Di dân ư? không riêng gì Việt Nam.
http://catbuicarolineth.blogspot.com...-viet-nam.html
https://nuocnha.blogspot.com/2019/12...-viet-nam.html
Bài quá dài, phải cắt bớt nhiều chỗ . Xin coi từ 2 đường dẫn
dimanche 10 décembre 2017
Di dân ư? không riêng gì Việt Nam.
Như một bài đã post trước đây về chuyện di dân hay du lịch trá hình, hôm nay, kính mời quý anh chị đọc lại một bài viết của tác giả Nguyễn Quang Dy để hiểu thêm là bất cứ nơi nào có áp bức là có tiềm năng bỏ nước ra đi, dù đó là nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Bên cạnh vấn đề chính trị, còn có vấn đề kinh tế và ai cũng muốn tìm đất lành, chim đậu.
Môi trường cũng ảnh hưởng trầm trọng trong việc di dân.
Bài viết này đã được post năm 2016, nay xin được đăng lại nơi đây.
Caroline Thanh Hương
Du lịch hay di dân trá hình?
Đi hay ở : Bi kịch của một quốc gia
Tác giả: Nguyễn Quang Dy
KD: Tác giả Nguyễn Quang Dy vừa gửi cho Blog KD/ KD bài viết bàn về đi hay ở- Bi kịch của một quốc gia với nhận định thẳng thắn:
Quyền tự do cư trú và di cư là quyền chính đáng của mọi công dân, là chuyện b́nh thường của mọi xă hội. Nhưng hiện tượng nhiều người bỏ đất nước ra đi ồ ạt như hiện nay tại Trung Quốc và Việt Nam là chuyện bất b́nh thường. Nó phản ánh năo trạng bất an của cộng đồng và thực trạng bất ổn của đất nước. Tại sao người ta không ở lại để lên tiếng phản biện và góp phần đổi mới thể chế và phát triển đất nước? Câu chuyện đi hay ở không chỉ là bi kịch, mà c̣n là thảm họa quốc gia.
Cảm ơn tác giả và xin đăng lên để bạn đọc chia sẻ
—————.
“Con đường vạn dặm bắt đầu bằng một bước chân”
(The Journey of a Thousand Miles Begins with a Single Step) – Lao Tzu
Đi hay ở là một câu hỏi đă ám ảnh nhiều người Việt, ít nhất hai thế hệ, như một bi kịch của quốc gia, với nhiều hệ quả khôn lường. Phải rời bỏ quê hương đất nước “di cư” tới một xứ sở khác là điều bất đắc dĩ.
Các cuộc di cư lớn thường do chiến tranh hay thay đổi chế độ chính trị. Nhưng câu chuyện đáng nói ở đây không phải là về chuyện di cư thông thường đă từng xảy ra trong lịch sử (như sau năm 1975), mà về hiện tượng ra đi bất thường đang diễn ra hiện nay tại một số nước chuyên quyền (như Trung Quốc và Việt Nam).
Có một cuốn sách nhỏ mà mỗi khi đọc lại người ta không khỏi liên tưởng đến thực trạng đang diễn ra tại quốc gia, công ty, hay cơ quan của ḿnh. Đó là cuốn “Ra đi, Lên tiếng, và Trung thành” (Exit, Voice, and Loyalty, Albert Hirschman, Harvard University Press, 1970). Một cuốn sách hay nhưng dường như ít người đọc.
Trong bài này, chúng ta thử nh́n lại làn sóng di cư diễn ra tại Trung Quốc và Việt Nam, như một hệ quả tất yếu của những bất ổn trong nước (như phần nổi của tảng băng ch́m). Ḍng người và ḍng tiền ra đi không chỉ là bi kịch mà c̣n là thảm họa.
Bi kịch của Việt Nam
Thay đổi là bản chất của tạo hóa và xă hội. Không ai thoát được quy luật “sinh, lăo, bệnh, tử”. Nếu không thay đổi th́ không thể phát triển, dẫn đến diệt vong. Nhưng thay đổi cũng làm người ta lo sợ, nhất là khi đụng chạm đến lợi ích và thói quen.
Thái độ ứng xử của nhiều người trước biến đổi của thời cuộc cũng khác nhau. Thường có 3 sự lựa chọn. Một là ra đi (exit); Hai là lên tiếng (voice); và ba là trung thành (loyalty).
Trong ba sự lựa chọn đó, có lẽ trung thành để giữ nguyên trạng là dễ nhất (v́ an toàn hơn cả); Lên tiếng để thay đổi là khó nhất (v́ phải chấp nhận rủi ro); Ra đi tuy không khó bằng lên tiếng nhưng cũng phải trả giá. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ là chuyện ra đi, mà là ra đi như thế nào, và ra đi v́ lư do ǵ (chính đáng hay bất minh).
Hầu hết người Việt Nam ra đi lặng lẽ như một làn sóng ngầm (c̣n gọi là “bỏ phiếu bằng chân”). Họ gồm ba nhóm đối tượng chính: Một là giới trí thức (và sinh viên), hai là các doanh nhân (giàu có), ba là gia đ́nh các quan chức (thường là tham nhũng). Họ ra đi do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính thường do cảm giác bất an.
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa bức xúc,
“Tại sao trí thức giỏi không về nước làm việc, doanh nhân giỏi muốn bỏ nước ra đi? Tại sao cán bộ về hưu hay đương chức t́m cách cho con cháu ḿnh ra định cư ở nước ngoài?”
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan b́nh luận,
“Ai cũng định cư ở nước ngoài cả th́ đất nước này lấy ai xây dựng đây? Tôi cho rằng nhân tố cảm thấy kém an toàn là nhân tố chính khiến người Việt rời khỏi Việt Nam”.
Bà Lan lư giải, “Khi họ có khoản thu nhập không đàng hoàng th́ họ có tâm lư nơm nớp sợ bị lộ nên phải tranh thủ khi c̣n cơ hội, c̣n quyền lực th́ cho con ra nước ngoài…”
Ví dụ, Nguyễn Thị Nguyệt Hường là một đại gia có tham vọng chính trị. Vấn đề không phải v́ bà Hường có tài sản và quốc tịch Malta (tương tự như Panama hay Virgin Islands) vi phạm quy định của Quốc Hội nên bị băi miễn ĐBQH, mà c̣n v́ mâu thuẫn lợi ích nhóm nên bị thanh trừng. Trường hợp của chị Hường cũng giống trường hợp của doanh nhân Đặng Hoàng Yến và Đặng Thành Tâm (Tập đoàn Tân Tạo). Đó là những đại gia gắn với nhóm lợi ích, nên khi thất thế dễ bị thanh trừng, phải ra đi (Như bên Trung Quốc)
Trương Đ́nh Anh (đă từng là CEO của FPT) là một doanh nhân thành đạt, có tài và có tiền, có thể đóng góp nhiều cho đất nước. Anh không bất đồng chính kiến hay khó khăn ǵ về kinh tế. Những người như Anh ra đi là tổn thất cho đất nước, như một chỉ dấu (indicator) về t́nh trạng “chảy máu chất xám” (brain drain) và “thất thoát tài sản” “wealth drain”. Nhiều người lo ngại sau Trương Đ́nh Anh sẽ có nhiều người khác tương tự ra đi.
Theo số liệu của UN DESA (United Nations, Department of Economic and Social Affairs) , từ 1990 đến 2015 có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài. Trung b́nh mỗi năm có 100 ngh́n người di cư.
Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia di cư nhiều nhất khu vực Đông Á – Thái B́nh Dương (tính đến 2013). Hầu hết người Việt di cư đến các nước phát triển, trong đó đông nhất là Mỹ (1,3 triệu), Úc (227,3 ngh́n), Canada (182,8 ngh́n), Pháp (125,7 ngh́n), Hàn Quốc (114 ngh́n), Đức (113 ngh́n). Tại Đông Âu và một số nước châu Á (như Lào, Campuchia, Malaysia) mỗi nước có khoảng 10.000 người. Trong năm 2015, có 2,67% công dân Viêt Nam sinh sống tại nước ngoài.
Theo Kim Hạnh (cựu Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ và Sài G̣n Tiếp thị), người Việt đang ra đi ngày càng nhiều (cùng với ḍng vốn), trong đó có nguồn nhân lực di cư theo loại visa EB-3 (có bằng cử nhân trở lên) và loại visa EB-5 (doanh nhân có vốn đầu tư đáng kể). Mỗi năm chính phủ Mỹ cấp hơn một trăm ngh́n visa nhập cư, trong đó có khoảng 40 ngh́n visa thuộc loại EB-3. Đối với loại visa EB-5, năm 2014 chỉ có 6,418 trường hợp định cư, đến năm 2015 con số này đă đă tăng vọt lên tới 17,662 trường hợp. Khoảng một năm lại đây, số người xin visa định cư tại các nước phát triển đă tăng lên khoảng 30%.
Việt Nam có khoảng hơn 100 ngàn du học sinh ở 49 quốc gia, trong đó có 90% du học tự túc. Riêng tại Mỹ có 28.883 sinh viên, tại Úc có 28.524 (tính đến 10/2015). Việt Nam có khoảng 600 ngàn lao động làm ở nước ngoài (gọi là “xuất khẩu lao động”). Hàng trăm ngàn phụ nữ Việt lấy chồng ngoại quốc (gọi là “Cô dâu Việt”). Nhiều công ty khởi nghiệp của giới trẻ có học thức trong lĩnh vực IT và kinh doanh về Internet đang chạy qua Singapore. Trong khi đó một số nghệ sĩ Việt di cư hợp pháp sang Mỹ qua kết hôn với Việt kiều có quốc tịch Mỹ (như Thu Phương, Trần Thu Hà, Lam Trường, Bằng Kiều, Quang Dũng, v.v.).
Cách thức di cư của người Việt ngày càng đa dạng và phức tạp, quy mô di cư ngày càng lớn. Người dân ra đi chủ yếu v́ khủng hoảng ḷng tin và môi trường sống không an toàn (thực phẩm, môi trường, giáo dục, an ninh bất ổn). Trí thức cảm thấy thiếu tự do dân chủ, tuyệt vọng và bất lực v́ đất nước chậm đổi mới và phát triển.
Doanh nhân ra đi để “phân tán rủi ro” (chân trong chân ngoài). Quan chức (tham nhũng) ra đi để bảo vệ tài sản…
Một số doanh nghiệp lớn đang thoái vốn để tháo chạy. Năm 2015, tập đoàn Kinh Đô đă bán 80% cổ phần cho Mondele’s International (Hoa Kỳ), tương lai có thể thoái vốn tới 97%. Ông chủ Kinh Đô nói,
“Khi Kinh Đô đă bán cho nước ngoài, th́ khó có doanh nghiệp Việt Nam nào có thể trụ lại được.”
Đợt thoái vốn tới sẽ là Vinamilk và FPT Telecom. Vinamilk được khuyến cáo là sẵn sàng bán cho nước ngoài 100% cổ phần.
Theo số liệu của viện VEPR (quư I/2015), lượng tiền của người Việt gửi ra nước ngoài đă tăng đột biến lên 7,3 tỷ USD. Trong ṿng 5 năm (2008-2013), số tiền từ Việt Nam đă chuyển ra nước ngoài là 33 tỷ USD (Vũ Quang Việt).
Theo hồ sơ Panama, 92 tỷ USD đă được chuyển phi pháp ra khỏi Việt Nam (năm 2015 là hơn 9 tỷ).
Đó là những con số thất thoát quá lớn, trong bối cảnh ngân sách nhà nước thâm hụt quá nhiều do bội chi ngân sách.
Bi kịch của Trung Quốc
Ngày càng nhiều người Trung Quốc “bỏ phiếu bằng chân”. Họ di cư khỏi Trung Quốc với tài sản để định cư ở nước khác. Từ năm 1990 đến 2000, trung b́nh mỗi năm có 143 ngh́n người di cư. Từ năm 2000 đến 2010 con số này tăng lên đến 418 ngh́n người/năm. Từ 1993 đến 2015, tổng số dân di cư đă tăng từ 4,1 triệu người lên 10 triệu người, trong đó có 2,02 triệu người định cư tại Mỹ, 896 ngh́n người tại Canada, 657 ngh́n người tại Hàn quốc, 655 ngh́n người tại Nhật, 547 ngh́n người tại Úc, và 457 ngh́n người tại Singapore.
Từ năm 1978 đến 2003 có 4.000 quan chức tham nhũng chạy trốn khỏi Trung Quốc, đem theo hơn 50 tỷ USD. Từ giữa thập niên 1990 đến nay, có 18.000 quan chức tham nhũng chạy ra nước ngoài, đem theo 123 tỷ USD. Hầu hết họ chạy sang các nước Phương Tây (như Mỹ, Canada, Úc, Hà Lan). Cơ quan an ninh Trung Quốc cho biết có 150 tội phạm kinh tế đang sống tại Mỹ để trốn tránh cáo buộc tham nhũng tại Trung Quốc.
Theo Hurun Report, có 64% số người giàu (có 1,6 triệu USD trở lên) đă hoặc có ư định di cư khỏi Trung Quốc. Hiện nay có 1,2 triệu người sẵn sàng ra đi. Người ta xác định có 149 người Trung Quốc siêu giàu, với tài sản trên 1,6 tỷ USD. Danh sách siêu giàu này c̣n tăng thêm 150 người nữa nếu tính cả “tài sản ngầm” của họ. Theo GFI Report, Trung Quốc đă thất thoát mất 3,79 ngàn tỷ USD trong thời gian từ năm 2000 đến 2011.
Theo Bloomberg Intelligence, 1,4 ngh́n tỷ USD đă chạy khỏi Trung Quốc trong 10 năm qua (trung b́nh 140 tỷ/năm). Năm 2015, 1.000 tỷ USD đă chạy khỏi Trung Quốc, tăng gấp 7 lần so với năm 2014 (là 134,3 tỷ). Đây là do khủng hoảng ḷng tin, khó ḷng ngăn chặn nổi, dù Trung Quốc có xây vạn lư trường thành xung quanh đất nước.
Năm 2004, chỉ có 16 người Trung Quốc nhận được visa loại EB-5 (13% tổng số); Năm 2008 con số này tăng lên tới 360 người. Đến 2013, con số này đă tăng vọt lên 6.895 người (chiếm 80% tổng số). Năm 2014, có 9.128 người Trung Quốc nhận được visa EB-5 (chiếm 85% tổng số 10.692 visas EB-5 được cấp). Người Trung Quốc chiếm 85% tổng số người xin visa EB-5 để đầu tư vào Mỹ, chiếm 76% tổng số 59.000 người xin visa đầu tư vào Canada; chiếm 91% của 1.679 người xin visa đầu tư vào Úc (từ 2012 đến 2015).
Năm 2014, số sinh viên Trung Quốc đi học ở nước ngoài là 459.800 người, trong đó 274.000 người học tại Mỹ. Tuy chính phủ Trung Quốc có chủ trương khuyến khích vật chất như trả lương cao để họ trở về nước làm việc, nhưng xu hướng “chảy máu chất xám” vẫn gia tăng. Trung Quốc vẫn tiếp tục mất đi một tỷ lệ khá cao những sinh viên đi học nước ngoài nhưng không về nước (tỷ lệ cao hơn hầu hết các nước khác).
Người giàu Trung Quốc không ủng hộ mà cũng không thách thức chế độ. Họ chỉ muốn chuyển phần lớn tài sản ra nước ngoài rồi ra đi.
Họ không giống những người bất đồng chính kiến hay tị nạn chính trị. Thái độ ứng xử của họ có thể thay đổi với ḷng yêu nước hay chủ nghĩa dân tộc. Khi ra đi dễ dàng th́ họ lựa chọn ra đi, chứ không chọn lên tiếng. Họ sẽ lên tiếng mạnh hơn nếu chính quyền cởi mở hơn cho phản biện và cải cách
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nghịch lư của “Mô h́nh Trung Quốc”
Sau khi Tập Cận B́nh tập trung quyền lực tuyệt đối vào tay ḿnh, ông ta đă phục hồi những ư tưởng cực đoan của Mao Trạch Đông, như độc tài và sùng bái cá nhân, tuyệt đối tuân thủ hệ tư tưởng, hành xử độc đoán.
Đó là sự kết hợp đầy nghịch lư giữa độc tài kiểu Mao với hiện đại hóa kiểu Đặng. Tập nắm nhiều quyền lực c̣n hơn cả Mao và Đặng (nhưng không bắt chước Đặng). Tập đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tăng cường kỷ luật đảng, để duy tŕ ổn định chính trị (là ưu tiên hàng đầu), và để thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”.
V́ vậy, Tập Cận B́nh đ̣i hỏi tất cả phải trung thành tuyệt đối với Đảng, với chế độ, và với cá nhân ông ta.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Theo Suisheng Zhao (“Xi Jinping’s Maoist Revival” Suisheng Zhao, Journal of Democracy, July 2016), ngày 17/3/2013, Tập đề xướng chủ trương “ba tin tưởng”:
(1) lư luận về “Chủ nghĩa Xă hội mang màu sắc Trung Quốc,”
(2) con đường mà Trung Quốc theo đuổi, và
(3) hệ thống chính trị mà Trung Quốc” lựa chọn.
Đây là câu trả lời của Tập cho “ba cuộc khủng hoảng niềm tin” (chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa Marx, và Đảng). Quan điểm Maoist của Tập ngày càng cứng rắn, đe dọa sử dụng “chuyên chính vô sản”, và tiến hành “đấu tranh giai cấp”. Tập đă vay mượn “cẩm nang của Mao”, sử dụng những khẩu hiệu sặc mùi Maoist như “bảy điều đừng nói” để tránh “các sai lầm lịch sử không thể sửa chữa được”, và kêu gọi cán bộ đảng viên phải “tự thanh lọc, tự cải thiện, tự đổi mới…”
Về giáo dục, Tập kêu gọi phát huy “năng lượng tích cực” với một “thái độ tươi sáng” đối với Đảng và nhà nước, biến các trường đại học thành “các ḷ nghiên cứu Maxist”.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tháng 7/2015, Chính phủ đă thông qua dự luật an ninh mạng, theo đó sẽ lập ra “các đồn cảnh sát an ninh mạng” để kiểm soát các website và các hăng cung cấp dịch vụ Internet, nhằm “tóm cổ các hành vi phạm tội online” càng sớm càng tốt. Một blogger Trung Quốc đă cảnh báo, “các tường rào trong nhà tù thông tin Trung Quốc nơi sự ngu dốt nuôi dưỡng các tư tưởng hận thù và đối kháng. Nếu bức tường lửa tồn tại vô hạn định, Trung Quốc sẽ quay lại cái thời mà nó bị cô lập, thiển cận, hung hăng, và bất ổn”.
Nhà sử học Xiao Gongqing gọi chính thể của Tập là “Neo-Authoritarianism 2.0”. Theo ông, “Chủ nghĩa Độc đoán Mới 2.0” là cần thiết nếu Trung Quốc muốn tránh tai họa trong cuộc “trường chinh” tiến đến trật tự dân chủ hóa. Xét cho cùng, Đảng là nạn nhân của thành công cũng như thất bại của chính họ. Không có nước nào lại hiện đại hóa nhanh như Trung Quốc mà không phải chịu các hệ quả xă hội to lớn như vậy.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Về cơ bản, giới “tư bản đỏ” đă thâu tóm tài sản thông qua tham ô, biển thủ, chiếm đoạt bất hợp pháp các tài sản nhà nước, duy tŕ sự độc quyền của các ngành quan trọng, và thao túng các chính sách để đạt được lợi ích và duy tŕ chế độ độc tài của ḿnh. Họ đă trở thành các doanh nhân, chủ bất động sản và chủ sở hữu tài chính lớn. Quá tŕnh tích lũy của họ đầy đen tối và tội lỗi. V́ vậy, họ cần chế độ bảo vệ tài sản và cuộc sống của ḿnh. Họ cũng cần sự độc quyền của nhà nước để tiếp tục tích lũy của cải nhiều hơn nữa.
Nhiều học giả phương Tây đă tưởng bở rằng sau quá tŕnh tự do hóa kinh tế, giới ‘tư bản đỏ” Trung Quốc sẽ tự nhiên chuyển đổi theo khuynh hướng dân chủ và tự do. Thực tế quá tŕnh chuyển đổi của Trung Quốc đă chứng minh rằng suy nghĩ này không những rất ngây thơ mà c̣n sai lầm nghiêm trọng. Giới “tư bản đỏ” có một vị thế chính trị tuyệt vời (không có cạnh tranh) nên họ dễ dàng ngăn chặn quá tŕnh dân chủ hóa, có thể dẫn đến sự phá sản kinh tế và chính trị. Đây chính là bản chất của “Mô h́nh Trung Quốc”.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thay lời kết
Đáng lẽ phải “xoay trục” để thoát dần cái bóng Trung Quốc, th́ Việt Nam vẫn núp bóng ư thức hệ đă lỗi thời và bắt chước
“Mô h́nh Trung Quốc, mà không có tiềm lực kinh tế và quốc pḥng đủ mạnh làm đối trọng để thoát Trung. Ư thức hệ là cái bẫy làm Việt Nam bị mắc kẹt tại ngă ba đường, nên bảo hoàng hơn cả vua, làm mất dần độc lập kinh tế và chủ quyền quốc gia. Khái niệm trung với nước bị đánh tráo, trở thành trung với Đảng và chế độ. V́ vậy, tiếng nói phản biện v́ tương lai của dân tộc thường bị coi là “phản động”.
Đă đến lúc người Việt phải thức tỉnh để đổi mới tư duy và thể chế, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Trước xu hướng người Việt đang đổ xô di cư, cần có cách khuyến khích họ ở lại để chung tay chấn hưng đất nước, khôi phục các giá trị cốt lơi của dân tộc. Tại sao người Miến Điện và người Mông Cổ làm được mà người Việt Nam lại không?
Aung San Suu Kyu và Tsakhiagiin Elbegdorj đâu phải là siêu nhân từ trên trời rơi xuống. Nhưng họ không bỏ nước ra đi v́ lợi ích riêng, và cũng không chấp nhận thực trạng độc tài của đất nước, mà kiên tŕ đấu tranh (bất bạo động) để thay đổi vận mệnh của dân tộc họ.
Quyền tự do cư trú và di cư là quyền chính đáng của mọi công dân, là chuyện b́nh thường của mọi xă hội. Nhưng hiện tượng nhiều người bỏ đất nước ra đi ồ ạt như hiện nay tại Trung Quốc và Việt Nam là chuyện bất b́nh thường. Nó phản ánh năo trạng bất an của cộng đồng và thực trạng bất ổn của đất nước. Tại sao người ta không ở lại để lên tiếng phản biện và góp phần đổi mới thể chế và phát triển đất nước? Câu chuyện đi hay ở không chỉ là bi kịch, mà c̣n là thảm họa quốc gia. Phải đổi mới thể chế trước khi quá muôn.
Tham khảo
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bookmarks