CÓ CẦN PHẢI THÔNG CẢM CHO ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG?
Trong yêu cầu bức thiết chống lại mọi âm mưu sâu hiểm của Trung Nam Hải đang từng bước tḥ hẳn nanh vuốt chiếm biển đảo nước ta, hợp pháp hóa tham vọng “đường lưỡi ḅ” gớm ghê của chúng, việc xem xét hậu quả của Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 về mặt pháp lư quốc tế đă trở thành một tâm điểm để giới học giả trong ngoài nước sôi nổi tham gia bàn luận. Đến nay, hầu như rất ít người c̣n khăng khăng bênh vực tính vô hại của Công hàm ấy v́ xét bề nào th́ đó cũng là một trong những cái bẫy do ḿnh tự bày ra làm vướng chính chân ḿnh (nặng lời như ông Nguyễn Khắc Mai là một công hàm phản quốc, phản động), cần phải chóng vánh gạt sang một bên để Nhà nước Việt Nam dám đường hoàng nối gót Philippines kiện Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc.
Nhiều ư kiến phong phú góp bàn về cách hóa giải Công hàm Phạm Văn Đồng đáng cho ta suy xét, như việc đề xuất với Quốc hội chính thức ra biểu quyết phủ nhận nó (Nguyễn Khắc Mai), hoặc kêu gọi chính quyền mạnh dạn thành lập chế độ mới để tránh khỏi ràng buộc pháp lư với chế độ miền Bắc trước kia (Hà Sĩ Phu). Gần đây nhất là ư kiến của GS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt đưa ra Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978 của LHQ mà các ông mới t́m thấy, cho phép một quốc gia kế tục (CHXHCNVN) có thể bác bỏ các hiệp ước về lănh thổ bất b́nh đẳng hoặc do sức ép mà quốc gia tiền nhiệm (VNDCCH) đă phải thừa nhận với láng giềng của ḿnh (xem đây). Nhưng cũng có ư kiến quyết liệt hơn, chưa hẳn tin vào tính khả thi của Công ước nói trên trong trường hợp CHXHCNVN và VNDCCH thực tế chỉ là một, không khác nhau về bản chất, đ̣i hỏi phải thay đổi thể chế CHXHCNVN vốn đă lộ rơ quá nhiều khuyết tật: tham nhũng, độc tài, dày đạp lên dân chúng, cướp bóc cho phe nhóm, bần cùng hóa xă hội, đưa kinh tế xuống vực thẳm, nô lệ vào ngoại bang… chuyển sang một thể chế thực sự dân chủ – giải Cộng –, theo đó sẽ “giải Trung Quốc hóa” hữu hiệu mà Công hàm PVĐ là một khâu có mối liên hệ hữu cơ.
Song song với việc t́m biện pháp hóa giải Công hàm Phạm Văn Đồng, lại cũng có những người t́m hiểu động cơ của tác giả hoặc tập thể tác giả bức Công hàm này. GS Cao Huy Thuần ở Pháp thuộc trường phái tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh tạm gọi là “éo le” của người viết thuở bấy giờ: bị kẹp cứng giữa hai đàn anh trong cùng phe XHCN, giữa thời buổi chiến tranh lạnh, khi ông anh Liên Xô công bố văn bản ǵ th́ ông em Việt Nam cũng phải nặn ra một “bản sao” tương tự. Kể cũng đáng thông cảm thật. Nhưng như thế th́ lập trường dân tộc ở thời điểm những năm đó có c̣n được người cầm quyền nước Việt Nam Dân chủ cộng ḥa coi là chính yếu nữa không? Hay trước yêu cầu của sự thống nhất một phe – phe XHCN nhằm đối trọng với “phe đế quốc” – và trước mục tiêu phấn đấu cho “đại đồng thế giới” mà ai cũng mơ ước, quyền lợi quốc gia đă bị nh́n nhận “nhẹ tựa lông hồng”? – “Bên ni biên giới là nhà / Bên kia biên giới cũng là quê hương” (Tố Hữu)!!!
Trên tinh thần phản biện để t́m ra chân lư nhằm dứt bỏ mọi sự lướng vướng trong nhận thức tư tưởng, cũng là một cách thiết thực góp phần cứu nguy đất nước hôm nay, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu ư kiến trao đổi với GS Cao Huy Thuần của TS Phạm Quang Tuấn.
Nguyễn Huệ Chi
Là một người quan tâm tới vấn đề Biển Đông và đă từng lên tiếng trên báo chí ngoại quốc để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, tôi kinh ngạc khi đọc bài biện hộ cho Công hàm Phạm Văn Đồng (PVĐ) của GS Cao Huy Thuần (xem đây).
Kinh ngạc không phải v́ những lời biện hộ trong bài. Những lư lẽ tương tự đă từng được đưa ra rất nhiều bởi báo chí trong nước và những dư luận viên trên mạng. Nhưng kinh ngạc v́ chúng xuất phát từ một vị giáo sư của một đại học Pháp.
Xin miễn bàn về khía cạnh pháp lư của Công hàm Phạm Văn Đồng hay làm cách nào để hóa giải nó, v́ đây là những vấn đề vô cùng rắc rối và nhức nhối, cần thảo luận chi tiết ở nơi khác. Tôi chỉ xin bàn về những lư lẽ GS Cao Huy Thuần dùng để giải thích và biện hộ cho động cơ hay ư định đằng sau Công hàm này, nói rơ ra là để kêu gọi sự thông cảm cho Phạm Văn Đồng.
Về những lư lẽ bào chữa cho Công hàm Phạm Văn Đồng
Ông Cao Huy Thuần viết: “Phải phân biệt cho rơ hai vấn đề mà Trung Quốc muốn cột vào với nhau nhưng bối cảnh của năm 1958 về luật biển buộc phải tách riêng ra: vấn đề hải phận và vấn đề chủ quyền. Vấn đề hải phận là pháp lư. Vấn đề chủ quyền là chính trị. Tranh chấp không giải quyết được tại Hội nghị Genève 1958 là tranh chấp trên vấn đề hải phận. Bác bỏ hay tán thành tuyên bố của Trung Quốc là bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lư ấy, một chuyện pháp lư nóng bỏng vào thời buổi ấy. Không phải v́ bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lư là bắt buộc phải bao hàm việc bác bỏ hay tán thành cái chuyện chủ quyền – chuyện này ở bên lề, hạ hồi phân giải“. Thật là một cách “diễn nghĩa” khó hiểu! Nếu Trung Quốc muốn cột hai vấn đề 12 hải lư và TS-HS vào với nhau th́ trách nhiệm của chính phủ Việt Nam là phải tách hai cái ra chứ tại sao lại lờ đi? Công hàm PVĐ viết “tán thành tuyên bố [của Trung Quốc]” chứ đâu có viết là “tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về 12 hải lư, nhưng không tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về Hoàng Sa-Trường Sa”? Thậm chí Công hàm cũng chẳng nói ǵ về hội nghị Genève 1958. Làm sao mà một ṭa án quốc tế có thể đem câu “nhưng không tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về Hoàng Sa-Trường Sa” vào Công hàm này? Một nguyên thủ hay thủ tướng phải biết câu “bút sa gà chết” và cũng phải có một chút cẩn thận tối thiểu chứ? Diễn giải một câu viết tùy theo bối cảnh thời sự, lịch sử, văn hóa xă hội, v.v. là cách diễn giải thích hợp cho một tác phẩm văn chương cổ như Truyện Kiều, nhưng hoàn toàn không thích hợp cho một công hàm của một vị thủ tướng ở thế kỷ 20.
Ông Cao Huy Thuần biện hộ rằng v́ Liên Xô đă tán đồng tuyên bố của Trung Quốc, nên việc Phạm Văn Đồng cũng tán đồng điều đó có thể hiểu được trong t́nh h́nh thế giới năm 1958. Ông Cao Huy Thuần đưa ra bằng cớ rằng câu chữ, cách viết của công hàm Phạm Văn Đồng hầu như y hệt với công hàm của Liên Xô: “Hăy so sánh ngữ văn này của Liên Xô với “công hàm Phạm Văn Đồng”: chữ nào chữ nấy gần như bản chính với bản sao. Đây là một điểm quan trọng góp phần vào việc giải thích bản văn của Hà Nội“.
Lối bênh vực đó thật phi lư. Khi một người hay một đảng chính trị đă ở vị trí lănh đạo một nước, và nhất là khi người hay đảng đó đă tự chiếm cho ḿnh độc quyền lănh đạo nước đó, không cho ai khác được tranh giành, th́ không thể biện hộ rằng chỉ v́ máy móc theo gương mẫu, tập quán XHCN, gương mẫu, tập quán quốc tế hay bất cứ gương mẫu ǵ khác “như một bản sao“, mà vô ư nhượng bộ lănh thổ cho ngoại bang. Thủ tướng một nước đâu có phải là một cậu học tṛ lười biếng sao chép bài của thầy, bạn?
Phạm Văn Đồng, và tập thể lănh đạo VNDCCH thời 1958, có phải là những Bambi (nai tơ) ngây thơ vô tội, nh́n đời qua cặp mắt kiếng mầu hồng, nên bị lừa dối bởi những ảo tưởng không thực tế? Hay ông và những người đồng đảng, kể cả lănh đạo Hồ Chí Minh, là những nhà chính trị lăo luyện, đă từng trải qua nhiều chục năm tranh đấu gay go, vào sinh ra tử, đă từng không ngần ngại bắt bớ, thủ tiêu những chính trị gia đồng bào không đồng ư kiến?
Khi Phạm Văn Đồng rập khuôn công hàm của Liên Xô, ông có nghĩ tới sự khác biệt quan trọng: Liên Xô không có tranh chấp với Trung Quốc về những đảo trong tuyên bố của Trung Quốc, c̣n Việt Nam th́ có? Khi Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” của Trung Cộng, th́ ông có thêm ḍng chữ “trừ điều khoản về Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa)”? Không, ông chỉ “ghi nhận và tán thành” “như một bản sao”! Khó có thể tưởng tượng người nào – dù là một người b́nh thường hay một thẩm phán Ṭa án Quốc tế – chấp nhận việc một thủ tướng lại nhắm mắt sao chép như vậy về một vấn đề liên quan đến chủ quyền lănh thổ nước ḿnh!
Ông Cao Huy Thuần viết: “Cho đến bây giờ, độc giả Việt Nam chỉ thấy thư của Phạm Văn Đồng đáp lại tuyên bố của Chu Ân Lai mà chẳng thấy tuyên bố của Trung Quốc là thế nào, tuy rằng đó là cái ch́a khóa để mở cánh cửa đầu tiên”. Có vẻ như ông ám chỉ rằng công chúng Việt nam chỉ trích Công hàm PVĐ chỉ v́ họ chưa đọc bản tuyên bố của Tàu. Không hiểu ông Cao Huy Thuần căn cứ vào đâu mà viết vậy. Thực ra, những người quan tâm về hậu quả Công hàm PCĐ nhiều nhất chính là những người đă đọc tuyên bố của Tàu. Khi tôi trao đổi trên facebook, có nhiều người c̣n bào chữa cho Công hàm, nhưng đến khi tôi cho họ coi nguyên văn bản tuyên bố của Tàu th́ tất cả đều lặng người v́ đau đớn.
Càng đọc tuyên bố của Trung Quốc càng thấy rơ sự nguy hại của Công hàm PVĐ, v́ tuyên bố đó nói rơ ràng là hải phận 12 hải lư “áp dụng cho Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa)”. Mà nào có ai ép PVĐ phải “ghi nhận và tán thành” cái tuyên bố đó đâu? Ông chỉ cần viết rằng Việt Nam sẽ tôn trọng hải phận 12 hải lư quanh các bờ biển thuộc về Trung Quốc là đủ chứng tỏ sự đoàn kết và ủng hộ nước Tàu rồi, tại sao phải viết thêm câu “ghi nhận và tán thành” đó?
Ông Cao Huy Thuần viết: “Một chính quyền [của thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu] chưa hoàn toàn độc lập đối với Pháp mà c̣n cương quyết [bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa] như thế, lẽ nào, thực ḷng, một chính quyền đă hy sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền như chính quyền Phạm Văn Đồng, lại có thể từ khước chủ quyền một cách dễ dàng như vậy trong một bức thư?“. Lư luận như vậy theo tôi là lư luận ngược, đặt cái cày trước con trâu. Chúng ta không thể đặt mệnh đề “chính quyền Phạm Văn Đồng đă hy sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền” làm tiền đề, v́ đó chỉ là niềm tin của tác giả chứ không phải là một sự thật khách quan.
Sự thật khách quan là ông Phạm Văn Đồng đă “ghi nhận và tán thành” một bản tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa-Trường Sa. Sự thật khách quan là chính quyền Phạm Văn Đồng đă hy sinh rất nhiều xương máu của dân Việt Nam, nhưng chưa chắc hành động hy sinh xương máu đồng bào đó đă là với mục đích bảo vệ độc lập, chủ quyền. Và dù chính quyền Phạm Văn Đồng thực sự có mục đích bảo vệ độc lập, chủ quyền, th́ cũng chưa chắc là họ đă không có một mục đích khác họ coi là cao cả hơn, chẳng hạn như mục đích thế giới đại đồng dưới chủ nghĩa cộng sản và sự lănh đạo của Liên Xô và Trung Quốc, mà họ đă nhắc đi nhắc lại cả ngàn lần. Và cũng đừng quên là Công hàm không phải là hành động duy nhất, mà c̣n đi đôi với nhiều hành động khác, đă bị Tàu đem ra làm bằng chứng cho sự từ khước chủ quyền.
Lại càng thông thể chấp nhận tiền đề, dù chỉ hiểu ngầm, rằng thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu không yêu nước, không quan tâm chủ quyền các đảo bằng thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng, để từ đó suy ra rằng Trần Văn Hữu bảo vệ chủ quyền nên Phạm Văn Đồng, người không thể thua kém Trần Văn Hữu, không thể từ bỏ chủ quyền. Đó chỉ là suy diễn, từ thành kiến chính trị mà suy ra sự việc: đáng lẽ dùng hành động của hai người (Trần Văn Hữu và Phạm Văn Đồng) để đánh giá và so sánh họ, th́ lại khởi sự từ sự đánh giá có sẵn trong đầu để giải thích hành động. Kiểu “lư luận” đó cũng như của một kẻ đang yêu mù quáng và tôn thờ người yêu nên thấy nàng làm ǵ cũng bào chữa, khen ngợi, dù là chuyện xấu xa. Đáng lẽ ông Cao Huy Thuần phải hỏi: một người (Trần Văn Hữu) tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam trước quốc tế, một người (Phạm Văn Đồng) không những phớt lờ khi kẻ tranh giành chủ quyền công khai tuyên bố rơ ràng chữ Hoàng Sa -Trường Sa, mà c̣n “ghi nhận và tán thành”, th́ ai quan tâm tới chủ quyền hơn ai?
C̣n tiếp...
Bookmarks