H́nh như năm nay thu nó về sớm hơn một kỳ; phải không hở anh Cử? Ông già sáu mươi cài hết hàng khuy hổ phách nơi tà áo chiếc áo lụa Nguyễn tím than đă bợt, ngẩng đầu hỏi người con đang soạn bộ đồ trà. Cậu Cử mở qua loa cuốn lịch, thưa lại:
- Thưa thầy, lập thu vào ngày mồng một tháng bảy.
Ông già sáu mươi kêu: "Thảo nào!" và hỏi tiếp:
- Đến tháng tám này là đúng vào ngày đầy tuổi tôi con bé cháu Tố Tâm đấy nhỉ?
- Dạ thưa thầy vâng.
- Một năm đủ mười hai tháng. Lên một, Tố Tâm nó chơi đèn được rồi đấy. Năm nay anh Cử có định bày cỗ cho các cháu chơi tết Trung Thu không?
Dưới nhà, vọng lên tiếng trẻ khóc bú và tiếng đàn bà ru con. "A ơ... Tâm ơi, Tâm ngủ đi Tâm... Để mợ ra đầm, gánh nước tưới hoa... à ơ...".
Ông già tỳ cùi tay lên gối xếp da quang dầu, vuốt cḥm râu bạc, nh́n ra cơn heo may lay bức mành, làm gật gù bông cúc nơi chậu cây cảnh ngoài sân. Ông già nét mặt nghiêm trang, bảo cậu Cử:
- Các con gọi tên con cái, nên gọi cho đúng. Tên cháu bé là Tố Tâm, th́ phải gọi đúng như thế. Sao lại ăn bớt đi mất một chữ. Không thể bảo như thế là tiện là dễ gọi được. Người ngoài người ta cười cho.
Cậu Cử vội chạy xuống nhà rồi lại chạy lên ngay. Nói tiếp về việc bày cỗ tháng tám, cậu Cử thưa:
- Đă đến mấy năm nay, nhà ta bỏ mất cái tục lệ ấy. Cứ kể có bày ra lại, nó cũng vui nhà.
Dưới nhà, lại vẳng đưa lên cái giọng ru con ban năy:
"à ơ, Tố Tâm thừa chút hương trời... à ơ ư...".
Ông cụ già bằng ḷng. Người con dâu thứ ở nhà dưới ru trẻ theo cái ư của ông già vừa ngỏ với cậu Cử. Cậu Cử cũng hài ḷng v́ vợ đă tỏ ra là một người thuần thục, biết nghe lời gia huấn. Không những thế, mợ Cử c̣n tỏ ra là người cũng vơ vẽ thi ca nữa. V́ con gái út là một thứ hương thơm bắt được của trời!
Thằng Ngộ Lang, đứa con đầu ḷng lên bảy tuổi, chạy lên mách với cậu Cử: - "Em Tố Tâm ngủ rồi cậu ạ". Rồi nó leo lên sập, nhảy vào ḷng ông nội, cũng đ̣i uống trà tàu. Cái lối chạy lên làm nũng ông nội như thế, và được ông nội thỏa nhận, thằng Ngộ Lang đă có thói quen. Ông già sáu mươi yêu cháu vô cùng. Có khi ông lại đọc cả thơ chữ Hán để cho đứa trẻ sớm thông minh kia ngồi nhại ḿnh. Nhớ được một hai câu ngũ ngôn ngăn ngắn, nó lại chạy xuống bếp túm dải yếm mẹ và đọc sai gần hết để mợ Cử lại phải ph́ cười chữa lại từng thanh âm một. Từ khi cụ Thượng Nam Ninh không ở chức tổng đốc vùng xuôi, về trí sĩ ở Hà Nội, tại cái nhà ngói chật hẹp phố Hàng Gai này, thằng Ngộ Lang là một cái vườn cảnh cho cụ vui cái thú điền viên. Cụ khen cháu cụ là đĩnh ngộ. Mỗi bữa rượu sớm, mỗi tuần trà trưa, cụ đều cho Ngộ Lang ngồi kèm một bên. Đă mấy mươi lần, vợ chồng nhà Cử hai hết sức van xin ông đừng nuông cháu quá, sợ Ngộ Lang đâm ra hỗn. Cụ Thượng phật ư, bảo dâu và con nếu không để cho cụ như thế th́ cụ vào ở trong huyện Thọ Xương vậy. Vợ chồng cậu Cử không biết làm thế nào, đành cứ phải để Ngộ Lang mặc sức quấy và làm nũng ông nội. Cụ Thượng cười và thôi không dọa vào ở trong huyện Thọ Xương, nơi mà người con trai cả lỵ đă mấy năm nay. Thực thế, cái ư vào ở với cậu Cử cả, giờ là một ông quan lệnh, ư đó chỉ là một lời dọa. Ông lệnh Thọ Xương đă mấy mươi lần đem cả vợ con đến nhà hẹp phố Hàng Gai để rước cụ Thượng vào trong huyện ở cho mát hơn rộng hơn. Cụ Thượng chỉ trả lời ông huyện Thọ Xương:
- Lần sau, anh được lúc việc quan thanh thản, có ra chơi ngoài phố này với thầy, đừng có nên đem lính ra nhé. ồn lắm. Chúng nó có sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh, th́ cho thêm vào cái đám Kiêu binh Tam phủ được đấy. Thầy rất sợ hàng phố người ta nói vào.
Mấy lần sau ra thăm cha, ông huyện Thọ Xương không dám đem mấy tên lính trọ trẹ ra theo nữa, nhưng đả động đến việc cũ, th́ chỉ thấy cụ Thượng trả lời:
- Thầy ở đâu th́ cũng thế. Miễn là được tĩnh mạc là hơn cả. Anh cũng rơ cái tính tôi vốn sợ cái bọn lính hầu cận và lại hay tránh sự giao thiệp. Tôi tưởng vào ở tư thất một huyện nha nó phiền nhiễu lắm. Thôi anh cứ để tôi ở ngoài này.
Ông huyện Thọ Xương biết cha ḿnh có bụng yêu chú Cử em hơn nên kiếm cớ ra như thế, bèn nói dỗi:
- Dạ, con tưởng hồi trước thầy c̣n ở chức, sự giao thiệp và đưa đón những tạp khách cũng nhiều lắm, và nhiều không kể cho hết được, lại là những cái gai mắt của toán lính hầu cận thầy. Một cái dinh Đốc bố đường, thưa thầy, sai nha không phải là ít. Vậy mà con không thấy thầy phàn nàn bao giờ cả.
Cụ Thượng hiểu ư, cười:
- Bởi thế cho nên tôi mới thèm đến sự an nhàn lúc được dưỡng lăo. Vả lại thầy ở ngoài này nó quen đi rồi. Bao giờ anh được lùi về vườn và nếu trời c̣n cho thầy sống một vài giáp nữa, ông con ta sẽ ở chung để sửa sang một cái vườn có đủ hoa bốn mùa. Anh không lo rằng chậm. Thôi, cứ để thầy ở ngoài này.
Cụ vừa trả lời ông huyện Thọ Xương vừa nh́n ông Cử hai đứng sau người anh, có ư bảo thầm người con thứ rằng: "Bao giờ thầy cũng chỉ muốn ở với con, bởi v́ con có tâm hồn giống như ta". Rồi ngắt sang câu chuyện khác, cụ hỏi:
- Các anh có nghe thấy ở các phường người ta đồn về cái tin đức Thành Thái ngự du ra khánh thành cầu Bồ Đề với quan Toàn quyền Đô Mỹ ( Paul Doumere) như thế nào không? Chắc ông huyện th́ rơ nhiều hơn là em Cử nó. Mấy nhịp cầu tất cả nhỉ! H́nh như là chín nhịp đấy nhỉ?
Thường mỗi một lần từ chối lời mời mọc chí t́nh của người con cả, ông già lại có một câu chuyện đánh trống lảng như thế, để giữ lấy ḥa khí trong đám "anh em chúng nó". Cùng là con cả, nhưng cụ Thượng đă thấy rơ ông Cử cả, tức là ông huyện Thọ Xương đương chức kia, là một người có tâm thuật rất hèn kém. Cũng là một giọt máu sinh đôi mà sao ông Cử cả và ông Cử hai không giống nhau lấy mảy may, từ quan niệm nhân sinh cho đến từng cái nhỏ nhặt hàng ngày. Cụ Thượng tin rằng khi cụ trăm tuổi đi rồi th́ ông huyện Thọ Xương dám làm mọi chuyện phương hại đến gia thanh. Cái người ấy, thường cụ vẫn hạ mấy chữ "vô sở bất chí" những lúc nghĩ riêng ḿnh với ḿnh: "Ta nằm xuống, là thằng này sẽ làm mất hết những chính tích hay trong một đời làm quan của ta". Bởi chán về người con lớn đă t́m được lối xuất thân, cụ càng nghĩ mà thương và yêu người con thứ. Cũng là thân danh một ông cử nhân có vợ, có con, mà vẫn c̣n đơn giản như ngày để chỏm. Ông Cử hai có khoa mà không có hoạn, và cái khoa mục ấy giá không nói ra th́ không ai biết. Người có hoa tay, thêm được chút tâm hồn lăng tử, nên ông Cử hai sống cuộc đời ḿnh như người ta chơi chơi vậy thôi. Người ấy, thực là một người không có lấy một giây phút trịnh trọng đối với nhân sinh. Ông ta sinh ra để mà đùa với cuộc sống và bắt đầu từ việc đem ngay cái tài hoa của ḿnh ra mà đùa nhả với sự nghiệp thân thế ḿnh. Hồi cụ Thượng c̣n nhậm ở dưới Sơn Nam hạ, cái gia đ́nh lớn ấy chưa quy về một mối, ông Cử hai quanh năm đi dạy học ở bốn tỉnh tứ chính Đông Nam Đoài Bắc. Không cần phụ huynh học sinh xử hậu hay bạc, không cần địa phương ấy là có đất văn tự hoặc dân ấy là có nếp văn chương muốn cầu học chữ của thầy, có khi tới ở đó ít ngày, ngồi giảng bài chưa ấm pḥng học, ông đă quẩy khăn gói tráp điếu lên đường. Người tuổi tác có hỏi, ông trả lời là v́ cảnh ở đấy không dung được người. "Bực trượng nhân thử nghĩ: cái ǵ mà nước chỉ chảy xiết không bao giờ tụ; cây trồng đến ba năm bói không có quả; ớt nhấm không thấy cay; hoa chỉ có mùi thơm về phần đêm; núi chỉ bằng đầu chứ không có chỏm ngọn, và mây trời không bao giờ hiện đủ năm sắc. Cảnh như thế, tôi ngồi mà làm ǵ. Chữ thánh hiền không phải ở chỗ nào cũng đem bố thí được".
Ông Cử hai đi dạy học, đă lấy cái việc dạy học làm một mưu hồ khẩu mà y như là đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích. Và những lúc mỏi chân phải ngừng ở lại các thôn ổ, ông lại c̣n thỉnh thoảng ngừng cả cái miệng giảng sách hoặc ngừng chấm nét son lên quyển bài, để đề một bức châm lên lá quạt tặng bạn đồng song, để khắc chữ triện và trạm trổ một ḥn đá xù x́ cho thành một con thạch ấn, để dúng ngón tay trỏ vào chậu mực vẽ một bộ tứ b́nh thủy mặc có h́nh đủ bốn thứ cây cỏ tứ hữu: cúc, trúc, lan, mai, treo chơi trên vách đất quán trọ nơi ngồi dạy học.
Gần ngày tết nhất, người trưởng tràng lúc thu xong sổ đồng môn, chỉ khổ lên v́ đi t́m thầy. Tết mùng ba, ông Cử hai đă trốn khỏi nhà trọ từ hôm trước để để đi ăn hàn thực và đi hội đạp thanh với các bạn sính làm thơ tức cảnh. Tết Đoan ngũ, ông lên núi hái lá thuốc, những mong được như hai người Lưu Nguyễn ngày xưa gặp tiên. Tết Trung thu ông lên chùa Thầy ngắm trăng Chợ Giời họp trên đỉnh núi Sài Sơn. Gần tết Nguyên đán, nếu chưa về nhà, th́ ông ẩn ở trong một mái đ́nh vắng nào để gọt cho hết một lắp thủy tiên. Cái hành tung của người nghệ sĩ không chịu sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh ấy, thực khó mà ḍ hỏi. Lùng t́m cái dấu bàn chân một chính khách thất quốc lúc vượt bể ra ngoài mưu việc lớn, có lẽ c̣n dễ hơn đi đuổi theo ông Cử hai những lúc cái hứng giang hồ ở người ông nổi dậy.
Từ ngày cụ Thượng nghiêm phụ về trí sĩ ở Hàng Gai, Hà Nội, ông Cử hai không tha phương làm ăn nữa. Ông ở riệt ở nhà chép lại cuốn gia phả, và sao được bao nhiêu pho Kinh mượn trên chùa Trấn Quốc cho cha. Thế rồi mợ Cử sinh thêm được con Tố Tâm. Trước ngày ở cữ Tố Tâm, vườn lan nhà cụ Thượng Nam Ninh ở Hàng Gai nở đều mấy chậu vừa Tiểu Kiều, Đại Kiều. Cụ Thượng cha gọi thế là lan báo hỉ và đặt tên luôn cho cháu gái là Tố Tâm. Mợ Cử hai, thấy chồng không ra mặt bất đắc chí và phẫn uất với buổi giao th́ nữa, chỉ ngày ngày thờ cha già và chơi với Ngộ Lang và Tố Tâm, cũng vui cười hể hả thêm lên. Một hôm Mợ đă dám ru con rất to, như rót vào tai chồng:
Ba năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu lại, cơ đồ vẫn nên.
Thằng Ngộ Lang và con Tố Tâm ngoan vô cùng. Thằng anh mến con em, nhiều khi cắn cả má em để cho em vừa khóc vừa theo, ồn ào và dễ thương lạ. Con Tố Tâm chưa đầy tuổi tôi, mà má đă lúm đồng tiền, mà mắt đă trong như nước hồ thu. Ngắm con gái, anh hoa sớm lộ ra ngoài, mợ Cử hai có điều ngài ngại. Buồn một cách thoảng qua thôi. Chỉ có một lần thằng Ngộ Lang làm cho mẹ nó buồn sợ hơn hết là một buổi tối, nó vén màn the lên, kéo mẹ nó đến gần cửa song có con tiện, chỉ cho mẹ nó xem một vừng trăng sớm ló bên đầu hồi nhà.
- Mợ ơi, ra đây mà xem ông giăng.
- Ông giăng làm sao?
- Ông giăng đẹp lắm. Có hai cái cánh nhọn.
- Thế th́ đẹp ǵ. Ông giăng có tṛn th́ mới đẹp chứ!
- Tṛn cả không đẹp mợ ạ.
Từ lúc ấy, thằng Ngộ Lang cứ vắt tay lên trán mà ngắm giăng như một người lớn đang suy nghĩ. Mỗi lần mẹ nó bảo bỏ lá màn xuống cho khỏi muỗi th́ nó lại sụt sịt khóc. Và nó cứ vắt tay lên trán nh́n vừng giăng lên mỗi lúc một cao. Ông Cử hai vừa về, nó nhẩy choàng dậy, vui mừng như một người đứng tuổi khi t́m được một tâm hồn bầu bạn, nó lôi tay bố nó xềnh xệch đến chỗ chấn song, chỉ vừng giăng bạc có cánh nhọn và nói:
- Ban năy ông giăng khéo hơn bây giờ kia cậu ạ. Ngộ Lang nằm chờ măi mà không thấy mây che lấy ông giăng của Ngộ Lang. Thế đêm nay có mây không hở cậu?
Vợ chồng ông Cử hai nh́n nhau hồi lâu, chốc lại liếc qua Ngộ Lang đứng bần thần bên cửa sổ có ánh giăng xuyên qua. Người vợ h́nh như lấy cặp mắt lo lắng bảo thầm chồng: "Tính di truyền giọt máu nhà lại bắt chúng ta cho ra đời một tên tài tử nữa rồi" để cho người chồng nghĩ thêm rằng: "Đời thằng Ngộ Lang rồi cũng chỉ đến lăng băng mà thôi. Cái vừng giăng lưỡi liềm kia sau này c̣n lôi kéo cái thơ mộng Ngộ Lang kia đi xa lắm. Việc ấy cũng là số mệnh định cả và điềm ra như thế".
Qua ngày Tết Trung Nguyên, ông Cử hai để tâm vào việc sắm cỗ tết Trung Thu cho hai trẻ Ngộ Lang và Tố Tâm và vợ chồng cũng quên cái việc Ngộ Lang mê cái bóng giăng lưỡi liềm đêm trước.
Mấy hôm nay, ông Cử hai chạy suốt ngày như một người bận rộn nhiều lắm. Chốc chốc lại tha về mấy cái mai cá mực, hoặc ít mụn nhiễu đủ các màu tươi và bao nhiêu là giấy hàng mă cùng là que nứa và dây lạt. Ông Cử hai, một người tài hoa giang hồ, đến cái tuổi chán sự bay nhảy và đă nghĩ đến chuyện vui cùng gia đ́nh.
Người ấy đă hồi tâm lại, mong gây cái êm ấm cho gia đ́nh vào một ngày tết của con trẻ. Người ấy đi kiếm các vật liệu để làm cho lũ con một cái đèn xẻ rănh. Từ trước tới giờ cái người ấy có sao Thiên Cơ chiếu vào hoa tay, chỉ đi làm đèn xẻ rănh ở những chỗ đầu sông ngọn nguồn cho các thứ trẻ con thiên hạ, hồ mong trả cái nợ áo cơm đối với những người bao dung ḿnh vào những ngày và tháng bẽ bàng.
Mấy ngày liền liền, ông Cử hai nghĩ t́m một cái đầu đề mới lạ cho đèn xẻ rănh. Hay là lấy sự tích Tam Quốc ra làm? Không thấy hứng lắm, bởi v́ đă đến ba bốn lần ông mượn tích Tam Quốc rồi. Người ta c̣n nhắc măi đến bây giờ cái đèn xẻ rănh của ông hồi mấy năm về trước, diễn cái tích "Triệt giang pḥ A Đẩu" lúc Triệu Tử Long nhẩy sang thuyền Tôn phu nhân trên sông Ngô, trông cứ như thật. Cái tài làm đèn xẻ rănh của ông được nổi tiếng truyền rộng ra một vùng Kinh Bắc là từ cái đèn "Triệt giang pḥ A Đẩu" ấy. Tác phẩm chỉ độc có một cái ấy, ngày nay ông Cử hai không c̣n nhớ ra được là đă vào tay ai. H́nh hài ông vào hồi ấy cũng c̣n là chuyện bỏ qua, huống hồ chỉ là một công tŕnh tiểu xảo kia! Ai đi nhớ mà làm ǵ!
Mấy hôm nay ông nghĩ đầu đề làm đèn xẻ rănh cho thằng Ngộ Lang, thực khó hơn là t́m vận thơ gieo cho một bài bát cú phú đắc. Chưa biết nên diễn cái tích ǵ đây! Hết ngày ấy sang ngày khác, ông ngồi bóc sẵn hạt bưởi và chẻ những hạt na ra từng hai mảnh một. Hạt bưởi xâu vào que phơi khô, tức là những cây nến cắm vào đèn giấy cho lũ trẻ con nhà nghèo chơi đêm ngày rằm.
Cụ Thượng nướng đỏ cái tiêm sắt vào ngọn đèn thổ hà, xiên mũi tiêm nóng vào ḷng mảnh hạt na, hút một điếu thuốc lào, thở khói pháo. Mảnh hạt na vừa tàn th́ tro thuốc nơi nơ điếu cũng vừa tụt gọn vào điếu. Gọn gàng và ngon lành đến thế là cùng. Cụ Thượng hỏi ông Cử hai:
- Thế anh đă nghĩ làm đèn như thế nào chưa?
- Con định hỏi lại thầy về cái tích này xem có nên không. Là diễn một tích trong truyện Ngô Việt Xuân Thu, lúc Phạm Lăi đem Tây Phi sang dâng Ngô Phù Sai.
- ừ, Phạm Lăi gặp Tây Thi giặt lụa ở bến Trữ La, hồi này thú vị đấy. Nhưng anh Cử định diễn từ đoạn nào? Phải làm những quân ǵ? Đừng nên làm nhiều quân lắm. Cái sức luân chuyển của tán đèn đốt lửa chỉ có chừng độ thôi. Nếu dùng nhiều quân quá, sức máy gạt ngang sẽ yếu đi nhiều.
- Con đă nghĩ rồi. Cái rănh chính để h́nh dung một con sông chảy từ đất Việt sang đất Ngô. ở phía bên phải chiếc đèn, đắp một ḥn núi giả hơi cao. ở rănh phụ ấy đặt một cái máy gạt ăn vào hai h́nh quân Ngô Phù Sai và Ngũ Tử Tư. ở nơi góc bên trái, cũng ở một cái rănh phụ nữa, lại một chiếc máy gạt ăn vào một chiếc thuyền ở trên có h́nh Phạm Lăi ngồi. ở cái rănh chính th́ có chiếc thuyền lớn. Đấy là thuyền Tây Thi tiến Ngô.
- Thế anh cho các quân ấy chạy và gặp nhau như thế nào?
Ông Cử hai dúng ngón tay trỏ vào cái đĩa dầm sứ có nước, vẽ xuống mặt án thư mấy h́nh phác họa vị trí của từng quân đèn xẻ rănh.
- Thưa thầy, khi tán đèn quay, th́ cái thuyền Tây Thi đi từ phía trái sang phải. Khi thuyền gần tới ḥn núi giả, động đến cái máy gạt có cần thép ăn vào hai quân Ngô Phù Sai và Ngũ Tử Tư, th́ hai h́nh này cử động. Ngô Phù Sai sẽ ưỡn ḿnh ra phía sau như là ngắm kỹ nàng Tây Thi ở trong cái thuyền tiến cống đang đi thấu vào bờ cơi nước Ngô. C̣n h́nh Ngũ Tử Tư th́ cử động hai tay như là ôm lấy Ngô Phù Sai, can ngăn không nên thâu nhận lấy cái họa Tây Thi. Về phía bên trái cỗ đèn, khi thuyền Tây Thi vừa lướt qua cái trục máy gạt ở rănh phụ phía trái, th́ chiếc thuyền con có Phạm Lăi lộn ngược đi khuất vào góc đèn. Thầy nghĩ thế nào?
- Anh dàn quân thông đấy. Thành ra hết bốn quân Tây Thi, Phạm Lăi, Phù Sai, Ngũ Tử Tư, ừ, bốn quân và... hai con thuyền. Chưa lấy ǵ làm nặng quá sức quay của tán đèn. Có thể thêm một quân nữa.
- ư thầy muốn thêm một quân Thái Tể Bá Hy nữa, thưa thầy phải thế không? Vâng, có cái ông Thái Tể nữa vào nó cũng vui tṛ. Phải thêm một cái gạt nữa cho cái ông nịnh thần vong quốc này. Lúc thuyền Tây Thi đến, trong truyện, chính Thái Tể Bá Hy ra đón Tây Thi, và từ đấy, đă đưa Ngô vào đường diệt vong theo đúng cái kế hoạch của Việt vương Câu Tiễn.
Cụ Thượng và ông Cử hai ra công làm năm quân ấy cho chiếc đèn xẻ rănh lấy tên là "Ngô vương cự gián nạp Tây Thi".
Công việc chẳng có ǵ, vậy mà cũng mất đến hơn mười hôm. Ông Cử hai t́m những mẩu nến bạch lạp rất to cháy dở c̣n thừa lại trên đầu các đèn nến thiếc Sông Ngân nơi bàn thờ. Và đi lục lọi thêm những mẩu khác nữa trong tủ để cho nó đủ. Mẩu nến của kỳ giỗ xa xôi sót lại, vẫn chưa mất hết hẳn những giọt nước mắt sáp của những ngày hương đèn năm trước. Ông Cử hai đem đốt chảy và hợp thành được một tảng sáp lớn. Ông chuốt quân đèn xẻ rănh và lấy sáp này làm cốt cho quân. Cũng may mà những mẩu sáp thừa kia đủ dùng, chứ không th́ cũng hơi rầy v́ cái khoản vật liệu này. Độ này nhà túng lắm, mọi việc mua bán đều phải lấy tiết kiệm làm đầu. Đă hay rằng ông huyện Thọ Xương vẫn có đưa ra luôn để đỡ thêm vào việc chi tiêu trong nhà, nhưng ông Cử hai vẫn lấy thế làm phiền.
Thế là tạm xong được mấy cái cốt h́nh người. Bây giờ mới bắt đầu làm đến đầu người, mặt người. Thằng Ngộ Lang ngồi chồm hổm bên cạnh bố, hỏi luôn miệng:
- Tai sao cái mặt này cậu để trắng, cái mặt khác lại có hai chấm đỏ, và cái mặt kia cậu lại bôi đỏ hết cả đi?
Cụ Thượng đang ngồi lựa mụn lụa xanh đỏ bó thành quần áo cho quân sáp, cười và bảo:
- Cháu đừng có nghịch th́ mới chóng có đèn chơi. Mặt trắng là quan văn. Mặt đỏ là quan vơ. Những người trung thần nghĩa sĩ cũng đều mặt đỏ cả. Người phản nịnh th́ mặt trắng mốc có điểm mấy vệt đỏ nhờ nhờ.
Ngộ Lang chỉ vào lũ mặt người:
- Thế ra ông làm cho cháu một cái đèn có cả người nịnh và người trung, quan văn và quan vơ đấy à. Sao ông không cho quân đèn mặt đỏ tất cả đi?
Ông Cử hai gọt đầu người bằng mai cá mực, để công nhiều nhất khi gọt đến mặt Phạm Lăi và Tây Thi. Nàng Tây Thi tất nhiên phải có khuôn mặt đẹp. Nhưng nghĩ đến cái thú vị của một đời người như lúc Phạm Lăi dám bỏ lại sau ḿnh cả một cái giàu sang nhất nh́ mà đi chu du Ngũ hồ, nghĩ đến phút ấy trong cái sinh b́nh một người xưa, ông Cử hai cũng làm luôn cho Phạm Lăi một cái mặt rất đẹp, cấy vào đấy một bộ râu năm cḥm đen nhánh, Ngộ Lang cũng tỏ ư thích cái đầu Phạm Lăi và cả cái đầu nàng Tây Thi nữa.
Đèn xẻ rănh đă hoàn thành. Cái tán đèn xẻ rănh to quá. Phải thắp đến mười con bấc nơi đĩa dầu sở, cái sức mạnh của lửa mới quay chạy được tán đèn. Ngày đầu tháng tám, ông Cử hai đem đèn ra thử.
Có người học tṛ cũ ở Sơn Tây về qua Hà Nội, biết ông Cử hai có con, đem đến biếu thầy học cũ một cái bánh dẻo mặt trăng, mặt bánh to một thước, thế nào lại nhằm ngay vào giữa hôm ông Cử hai thử đèn xẻ rănh. Ông bày đèn ra sân, đốt hết cả mười con bấc cháy sáng. Ông bày luôn ra sân bộ đồ trà, mời cụ Thượng ra ngồi vào cái ghế đẩu đă để sẵn trước đèn. Cụ Thượng ngồi, ăn bánh, uống nước và trịnh trọng như một người được mời tới để định giải thưởng cho đèn xẻ rănh. Rồi cả nhà, mỗi người một miếng, trông vui vẻ lạ. Vui nhất là Ngộ Lang. Cả đến con Tố Tâm bé thế mà cũng ăn được hai mảnh bánh mặt trăng.
Quân đèn bắt đầu diễn ṿng đầu. Mặt trước đèn có nến soi vào, sáng như một sân khấu rạp tuồng thu bé lại. Thuyền Tây Thi từ từ tiến vào sân khấu. Lúc nàng vào được đến phần ba ḷng sân khấu, lướt qua chiếc thuyền Phạm Lăi, động đến cái máy gạt thứ nhất ở góc trái đèn, th́ thuyền của Phạm Lăi quay vào trong và lẩn mất. Nàng Tây Thi vẫn xuôi trên sông Ngô rồi biến vào nội địa đất Ngô. Cái máy gạt ở góc phải cỗ đèn động đánh xịch một cái nữa, th́ trên ḥn núi giả làm bằng giấy trang kim đốt đen, Ngũ Tử Tư bắt đầu ôm lấy Phù Sai với dáng điệu của người tôi trung hết sức ngăn chúa. Nhưng dưới chân giả sơn, cái người nịnh thần Thái Tể Bá Hy đă đon đả đi gần lại thuyền Tây Thi, giơ tay ra đón lấy. Trên cái núi giấy, hai h́nh tội chúa kia vẫn cử động như ban năy, một người tỏ vẻ can ngăn, một người vùng vằng không chịu nghe. Thuyền Tây Thi dưới này, đi sâu măi vào đất Ngô và khuất hẳn. Vậy là đủ một ṿng đèn xẻ rănh.
Ngộ Lang nhảy lên mà cười. Cái đèn này là của riêng nó để bày cỗ ngày rằm. Con Tố Tâm khoa măi hai chân và hai tay như muốn sà xuống chỗ đèn sáng. Rồi nó khóc. Mợ Cử hai bảo chồng:
- Hay là làm cho mỗi đứa một cái. Càng đông đèn, cỗ càng vui. Giữa mâm cỗ, bày một con gà uốn h́nh ông Lă Vọng. Ngộ Lang đă có đèn xẻ rănh. Giờ làm cho con Tố Tâm một chiếc đèn kéo quân, cho nó khác đi.
Ngay ngày hôm sau ông Cử hai lại túi bụi vào việc làm đèn kéo quân. Ông đă đem một tập sách thơ cũ ra, lột mất mấy cái b́a sơn cậy, cắt b́a ra, ghép hai mảnh b́a làm một, dán lại làm h́nh người, Tố Tâm th́ chỉ chơi đến đèn kéo quân thôi. Nhưng dù sao, ông Cử hai cũng để hết công phu vào việc làm đèn. Chiếc đèn kéo quân của con Tố Tâm, đến hôm bày cỗ rằm, cũng c̣n hơn các bàn cỗ nhà khác ở chỗ nó có những hai chiếc tán kia, mỗi cái tán ăn vào một đĩa đèn, một tán xoay ṿng theo chiều thuận, một tán xoay theo ṿng nghịch. Đèn chạy, hai ṿng quân, một ṿng trẩy đi, một ṿng trẩy về, vui mắt lạ! Lại c̣n đèn cá và thiềm thừ nữa. Mợ Cử hai ngâm sẵn một vại ốc và bửa những quả bưởi rất khéo, cốt giữ nguyên vẹn lần vỏ, trổ vào vỏ những h́nh trám thủng, để hôm sau con nó thắp lên rồi tha hồ mà lăn tṛn cái thứ đèn cù ấy trên mặt đất. Ông Cử hai t́m lên vùng Hồ Tây đặt rượu sen thứ có tăm. Chưa bao giờ cái tết Trung Thu nhà ông nhộn nhịp cả nhà đến như thế.
Rút từ tập truyện ngắn Vang bóng một thời,
Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1940
____________________ ____________________
Bookmarks