Anh Hùng Bắc Cương
Hồi 19 :
Dư Âm Bạch-đằng
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng chắp tay hành lễ:
- Lư Mỹ-Linh, Thân Thiệu-Thái xin ra mắt hậu duệ của Ngô đại-vương. Mong tỷ tỷ thứ cho tội quấy rầy.
Nữ lang đáp lễ, rồi chỉ về phía ngư nhân chạy:
- Chúng ta mau đuổi theo.
Mỹ-Linh mỉm cười, nh́n lên trời, đôi thần ưng bay lượn không xa làm bao:
- Tỷ tỷ đừng sợ mất tích bốn người này. Họ vẫn ở phía trước kia, chưa đi xa đâu. Mà dù có xa, chúng ta cũng t́m cược. Khi họ muốn trêu chúng ta, th́ chúng ta cứ ngồi đây, khắc họ tự dẫn thân tới.
Nữ lang nh́n xuống suối, rồi lại mơ màng ngắm trăng:
- Đêm thanh trắng sáng đẹp thế này, bỏ qua thực uổng. Vậy mời Công-chúa, Giáo-chủ xuống suối, chúng ta ngắm trăng hầu chờ bốn ngư nhân.
Ba người chọn ba tảng đá bên gịng suối. Mỹ-Linh, nữ lang tháo dầy, ngâm chân xuống nước. Thiệu-Thái hỏi:
- Tỷ tỷ! Tỷ tỷ khéo chọn khung cảnh u nhă này để ở, thực c̣n hơn tu tiên. Có điều, đường từ đây ra trấn hơi xa.
Nữ lang ngửa mặt nh́n trăng, thở dài năo nùng:
- Giáo chủ đang bận quốc sự, th́ muốn sống yên tĩnh. C̣n ngược lại tôi đang ở trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, lại muốn thoát khỏi cảnh này. Sự thực, tôi nào có muốn giam ḿnh trong rừng đâu. Chẳng qua do hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi.
Mỹ-Linh ngập ngừng:
- Nghĩa là???
- Tôi không tự làm chủ được, mà bị người ta kiềm chế.
Mỹ-Linh muốn nữ lang tự ḿnh nói ra, nên nàng đưa mắt cho Thiệu-Thái ngụ ư bảo chàng yên lặng. Quả nhiên nữ lang nh́n trăng một lúc rồi thở dài:
- Để tôi thuật hoàn cảnh của ḿnh cho giáo chủ cùng công chúa nghe.
Nữ lang vục tay xuống suối. Nước bắn tung toé lên, như những thanh vàng óng ánh, rồi thuật:
_Tôi họ Ngô tên Cẩm-Thi, thuộc gịng dơi Ngô vương tộc Việt. Tổ phụ tôi, nhân dẹp Kiều Công-Tiễn, phá Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, lập nền chính thống Đại Việt vào năm Kỷ-Hợi (939). Như các vị biết, tộc Việt bị nhà Đông Hán đem quân nghiêng nước sang đánh. Vua Trưng tuẫn quốc ở Cẩm-khê. Trải hai trăm lẻ năm năm sau, Triệu nương lại khởi binh ở Cửu-chân, bị Ngô dẹp. Từ đấy, tộc Việt ch́m đắm trong đêm dài vô tận. Măi hai trăm chín mươi sáu năm dài, vua Lư Nam-Đế mới khởi nghiệp, lập ra nhà tiền Lư vào năm Giáp-Tư (544). Đến năm Nhâm-Tuất (602) lại bị Tùy diệt. Rồi năm Nhâm-Tuất (722) Mai Hắc-Đế khởi binh, nhưng chỉ như tia lửa lóe lên trong đêm dài. Qua sáu mươi chín năm sau, Bố-Cái đại vương khởi binh vào năm Tân-Mùi (791), rồi cũng không được bao nhiêu năm. Nối tiếp, họ Khúc, họ Dương tuy có khởi binh, song vẫn chỉ là chức quan của Trung-quốc. Phải đợi đến cao tổ phụ tôi, mới thực sự tạo dựng một triều đại mới.
Mỹ-Linh thuộc làu giai đoạn lịch sử này:
- Cứ như quan thái sử bản triều chép, Ngô vương húy Quyền, tướng như sư tử, vai như gấu, lưng như hổ, uy mănh không ai b́ kịp. Vương xuất thân đệ tử của đại vương Dương Diên-Nghệ. Được Dương vương tuyển làm pḥ mă. Nhân Kiều Công-Tiễn ám sát Dương vương. Ngô vương dấy binh trả hận. Kiều Công-Tiễn sai sứ sang cầu cứu Nam-Hán. Nam-Hán sai Thái-tử Hoằng-Thao đem quân cứu Tiện. Ngô vương đại phá quân Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, giết Hoằng-Thao. Ngài lên ngôi vương, lập triều đ́nh, đặt quan chức. Tộc Việt lại phục hưng thành một quốc gia có chính thống.
Cẩm-Thi gật đầu:
- Công-chúa bác học thực! Sau khi thành đại nghiệp, cao tổ tôi chỉ ở ngôi được sáu năm, rồi băng hà (945). Khi người hấp hối, có ủy thác con côi Xương-Ngập cho em vợ tên Dương Tam-Kha. Không ngờ Tam-Kha cướp ngôi của cháu. Xương-Ngập chạy trốn về Nam-sách. Sáu năm sau, tổ phụ tôi húy Xương-Văn đă lớn. Người xuất lĩnh quần thần đuổi Tam-Kha, được anh hùng tôn làm Nam-Tấn vương. Bấy giờ anh người tên Xương-Ngập xuất hiện. Người cho đón về. Hai anh em cùng coi triều chính.
Nữ lang nh́n lên trời, như nhớ lại công đức tổ tiên, rồi tiếp:
- Năm Ất-Sửu (965), tổ phụ tôi thấy thế nước suy vi, mà bên Trung-nguyên, nhà Tống thống nhất đất nước. Tôi không nhớ bấy giờ đă được mấy năm.
Mỹ-Linh tính đốt ngón tay:
- Bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu Càn-đức thứ ba, đời vua Tống Thái-tổ.
- Phải rồi! Tổ phụ tôi sai hai vị đại thần, cùng phụ thân tôi sang sứ nước Ngô-Việt, bàn nhau đào kho tàng Tần-Hán lên, làm phương tiện kiến quốc.
Thiệu-Thái ngạc nhiên:
- Kho tàng Tần-Hán ở Quảng-Đông, sao triều Ngô không đến Quảng-Đông đào lên, mà phải sai sứ sang Ngô-Việt?
Nữ lang lắc đầu:
- Giáo-chủ quên sử rồi! Quảng-Đông lộ, tức chỗ chúng ta ngồi đây, hồi đó thuộc nước Ngô-Việt, rồi Nam-Hán. Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc, hào kiệt Tượng-quận nổi lên lập ra nước Đại-lư. Hào kiệt Nam-hải, Quế-lâm lập ra Ngô-Việt. Hào kiệt Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-Nam lập ra Đại-Việt.
Mỹ-Linh gật đầu:
- Tôi nghe, khi Thái-tử của Nam-tấn vương cùng hai đại thần ra khỏi biên cương, ở nhà vương băng. Trong nước lâm t́nh trạng mười hai sứ quân. Rồi sau sử không nói rơ việc đào kho tàng đi đến đâu.
Nữ lang buồn bă:
- V́ ở Đại-Việt, Ngô triều mất, hai vị đại thần thấy nếu ḿnh đem vụ kho tàng ra, không chừng bị triều Ngô-Việt hại là khác. V́ vậy hai vị, một văn, một vơ đem phụ thân tôi tiềm ẩn ở trong thung lũng này, âm thầm t́m kho tàng. Nhưng... nhưng t́m kiếm nhiều lần, tốn biết bao tâm huyết, mà có kho tàng ở đâu?
Thiệu-Thái hơi có vẻ tin lư luận của Ngô Cẩm-Thi:
- Tại hạ cũng nghĩ như vậy. Dường như thời vua Trưng, ba vị tài trí nhất thời bấy giờ là Phương-Dung, Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa bàn nhau đặt ra câu truyện kho tàng với ngụ ư ǵ, trải qua gần ngh́n năm, đời đời lưu truyền miệng, bị thất truyền chăng?
Cẩm-Thi nhăn mặt:
- Khổ một điều thời bấy giờ vua Trưng truyền chép Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ, mật dụ kho tàng chung với nhau. Có tất cả mười bản. Khi vua Trưng tuẫn quốc, không biết mười bản đó lưu truyền ở những địa phương nào, vào tay gia nào, phái nào. Mà hiện nay, bên Trung-nguyên từ Lưu hậu, B́nh-Nam vương, cho đến bang Nhật-Hồ đều gửi người về t́m. Bên Đại-Việt, th́ Lạc-long giáo, bên Chiêm-thành phái Phật-thệ cũng có người đến t́m. Ôi kho tàng ở đâu không biết, mà máu đổ thành sông, thành ao rồi! Chính phụ thân tôi, có bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng binh yếu chỉ cùng mật dụ kho tàng, mà khi giữ chức Phụ-quốc thái úy, đă đem hàng chục vạn binh tướng, lật từng viên đá, từng gốc cây t́m, nào có thấy?
Mỹ-Linh tính đốt ngón tay, rồi nói:
- Sử chép, Thái-tử của Nam-tấn vương húy Xương-Anh, mới mười lăm tuổi. Nếu người c̣n tại thế, năm nay đúng bẩy mươi bẩy tuổi. Như vậy tỷ tỷ là con của người?
Ngô Cẩm-Thi gật đầu:
- Hai vị cựu thần cho người về đón vợ con qua, rồi ẩn ở đây, dạy phụ thân tôi. Phụ thân tôi kết hôn với con gái vị quan vơ. Tôi là con út của người. Tất cả ẩn nhẫn, chờ ngày hồi cố quốc, tái lập nền chính thống. Nhưng trong khi đó, ở Đại-Việt, vua Đinh dẹp mười hai sứ quân, rồi vua Lê kế sự nghiệp tổ tiên đánh Tống. Và gần đây, triều Lư đem nhân nghiă trị dân. V́ vậy, phụ thân tôi, cùng con cháu hai đại thần bỏ ư định về nước tranh ngôi vua. V́ làm như thế, chỉ giúp thêm cho Tống mang quân sang đánh, chẳng hoá ra chúng tôi cũng giống như Kiều Công-Tiễn hay sao?
Thiệu-Thái ngắt lời:
- Tôi nghe, Ngô vương vốn xuất thân phái Cửu-chân. Như vậy vơ công cô nương là vơ công Cửu-chân mới phải. Ban năy cô nương xử dụng thế khinh thân đuổi theo ngư nhân lại thuộc phái Khúc-giang. Không biết bên trong c̣n có uẩn khúc ǵ không?
- Giáo chủ minh mẫn thực. Cao tổ nhà tôi, Ngô vương t́m được bộ Lĩnh-Nam vũ kinh bản của phái Tản-viên. Nhân người thuộc đệ tử Cửu-chân, nên biết hết thuật ngữ phái này, do đó luyện thành. Khi tổ phụ tôi sai phụ thân tôi sang Ngô-Việt, người trao bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, cùng mật ngữ cho. Ngược lại vị vơ quan theo phu thân tôi thuộc phái Khúc-giang, nên ông biiết mật ngữ phái này, rồi chiếu theo vũ kinh, luyện cũng thành. Tôi được phụ thân luyện cho vơ công Cửu-chân, thân mẫu luyện cho vơ công Khúc-giang
Bookmarks