Chúng tôi được đưa đến Trại 4 Xuân Hồng thuộc đoàn 776 quản lư vào lúc trời đă khuya. Đêm đầu tiên nghe tiếng vượn hú, và sáng sớm hôm sau, nghe tiếng chim "bắt cô trói cột", không hẹn mà mọi người trong chúng tôi đều đổi thành "khó khăn khắc phục".
Tổ chúng tôi gồm Linh Mục Nguyễn Quốc Túy, Linh Mục Lai Chư Khanh, và các anh Đào Quốc Đương, Hoàng Minh Tiến, Nguyễn Duy Côn, Nguyễn Văn Quư, Hồ Văn Ḥa, Luyện, Hiếu và tôi. Đó là tổ duy nhất không chia phần ăn.
Bữa cơm đầu tiên là một rá bắp xay và chén nước muối. Mỗi người được hai chén lưng, và hết hai chén lưng th́ tự ư ngưng lại. Vậy mà lần nào cũng dư một chén cơm trong rá. Đương cao lớn, nên với hai lưng chén, giống như muối bỏ bể, nhưng Đương nhất định không chịu ăn chén cơm c̣n dư. Làm sao mà "dư" được, đó là chén của cha Khanh để lại nhường cho Đương. Cha nói dối là no không ăn thêm được.
(Ôi Chúa, Chúa ở trên cao xanh kia có bắt tội vị linh mục nói dối ấy không? Ước ǵ tôi bắt chước được cái tội nói dối ấy! Bây giờ cha đă về với Chúa, cha có c̣n nhớ cha đă phạm bao nhiêu lần nói dối như thế?!)
Hàng ngày, chúng tôi chia nhau làm công việc của tổ để thay cha Khanh ốm yếu ở nhà. Cha Khanh lẩn thẩn nhặt rau rệu, đọt sắn, rau sam... lén lút nấu nồi canh đợi chúng tôi về. Có lần, rau dền gai, rau tàu bay, rau cải trời nấu chung cay xộc lên mũi mà vẫn thấy vô cùng ngon, ngon vô cùng mà ứa nước mắt.
Thấy chúng tôi đoàn kết, một hôm đi làm trở về th́ thấy Cha Khanh và Cha Túy đă được chuyển đi lên Trại 10, và anh em chúng tôi th́ bị phân tán mỗi người một tổ.
Mấy hôm sau, khoảng 80 người chuyển từ Cần Thơ ra, tôi thoáng thấy thiếu tá Hinh (Anh Thảo Trường). Thấy anh nhưng không được lại gần, v́ bị cấm tiếp xúc.
Tôi nhớ một lần, đi lấy nước, phải qua trại 6, trại 12, tôi gặp Phan Nhật Nam và Chinh Yên, tay cầm dao, túi quần nhét chiếc găng tay bảo hộ lao động tự chế, dáng vẫn nghênh ngang, vẫn đùa cợt. Ôi, công tử Lục Tỉnh phiêu lưu kư. Công tử Lục Tỉnh là chữ của Phan Nhật Nam, c̣n Chinh Yên mệt mỏi lết phía sau. Dường như Chinh Yên đă chết ngày ấy...!
Mấy hôm nay trời rét giá, nhiệt độ xuống dưới hai độ, cái lạnh nhức buốt như kim châm, bào xé thịt da. Gió bấc vật vă trên sườn núi, cuộn sóng trên mặt hồ bốc khói sương. Tấm chăn đơn mỏng và căn trại gị lùa, không tài nào ngủ được, chúng tôi xúm xít lại với nhau, tựa vào nhau ngủ ngồi quanh đống lửa.
Anh Lê Văn Chương (thiếu tá cảnh sát) đă chết chiều hôm trước.
Cái đói kèm theo cái lạnh khắc nghiệt đến tận cùng.
Thế nhưng, dẫu trời mưa gió lạnh giá, vẫn không một ngày nghỉ, kể cả ngày Chúa nhật. Mỗi người phải lấy 1m3 củi cho nhà bếp, đêm đến phải học tập, sinh hoạt, phê b́nh, kiểm điểm, bới móc đủ điều. Tiêu chuẩn ăn chỉ c̣n 9 kư gạo mỗi tháng, song lại đổi thành sắn tươi, 1 gạo 5 sắn, mỗi ngày chia ra 1,5 kg sắn tươi, chưa bóc vỏ. Toán nhà bếp xin trại cho đi cải thiện rau rừng để có thêm rau xanh cho bữa ăn. Rau tàu bay, rau cải trời, lá sắn... đem về nộp cho trại, trại bán lại cho trại viên 50 xu mỗi kư, trừ béng vào tiền vệ sinh hàng tháng là 3 đồng.
Rau tàu bay cay xé miệng, nước mắt, nước mũi ràn rụa, không biết có phải cay v́ cải trời? Cán bộ quản giáo Đội 5 Đặng Quang Ba nói rít qua hàm răng:
- Các anh không biết à! 4 kư lá sắn có chất dinh dưỡng bằng một cân thịt ḅ!
Đào Quốc Đương ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:
- Thịt ḅ lăn, thịt ḅ càng!
Sương Biên Thùy làm bài thơ ca ngợi sắn, tôi không nhớ được hết, nhưng đại khái như sau:
Hăy cuốc xuống thật sâu
Hăy chôn cho thật kỹ
Sắn nẩy mầm xanh mơn
Nứt ra thành củ lớn
Sáng sắn, trưa sắn, chiều sắn
Ôi, những sắn, những sắn
Sắn sống măi trong sự nghiệp của chúng ta."
C̣n tiếp...
Bookmarks