là mất một buổi càỵ Buổi ở đây lại có nghĩa mất cả một ngày công. Chế ra từ buổi đêm là làm hỏng tiếng Việt.
2. "Cải tạo" = transform, improve; re-education. Họ không phân biệt "cải tạo vật chất" với "cải tạo tư tưởng", quan niệm chính tri Nói : 'Phải dùng cát để cải tạo đất', khác với 'Trung úy miền Nam bị đi tù cải tạọ Nếu muốn chữa cho đất có màu mỡ hơn nên dùng "cải tiến", "cải thiện"... Khoảng 50 năm nay từ "cải tạo" cả nước đă hiểu là ở tù rồi!
3. "Cảm giác". 'Xin anh cho biết cảm giác ra sao về hiện tượng đo những ǵ cảm thấy được được bằng giác quan. Có ngũ giác: xúc giác: sờ chạm, thị giác: mắt thấy, thính giác: tai nghe; vị giác: lưỡi nếm, khứu giác: mũi ngửi . Ưó là các sense organs, c̣n cảm giác và cảm tưởng; cảm tính (feeling, khác với lư tính) dễ lầm lẫn v́ đó là sensation, impression. Dùng đúng chữ phải là: 'Xin anh cho biết cảm nghĩ, cảm tưởng, về hiện tượng đo chính xác hơn là "cảm giác". (Ngoài ra impression c̣n có nghĩa là ấn tượng, dấu ấn). Chúng ta có thể nói : có cảm giác ghê sợ, nhờm tởm, lạt lẽo, ấm cúng.. một giác xuất phát từ năo bộ, tuy cũng do từ năm giác quan vừa kể gửi tín hiệu lên óc.
4. "Cầu lông" = Badmington = Một môn thể thao nhẹ nhàng gần giống quần vợt, có giăng lưới cao, dùng vợt nhẹ và quả cầu có gắn lông vũ, đánh qua lại trên lưới . Trên thực tế quả cầu badmington làm giả bằng nhựa không chế bằng lông gà lông vịt nữa . Cách gọi này thô tục quá! Tại sao không gọi là cầu lông vũ hoặc bát-minh-tơn? Người viết c̣n nhớ có lần đă bị bà vợ một đại tá sửa lưng, khi lở miệng nói: lông quả đào . Bà kể lại, tôi bị bà Trg. Tg. Khg. một người miền Bắc chữa khéo: 'Chị nên gọi là tuyết của quả đào th́ lịch sự, thanh tao hơn'. Sau đây là cách dùng sai lạc, nhằm chủ đích tuyên truyền hoặc làm giảm đi hoặc tăng mức quan trọng của sự việc.
5. "Chất lượng": Đây là chữ đang được dùng để chỉ tính chất của một sản phẩm, một dịch vu Người ta dùng chữ này để dịch chữ quality của tiếng Anh. Nhưng than ôi! Lượng không phải là phẩm tính, không phải là quality . Lượng là số nhiều ít, là quantity . Theo Hán Việt Tự Ưiển của Thiều Chửu, th́ lượng là: đồ đong, các cái như cái đấu, cái hộc dùng để đong đều gọi là lượng ca? Vậy tại sao người ta lại cứ nhắm mắt nhắm mũi dùng một chữ sai và dở như thệ Không có ǵ bực ḿnh hơn khi mở một tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại rồi phải đọc thấy chữ dùng sai này trong các bài viết, trong các quảng cáo thương măi . Muốn nói về tính tốt xấu của món đồ, phải dùng chữ phẩm. Bởi v́ phẩm tính mới là quality . Ḿnh đă có sẵn chữ "phẩm chất" rồi tại sao lại bỏ quên mà dùng chữ "chất lượng". Tại sao lại phải bắt chước mấy anh cán ngố, cho thêm buồn tiếng nước ta .
6. "Cuộc gặp" = meet, run into = hội kiến, gặp mặt, gặp gỡ, buổi họp. Nghe "Cuộc gặp" thấy cụt ngủn, chưa trọn nghĩa . Ư họ muốn tả một cuộc hội kiến tay đôi, một lần gặp gỡ, chưa hẳn là một hội nghị (conference). Nên dùng như thí dụ này: "Bộ trưởng Thái đă hội kiến gặp bộ trưởng Lào"...
7. "Cưới". Nhà văn Lê Minh Hà đi từ miền bắc, công tác ở Đông Đức, rồi xin tỵ nạn ở Đức, viết trong tập truyện ngắn "Trăng Góa": 'Bọn này chưa cướí, 'chúng tôi cướí đó là thói quen từ vùng cộng sản. Đây không phải là lối hành văn mới lạ, kiểu cách chỉ là thói quen dùng sai tự To marry, get married, nhưng người Việt phải nói là: 'Chúng tôi chưa làm đám cưới; bọn này cưới nhaụ Câu này lại do một vai nữ tự thuật, lại càng sai nặng nữa . Chúng ta chỉ nói "cưới vợ", không bao giờ nói "cưới chồng" ca? Chỉ có hai trường hợp dùng được hai chữ "cưới chồng". Một là cô gái có lỗi lầm nào đó, nhà gái phải bỏ tiền, chịu mọi chi phí đám cưới để lấy cho được một tấm chồng. Hai là những đồng bào thiểu số, sắc dân nào c̣n theo chế độ mẫu hệ, cô gái cưới chồng, v́ chàng rể sẽ thuộc về nhà gái . Nhà gái phải trả cho nhà trai trâu, lợn, gà, chiêng đồng, v.v. để mua rê?
8. " Đại trà" = on a large scale = cỡ lớn, quy mô lớn. Thí dụ: "đồng bào trồng cây cà phê đại trà". Tại sao không dùng như trước là "quy mô lớn"? Ngoài ra dùng "đại trà" là bắt chước Trung Quốc. Có thể gây hiểu lầm là "cây trà lớn"!!
9. " Đăng kư" = register = ghi tên, ghi danh. Nghĩa rất đơn giản, nhưng bắt chước Trung Quốc, cố dùng Hán-Việt. Câu nói sau đây nghe kỳ lạ: 'Tôi đă đăng kư mua khoai ḿ ở Phường...'. Tại sao không dùng "ghi danh", "ghi tên"?
" Đăng kư" là một chữ mà người Cộng Sản miền Bắc dùng v́ tinh thần nô lệ người Tầu của ho đến khi toàn chiếm lănh thổ, họ đă làm cho chữ này trở nên phổ thông ở khắp nước, Trước đây, ta đă có chữ "ghi tên" (và "ghi danh") để chỉ cùng một nghĩa . Người Tầu dùng chữ "đăng kư" để dịch chữ 'register' từ tiếng Anh. Ta hăy dùng chữ "ghi tên" hay "ghi danh" cho câu nói trở nên sáng sủa, rơ nghĩa . Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ư nô lệ người Tầủ!
10. " Đầu ra, đầu vào" = output, input = cái đưa ra, cái đưa vào, ḍng điện cho vào máy; dữ kiện đưa vào máy vi tính. Họ c̣n dùng có nghĩa là vốn, hoặc th́ giờ, công sức bỏ vào và kết quả của cuộc đầu tư đọ Nhưng dùng "đầu ra, đầu vào" nghe thô tục (giống như từ bộ phận = một phần việc, một nhóm, tổ, đă bị nhà văn nữ Kathy Trần đốp chát, hỏi: "Bộ phận gỉ" bộ phận của đàn ông, đàn bà ả). Có thể dùng "vốn đầu tư" và "kết quả sản lượng".
11. "Giải phóng" = liberate, emancipate/ free, relieve, release = giải tỏa, xả ,thả, trả tự do . Từ giải phóng chỉ nên dùng cho con người, không dùng cho loài vật, đất, vườn... Họ lạm dụng từ giải phóng, nghe không thuận tai và sai nghĩa .
Thí dụ: ' Đă giải phóng (giải tỏa) xong mặt bằng để xây dựng nhà máy/ Anh công an lưu thông tích cực công tác để giải phóng (giải tỏa) xe cộ ../ Em X giải phóng (thả) con chó !! Những câu sau đây mới là dùng đúng cách: 'phong trào giải phóng phụ nữ ../ Công cuộc giải phóng nô lệ ..'
12. "Hiển thị" 'Chỉ cần ấn nút th́ mọi nhu cầu sẽ được hiển thị trên máy tính...' (appear on screen) Tại sao không nói "sẽ thấy hiện rơ trên máy".
13. "Hùng hiểm" ' Địa thế nổi đó rất hùng hiểm...' hùng vĩ = hiểm trở (majestic greatness + dangerous).
14. "Khả năng": Chữ này tương đương với chữ ability trong tiếng Anh, và chỉ được dùng cho người, tức là với chủ từ có thể tự gây ra hành động động theo chủ ỵ Tuy nhiên hiện nay ở Việt nam người ta dùng chữ "khả năng" trong bất kỳ trường hợp nào, tạo nên những câu nói rất kỳ cục. Ví dụ thay v́ nói là 'trời hôm nay có thể mưá, th́ người ta lại nói: 'trời hôm nay có khả năng mưá, nghe vùa nạng nề , vừa sai . "Có khả năng": Đây là cách sử dụng rất Tây, thí dụ: 'Hôm nay thời tiết có khả năng mưá chúng ta tạm chấp nhận (sao không nói giản dị là: "Hôm nay trời có thể mưa" ?). Thí dụ này khó chấp nhận: 'Học sinh X có khả năng không đạt điểm tốt nghiệp'. Có khả năng là ability; aptitude; capacity và luôn luôn dùng ở trạng thái tích cực (positive), không bao giờ dùng với trạng thái tiêu cực (negative). Những câu sau đây nghe rất chướng: 'Bệnh nhân có khả năng bị hôn mệ ' Địch có khả năng bị tiêu diệt..' v.v...
15. "Khả thi" = applicable; ability to carry out = có thể thực hiện được, có thể thi hành được. "Khả thi" và "bất khả thi" cũng chịu ảnh hưởng nặng của Trung Quốc. Sao không dùng: "không thực hiện được"/ "không thực hiện nổi". Ngoài ra "khả thi" sẽ đưa đến sự hiểu lầm là "có thể dự thi được".
16. "Khẩn trương": Trước năm 1975 chúng ta đă cười những người lính cộng sản, khi họ dùng chữ này thay thế chữ 'nhanh chóng'.
Nhưng than ôi, ngày nay vẫn c̣n những người ở Việt Nam (và cả một số người sang Mỹ sau này) vẫn vô t́nh làm thoái hóa tiếng Việt bằng cách bỏ chữ 'nhanh chóng' để dùng chữ 'khẩn trương'. Đáng lẽ phải nói là: 'Làm nhanh lên' th́ người ta nói là: 'làm khẩn trương lên'.
17. "Khẳng định". Thói quen dùng động từ này bị lạm dụng: 'Diễn viên X đă khẳng định được tài năng. Đồng chí A khẳng định ở vị trí giám đốc' Khẳng định; xác định, xác nhận = affirm và confirm có nghĩa gần giống nhau, ngoài nghĩa theo luật pháp có nghĩa là phê chuẩn, chuẩn y . Tuy nhiên âm thanh của khẳng định nghe nặng nề
18. "Kích cầu" = to level the bridge/ needing to sitimulate = nhu cầu để kích thích/ nâng cao cái cầu lên. Cả hai nghĩa đều hàm ư là chất xúc tác, kích thích tố khiến sự việc tiến nhanh hơn. Cách dùng hơi la Bên công chánh có lối dùng những con đội để nâng cao cái cầu giao thông lên. Tại sao không dùng "kích thích tố", "chất xúc tác" như trước?
19. "Làm rơ" 'Công an Phường 16 đang làm rơ vụ việc nàư Làm rơ=clarify, cần làm rơ v́ có sự mù mờ, chưa minh bạch, ngoài c̣n có nghĩa gần như nói lại cho rơ, đính chính. Đúng nghĩa phải là điều tra = investigate . Cách sử dụng từ làm rơ cũng giống như làm việc (với công an) chỉ nhằm xóa bớt sự ghê sợ, hăi hùng của người dân khi phải tiếp xúc với công an cộng sản. Họ cố tránh những động từ như "điều tra", "khai báo", "tŕnh diện" v.v...
20. "Liên hệ": Cũng từ miền Bắc, chữ này lan khắp nước và nay cũng tràn ra hải ngoại . Liên hệ là có chung với nhau một nguồn gốc, một đặc tính. Người cộng sản Việt Nam dùng chữ liên hệ để tỏ ư nói chuyện, đàm thoại . Tại sao không dùng chữ Việt là 'nói chuyện' cho đúng và giản di Chữ liên "hệ dịch" sang tiếng Anh là 'to relate to", chứ không phải là 'to communicate to"
C̣n tiếp...
Bookmarks