Nguồn gốc “Lăng ba vi bộ”.
http://www.aiki-viet.com.vn/giai_tho...-09.4777506404
Bạn đă đọc truyện vơ hiệp của Kim Dung, ắt hẳn không quên nhân vật Đoàn Dự, công tử nước Đại Lư, một bạch diện thư sinh trói gà không chặt trong thiên tiểu thuyết Thiên Long Bát Bộ (Lục Mạch Thần Kiếm). Trong chuyến lưu lạc giang hồ một cách bất đắc dĩ, chàng ta đă “rủi ro” học được hai môn vơ công thuộc hàng đệ nhất thiên hạ, đó là “Lăng ba vi bộ” và “Lục mạch thần kiếm” (Nhất dương chỉ). “Lăng ba vi bộ” là thuật khinh công có một không hai trên đời, mới nghe qua ai cũng ngỡ đó là sản phẩm của trí tưởng tượng siêu phàm của Kim Dung tiên sinh. Nhưng, thật sự đă có môn “Lăng ba vi bộ”, vào thời xa xưa của vơ lâm Trung Hoa. Mà truyền thuyết sau đây là một minh chứng …[/FONT]
Thượng Hồng
(Trích
“Sổ tay VƠ THUẬT” số 36/96)
Bí Quyết “Lăng ba vi bộ”.
Đọc “Lục mạch thần kiếm”, bạn biết được rằng, do rủi ro sa chân xuống một vực sâu, Đoàn Dự đă lạc vào một thạch động bỏ hoang từ bao đời. Trong ḷng thạch động ẩn chứa một bí mật chưa có người khám phá, đó là pho tượng của một phụ nữ đẹp mê hồn và một bí kíp vơ công thật lạ lùng là “Lăng ba vi bộ”. Đoàn Dự đă ṭ ṃ tập thử không ngờ đă thành công (mặc dù không trọn vẹn bởi chẳng chuyên tâm). Và kể từ đó trên bước đường bôn ba giang hồ, mỗi lần Đoàn Dự giở món khinh công lạ lùng ấy ra đều làm cho các cao thủ vơ lâm kinh ngạc, sợ hăi! Bởi v́, ngay cả vào thời ấy, trong vơ lâm Trung Nguyên, hầu như không có ai luyện được tuyệt kỹ khinh công đó. V́ sao?
Theo truyền thuyết, không phải ai cũng học được tuyệt kỹ này, bởi phương pháp quá khó, lại vô cùng rối rắm. Một người dù vơ công cao siêu đến đâu, nếu chỉ cậy vào nội lực, vào vơ nghệ, th́ sẽ không bao giờ luyện được “Lăng ba vi bộ”. “Lăng ba vi bộ” là thuật khinh công chạy “lăng quăng” theo h́nh zic-zac để vừa né tránh mọi ám toán bằng cung tên, ám khí, lại vừa đạt độ nhanh khó ai đuổi kịp.
Thông thường, người hiểu “khinh công” là thuật vi hành bằng chân đạt tốc độ nhanh như gió, người nhẹ lướt trên mặt đất, thậm chí vượt qua mặt nước, nhưng chủ yếu là chạy thẳng, càng thẳng th́ càng nhanh. Chớ như cách chạy “Lăng ba vi bộ” th́ khó ḷng đạt tốc độ như chạy thẳng. Vậy mà, theo mô tả của Kim Dung, cỡ tŕnh độ vơ công “i tờ” như Đoàn Dự, nhưng khi giở “Lăng ba vi bộ” ra th́ Kiều Phong cũng phải thán phục! Có người bảo rằng, người thi triển khinh công “Lăng ba vi bộ” không dùng nội lực, mà lại dùng “trí lực”. Chính cái đầu đă điều khiển đôi chân, để từ đó nhấc cả thân thể lên, “biến” cả khối thịt xương hơn nửa tạ của con người nhẹ tựa chiếc lá, rồi cũng bằng trí lực, người thi triển làm cho bước chân ḿnh đảo chỗ liên hồi, lượn qua tả, sàng qua hữu như con vụ theo một sức ly tâm càng lúc càng mạnh, càng nhanh. Đoàn Dự do “học lóm” nên khi sử dụng đôi lúc đă không tự điều khiển được, khi th́ vụt chạy như chim lượn, lúc lại vụng về ngă té. Đó chẳng qua là do anh chàng không biết vận dụng trí năo để điều khiển bước chạy.
Một chút truyền thuyết.
Thuật khinh công “Lăng ba vi bộ” bắt nguồn từ đâu? Trong sách của Kim Dung cũng chỉ đề cập đến người đàn bà biệt cư trong hang động là chủ nhân của bí kíp vơ công đó, chứ cũng chưa nói rơ nó thuộc môn phái nào? Xuất xứ từ đâu?
Ngày nay chúng ta được dịp nghiên cứu nhiều sách vở, kể cả sách từ xưa, cũng thấy nhắc tới thuật phi hành lạ lùng đó. Duy nhất có quyển “Truyền thuyết dân gian của các dân tộc Măn Châu” là có ghi vắn tắt một đoạn, có thể tóm lược như sau: “Người của các bộ tộc Măn ở vùng núi A Lạp Thiên Sơn thường cưỡi ngựa đi săn bắn, những lúc đuổi theo con mồi trong những vùng cát mềm hoặc vùng đồi đá dựng đứng, họ không thể dùng ngựa mà dụng thuật khinh công chạy theo h́nh chữ chi trên mặt cát và áp dụng nó để vượt qua các địa h́nh hiểm trở ở đồi núi. Đặc biệt khi bị săn đuổi bởi cung tên của kẻ thù, người tẩu thoát phải dùng thuật khinh công chạy đổi hướng liên tục để tránh cung tên, ám khí …”.
Ở giai đoạn cuối của quyển “Truyền thuyết dân gian các bộ tộc Măn Châu” có ghi một giai thoại sau đây, mà chúng tôi cho là nguồn gốc của thuật khinh công “Lăng ba vi bộ”. Vào thời khai sơ, lúc các bộ tộc Kim Măn c̣n sống rải rác ở khắp các vùng thảo nguyên miền quan ngoại, ngoài vùng lănh thổ của tộc Hán ở Trung Nguyên (Trung Hoa), th́ toàn bộ vùng lănh thổ rộng lớn đó mạnh ai nấy sinh sống, hùng cứ. Đứng đầu mỗi bộ tộc là một tộc trưởng nắm quyền sinh sát. Có hai bộ tộc ở gần nhau trong vùng chân núi A Lạp Thiên Sơn, là tộc A Đà Niêu và tộc Khật Tháp Giả. Từ chỗ thân thiện, tương trợ lẫn nhau, họ đă trở thành thù địch không đội trời chung, chỉ v́ người của bộ tộc A Đà Niêu đă vô t́nh bắn chết người con cả của tộc trưởng Khật Tháp Giả trong một chuyến đi săn.
Mối thù âm ỉ suốt nhiều thế hệ. Thỉnh thoảng bên này lại kéo quân tấn công bên kia, gây thành những thảm cảnh máu đổ thây phơi. Vào một ngày cuối đông, lúc mặt trời chưa kịp nhô lên trên đỉnh núi, dân làng Khất Tháp Giả kinh hoàngv́ tiếng chiên trống, tiếng ngựa chạy, tiếng binh khí va chạm, cuộc chiến đẫm máu kéo dài cho đến lúc mặt trời lên cao. Khi đoàn quân xâm lược rút đi th́ hầu như toàn bộ những chiếc lều da dê của tộc Khất Tháp Giả đă ra tro bụi. Người chết hơn trăm, muông thú chồng chất xác lên nhau. May mắn là trong cơn loạn lạc đó, cả gia quyến tộc trưởng Tháp Thiên Á Quyến đều b́nh an. Máu hận ngút trời, cả bộ tộc đều thề sẽ rửa hận lập tức. Tộc trưởng A Có lồng lên như mănh hổ bị thương, ông chém đầu một con trâu rừng, thét lên lời thề: “Nếu ta không trả được thù này th́ đời đời con cháu sẽ không có đất sống!”.
Lời thề vang vọng theo gió thảo nguyên lan ra khắp đồi núi chung quanh. Nhưng oái oăm thay, trong khi đó cô con gái út của tộc trưởng là nàng Cố Luân Mộc Chân lại đang cưu mang một kẻ đại thù. Nguyên là, sau cuộc giao tranh, trên đường trở về nhà lúc chập choạng tối, nàng đă vô t́nh dẫm phải một xác người nằm ngang lối đi. Khi nh́n kỹ thấy cái xác chỉ bị thương nặng chứ chưa chết. Động ḷng trắc ẩn, Mộc Chân đă lén đưa chàng trai bị trọng thương về một động đá cách xa lều để cứu chữa. Oan nghiệt đều từ đó. Bởi v́ chàng trai đó chẳng ai khác hơn là con trai của vị tộc trưởng A Khô Lư của bộ tộc A Đà Niên. Chính anh chàng A Khố Nặc Sơn này đă lănh đạo cuộc tấn công. Khi biết được lai lịch chàng trai, đă có phút giây nàng định kết liễu đời chàng bằng một nhát kiếm trên tay. Nhưng dường như con tim nàng đă ngăn cản, đă làm mềm ḷng sự thù hận chất chứa lâu nay … Thế rồi, sau nửa tuần trăng, khi bịnh t́nh Nặc Sơn thuyên giảm định giă biệt, th́ cũng là lúc hai con tim cừu địch ḥa nhịp đập cùng nhau. Họ yêu nhau trong nghịch cảnh.
Không lâu chuyện vỡ lở. Tộc trưởng Tháp Thiên lồng lên như thú dữ, suưt chút nữa ông đă giết chết con gái cưng. May mà Mộc Chân nhanh chân thoát thân, trốn vô rừng vào nửa đêm hôm đó, trong lúc bơ vơ giữa rừng thẳm âm u, bỗng một con mănh hổ vồ lấy nàng, mang thẳng lên núi A Lạp Thiên Sơn.
Khi Mộc Chân tỉnh lại đă thấy người t́nh ngồi bên cạnh. Th́ ra con mănh hổ vồ lấy nàng là Nặc Sơn giả dạng. Chàng đă mang nàng lên một thạch động cheo leo giữa sườn núi cao. Mộc Chân kinh hăi khi nh́n xuống chân núi, nàng lo sợ địa h́nh hiểm trở đầy nguy hiểm. Nặc Sơn đă nói thẳng ư của ḿnh cho nàng nghe:
“- Chúng ta không có con đường trở về. Từ nay không có anh th́ bố em cũng không c̣n lư do ǵ để trả thù bộ tộc của cha anh, c̣n vắng em ở nhà th́ cha em lấy ai để trút cơn giận dữ? Ta giờ đây chỉ biết có nhau. Đỉnh núi này sẽ là “vương quốc” của hai ta …”
Họ đă sống bên nhau, cách ly với mọi người. Một năm sau th́ họ sinh một đứa con trai. Thằng bé lớn lên dần, cũng là lúc nó cảm thấy tù túng khi phải chui rúc trong gian thạch động. Nó t́m cách lén ra ngoài, trèo qua vách đá cheo leo … Một buổi sáng, khi vợ chồng Nặc Sơn thức dậy không thấy con, họ hốt hoảng chạy đi t́m và gặp mảnh khố da beo của con trên bờ vực sâu!
Thương con, cả hai vợ chồng đều không kể ǵ mạng sống, đă cố lần theo vách đá để xuống vực sâu hơn 100 thước. Từ hôm đó, chẳng c̣n ai thấy bóng họ trên lưng chừng núi nữa.
Năm năm sau, những toán thợ săn của bộ tộc Khất Tháp Giả trong lúc say sưa đuổi theo con mồi vào vùng núi cao, đă vô cùng kinh ngạc khi thấy bóng ba người, gồm hai người lớn và một trang thiếu niên đang trổ thuật phi hành nhẹ nhàng như chim liệng chuyền theo vách đá dựng đứng chẳng khác con chim yến đang làm tổ trên vách Thiên Sơn.
Ba người đó không ai khác hơn là vợ chồng Nặc Sơn và Mộc Chân cùng cậu con trai Thiên Giả Cáp Tề của họ. Th́ ra năm năm trước, họ đă t́m được con trai khi rơi xuống vực đă may mắn vướng vào một cành cây nên không chết. Họ đă cứu con rồi cùng nhau đi sâu xuống vực, t́m một thạch động khác. Họ đă sống luôn ở đó, v́ muốn trở lên cũng chẳng có cách nào.
Một hôm ngồi dưới đáy vực nh́n lên vách núi, họ thấy những con rắn rất lạ, chúng thoăn thoắt trườn ngược theo vách đá dựng đứng để đuổi theo những con chim yến đang làm tổ. Thân rắn trơn lẳn, không bám víu vào đâu, vậy mà chúng chẳng hề rơi xuống. Nh́n kỹ hơn, Nặc Sơn khám phá ra nguyên tắc di chuyển của con rắn bắng cách chuyển hướng liên tục, như con vụ quay để tạo ra sức ly tâm, và chính nhờ thế chúng luôn luôn bám vào vách đá, vừa có thể tiến đi nhanh như chim bay – loài rắn núi nào khi chạy ở đường bằng phẳng cũng không quên nguyên tắc chuyển động cứ lao ṿng xoay vun vút, thế mà không ai đuổi theo kịp chúng!
Đó là khởi đầu cho một tuyệt kỹ, mà sau này giới vơ lâm được biết dưới cái tên “Lăng ba vi bộ”!
.Xin nói thêm, chàng trai Tiên Giả Cáp Tề nói trên, chính là ông Nội Tổ của Nỗ Nhĩ Cáp Tề, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Măn Thanh từng thống trị dân tộc Hán (Trung Hoa) ngót 300 năm sau này.
http://www.aiki-viet.com.vn/giai_tho...-09.4777506404
TH
Bookmarks