-Năm Nhâm Tư (1792) Nguyễn vương khởi động chiến dịch tấn công "gió mùa", đem quân đi đánh Tây Sơn, gió thuận ra đi, gió trái trở về.
-Năm Quư Sửu (1793), Nguyễn vương ra đánh Qui Nhơn, lấy lại phủ Diên Khánh, thâu phục phủ Phú Yên. Tháng 9 âl, Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc chết.
Tháng 10 âl (1793), sai Nguyễn Văn Thành giữ thành Diên Khánh, Nguyễn Ánh rút quân về Gia Định. Sai Chánh đội Quang Nôi Ve (tức Cai Tín Olivier de Puynamel) và đội trưởng Ba Đờ Chê (có thể là người Pháp Laurent Barisy) qua thành Cổ Á (thành Goa) và Ma Lac Ca (Malacca) để mua binh khí. (theo sách QTCBTY/ trang 29).
-Năm Giáp Dần (1794), sửa lại Văn Miếu dinh Trấn Biên.
-Năm Bính Th́n (1796), xây dựng Thái Miếu.
Rơ ràng là trách nhiệm trông coi công tác xây cất thành Quy từ năm 1793 đến năm 1796 không c̣n do Cai Tín Oliver đảm nhiệm nữa v́ đương sự đă xuất ngoại để lo việc mua súng óng, binh khí cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Trong khi Nguyễn vương bận rộn với chiến dịch Gió mùa, Le Brun bất măn bỏ đi, vậy th́ công tác xây thành Gia Định giao cho ai trông coi? Không thấy sử sách cũ của triều Nguyễn nói rơ về việc nầy.
Gần đây, một số ít học giả Việt Nam nghiên cứu về lịch sử Việt Nam đă dựa vào Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 15 để viết rằng chính Trần Văn Văn Học đă phụ trách việc đo đạc, phân chia khu vực và dự trù khai mở những con đường trong thành Gia Định. Trần Văn Học cũng là tác giả Bản đồ Gia Định 1815. Cũng dựa vào ĐNCBLT, người ta được biết rằng Trần Văn Học sinh quán ở B́nh Dương (là Sài G̣n thời đó ), từng đi theo giáo sĩ Giám mục Bá Đa Lộc trong đoàn cầu viện sang Pháp nhưng khi phái đoàn sang đến Pondichéry (Ấn Độ) th́ Học trở về. Học thông thạo quốc ngữ La tinh và tiếng Pháp, được Bá Đa Lộc đề đạt làm thông ngôn cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Sau khi từ Pondichéry trở về, đương sự được giao phó việc dịch sách đặc biệt là các loại sách kỹ thuật của Pháp; cùng một lúc, đương sự cũng được giao phó nhiệm vụ chế tạo chất nổ, tàu hỏa, và chế tạo binh khí. Năm 1790, khi bắt đầu xây dựng thành bát quái Gia Định (tức thành Quy), Trần Văn Học phụ trách việc phát họa đường sá và phân chia khu vực phố phường.
Người Pháp đánh thuê cho Nguyễn vương là Jean Marie Dayot (Nguyễn Văn Trí) đă tự kể lại rằng chính đương sự và Olivier đă cùng nhau thực hiện đồ án thiết kế vùng sông Sài G̣n cùng nhiều địa điểm khác nối liền với Cao Miên: "Nous avons relevé ensemble le plan de la Rivière de Saigon, ainsi que celui de plusieurs endroits qui communiquent avec le Cambodge". (trong La geste française en Indochine, G.Taboulet, tập I, trang 243 đến trang 251). Việc nầy nếu có thật th́ chỉ có thể xảy ra vào năm 1790 v́ năm nầy chính là năm Dayot mới đến xin phục vụ dưới quyền của Nguyễn vương Phúc Ánh và có thể được giao phó làm việc dưới quyền của Olivier trong việc quy hoạch xây cất thành Gia Định, sau đó th́ Dayot được giao phó chức vụ chỉ huy hai thuyền chiến hiệu Đồng Nai và Vương tử Nam Kỳ và phải theo Nguyễn Ánh trong những chiến dịch Gió Mùa bắt đầu từ năm 1792. Chiến dịch Gió mùa chỉ tạo được thắng lợi khi lực lượng của Nguyễn Ánh chiếm được Qui Nhơn vào năm 1799. Vơ Tánh được giao trọng trách trấn thủ Qui Nhơn và Nguyễn vương Phúc Ánh rút quân về Gia Định. Rất có thể vào lúc nầy Nguyễn vương lại giao nhiệm vụ cho Dayot theo dơi đôn đốc việc tiếp tục xây dựng thành Sài G̣n và v́ thế lại có thêm một bản đồ khác gọi là bản đồ 1799 của Dayot.
Le Brun bỏ đi, Olivier và Barisy bận công tác thu mua binh khí ở nước ngoài và Dayot th́ phải theo Nguyễn Ánh trong các trận đánh Gió Mùa, như vậy th́ công tác xây thành Gia Định từ năm 1792 đến 1799 nhất định là phải do Trần Văn Học đảm trách giám quản và năm 1795 Trần Văn Học đă vẽ bản đồ thành phố Sài G̣n dựa trên đồ án kiến trúc- Le Grand plan – do Le Brun thiết kế vào năm 1790. Có thể đồ án kiến trúc của Le Brun chỉ là kiểu mẫu prototype của một thành phố Sài G̣n thu nhỏ đặt trên bàn chứ không phải là một họa đồ được vẽ trên giấy trắng mực đen.
Thành phố thu nhỏ hay đồ án kiến trúc năm 1790 có thể đă bị Le Brun phá hủy khi đương sự bất măn tự ư bỏ đi mà cũng có thể đă bị dân phu thầy thợ đắp thành v́ bị lao dịch khổ cực, bất măn đă nổi loạn đập phá đồ án nguyên thủy của Le Brun: một tác giả người Pháp là Jean Bouchot viết một bài có tựa đề là Saigon sous la domination cambodgienne et annamite, đăng trên tập chí Bulletin de la Société des Études Indochinoises, 1926 có cho biết rằng: "Đông đảo dân chúng và quan binh đă nổi dậy phản đối việc xây thành Gia Định".
Từ những sự truy cứu kể trên, người ta có thể suy diễn một cách dè dặt rằng bản đồ thành phố Sài G̣n đă do một người Việt Nam ở miền Nam là Trần Văn Học lần đầu tiên vẽ ra vào năm 1795, được J.M Dayot bổ túc vào năm 1799 và lại được Trần Văn Học trao chuốt, bổ túc và vẽ lại vào năm 1815 với nhiều chi tiết được ghi chú rơ ràng hơn, chính xác hơn.
Theo sự mô tả của GĐTTC th́ từ 1790 đến 1801, các cơ cấu kiến trúc của thành Quy gồm có: các ṿng thành bao bọc h́nh hoa sen; trong thành có Thái Miếu (P), sở hành tại (A) (chỗ để Nguyễn vương cư trú và làm việc), kho trữ tích (E), Cục Chế Tạo (F), các dăy nhà cho quân túc vệ (H), cột cờ 3 tầng (I), các hào lũy. Ngoài thành th́ đường ngơ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự. Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Ḥa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận. (Cần lưu ư rằng Thái Miếu được xây dựng vào năm 1796: xin đọc lại ở trang 1267 và 2 quan lộ chính yếu). Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
-Hướng Đông - Nam có cửa Tốn Thuận.
-Hướng Tây - Bắc có cửa Càn Khảm.
-Hướng Đông - Bắc có cửa Cấn Chỉ.
-Hướng Tây - Nam có cửa Khôn Hậu.
-Hướng chánh Đông có cửa Chấn Hanh.
-Hướng chánh Tây có cửa Đoài Duyệt.
-Hướng chánh Nam có cửa Ly Minh.
-Hướng chánh Bắc có cửa Khảm Hiểm.
Năm 1801, Thái miếu trong thành Quy bị tháo gở lấy vật liệu đưa ra thành Phú Xuân - Huế để dựng Thái Miếu ở đó.
Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh pḥng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh.
*Xin lưu ư: xin tham chiếu các bản đồ về thành Qui do NQS gửi lên DT ở phần trên.
Cũng nên lưu ư rằng, cách sắp xếp các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đài (tương ứng với các phương, hướng Đông Tây, Nam, Bắc, Đông-Bắc, Đông-Nam, Tây-Bắc, Tây-Nam) trong các sách bói toán của Việt Nam có thể không đồng nhất giống nhau mà cũng không giống với sự sắp xếp trên bát quái đồ của người Hoa. Hơn nữa, nạn tam sao thất bản, thêm vào, bớt ra đối với các thư tịch cũ khiến cho việc truy cứu rất khó khăn và chỉ đưa tới một cách vẽ suy diễn thành Quy không chính xác như trên.
Để định hướng vị trí của nhiều kiến trúc bên trong thành Quy, Trịnh Hoài Hoài Đức đă dùng tên của những con đường để làm điểm hướng dẫn: phía trước đường Cấn Chỉ - Đoài Duyệt, bên hữu đường Càn Nguyên - Khảm Hiểm . .v.v . . .Cách mô tả nầy của Trịnh Hoài Đức rất mơ hồ, rất khó cho người đọc suy định để vẽ ra một cách chính xác. Trên đây chỉ là một bản vẽ sơ phát theo sự suy diễn riêng của người viết bài nầy, cần có sự bổ túc, sửa đổi của những nhà biên soạn Sử Việt Nam trong tương lai.
Ghi Chú: (dùng cho h́nh vẽ bát quai đồ đă nêu lên ở kỳ trước)
A: Vương cung B: Hậu điện C: Thái tử điện E: Kho Trữ Tích
F: Cục Chế Tạo G: Trại xe trận H: Trại lính túc vệ P: Thái Miếu G: Cḥi canh
Trong bản họa đồ 1795 do Trần Văn Học vẽ lại từ đồ án xây cất "Grand Plan" 1790 của Le Brun có ghi chú hai kiến trúc số 2 gọi là Palais de la Reine -Vương hậu cung và kiến trúc số 4 gọi là Palais du Prince – Vương thái tử cung tương ứng với kiến trúc (B) và (C) trong sơ đồ thành Quy Các vị trí (B), (C) và (G) không thấy được kê ra trong Gia Định Thành Thông Chí nhưng sau năm 1801, Trịnh Hoài Đức có mô tả địa điểm các kiến trúc dùng làm các công thự cho quan tổng trấn, quan phó tổng trấn và quan hiệp trấn rất trùng hợp với 3 vị trí (B), (C) và (E) được vẽ ra trong sơ đồ thành Quy kể trên. Chúng tôi suy định rằng: trước năm 1801, vị trí (B) là vương hậu cung nhưng sau đó th́ được dùng làm dinh quan tổng trấn, và cũng tương tự như thế, cung vương thái tử (C) đựợc dùng làm dinh của quan phó tổng trấn, và (E) trước là kho trữ tích sau dùng làm dinh của quan hiệp trấn.
Riêng vị trí kiến trúc (G) th́ Trịnh Hoài Đức mô tả rằng sở sửa chữa súng và sở tạo tác thợ rèn đối diện với Cục Chế tạo (F). Có thể cơ sở (G) nầy trước năm 1801 đă được dự trù làm trại chứa xa giá của Nguyễn vương Phúc Ánh chăng?
Bên ngoài thành Quy theo GĐTTC th́ có những cơ sở như:
- Xưởng Chu sư hay xưởng thủy dài 3 dặm (nay là xưởng Ba Son), ở phía đông thành khoảng 1 dặm góc bờ sông Tân B́nh (nay là sông Sài G̣n) và sông B́nh Trị (nay là đầu rạch Thị Nghè).
- Xưởng nuôi dưỡng voi ở ngoài trại đất cửa Khảm Hiểm.
- Trường thuốc súng ở ngoài cửa Khôn Trinh (Khôn Hậu?) của thành, cách 2 dặm. Trường rộng 1 dặm, chung quanh rào bằng loại cây có gai.
- Khám đường nhà ngục ở ngoài trại đất cửa Khôn Trinh.
- Sứ quán ở bên hữu, phía trước cửa Ly Minh, cách thành 1 dặm.
- Năm 1813 đặt học đường ở nền cũ dinh đồn Điều Khiển.
- Kho bốn trấn. Ở nền cũ kho giản thảo, cách phía Nam thành 4 dặm rưỡi.
- Trường Diễn Vơ rộng 50 dặm. Ở phía tây nam cách thành 10 dặm.
- Đồn Giốc Ngư (Giác Ngư). Ở bờ Bắc sông Tân B́nh (sông Sài G̣n), cách thành 7 dặm thuộc địa giới trấn Biên Ḥa (ở về phía Thủ Thiêm khoảng đối diện với cầu Tân Thuận ngày nay).
- Đồn Thảo Câu. Ở bờ Nam sông Tân B́nh (sông Sài G̣n), cách thành 6 dặm, thuộc địa giới trấn Phiên An (ở vào khoảng vị trí của cầu Tân Thuận ngày nay).
Về vị trí của thành Quy so chiếu với các đường phố của Sài G̣n ngày nay th́ đa số các thư tịch cận đại và ngày nay của Việt Nam cũng như của ngoại quốc đều căn cứ vào sự mô tả của học giả Pétrus Trương Vĩnh Kư để suy đoán vị trí của Thành Quy. Trong sách Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, học giả Trương Vĩnh Kư viết như sau:
<< Saigon sous Gia Long. Ce fut en 1789 que Gia Long, après avoir repris Saigon, occupé jusqu'alors par les Tây Sơn, fit costruire la première citadelle, dont nous allons indiquer l'emplacement et les traces, sur le territoire de notre Saigon d'aujourd' hui.
L'année suivante, Gia Long fit construire sous la direction de M.Olivier, officier du génie, l'ancienne citadelle de Saigon.
Elle avait presque la forme octogone (plan imposé par Gia Long) avec huit portes suivant les Bát quái (huit casiers de divinations chinoises) représentant les quatre points cardinaux avec leurs subdivisions.
La citadelle, ainsi que ses fosses et ses ponts, était en grosses pierres de Biên Ḥa. La hauteur du mur était de quinze coudées annamites (5 mètres.20 centimètres).
Le centre, où se dressait le mât de pavillon, se trouve à peu près à la cathédrale actuelle. On y apercevait de très loin de très loin la cime d'un filao. Ell s' étendait: du sud au nord, de la rue Ma-Mahon jusqu'au mur de la citadelle détruite et répareé après en terre par les Français; et de l' est à l' ouest de la rue d' Espagne à la rue des Moïs.
A l'est, s'ouvraient les deux portes antérieures (của tiền). L'une qui s' appelait Gia Định môn, regardait le square et le canal du marché de Saigon; l' autre Phan Yên môn, se trouvait du côté de l'artillerie, sur une rue descendant le long du canal de Kinh Cây Cám.
La partie postérieure, à l' ouest, avait également deux portes Vọng Khuyết môn et Cộng Th́n môn, dans la direction du deuxième et du troisième pont de l' Avalanche (cầu Bông et cầu Xóm Kiệu).
La partie gauche au nord donnait, avec deux portes, Hoài lai môn, Phục viên môn, sur l' arroyo de l' Avalanche (premier pont).
Le côté droit de la citadelle, avec les prtes Định biên môn et Tuyên hóa môn, se trouve dans la rue Mac Mahon; ell donnaient: l' une sur la route stratégique, l' autre sur la route haute de Chợ lớn.
Elle fut occupée par Gia Long pendant vingt deux ans, pendant lesquels il allait tous les ans en expéditions contre les Tây Sơn, dans les saisons où la mousson étaiit favorable.
Enfin en 1801, Gia Long fixa sa résidence à Huế et fut maître de tout l' Annam, depuis le Tonkin jusqu' en Cochinchine. Ce fut Lê Văn Duyệt, le fameux vainqueur du port de Thị Nại (B́nh Định) qui fut nommé gouverneur général de la Basse-Cochinchine. Il résidait à Saigon. Sa résidence officielle se trouvait derrière le Hoàng Cung (Palais royal), aujourd' hui boulevard Norodom, à peu près au point où est situé l' évêché. Celle de sa femme @ était au palais du Gouvernement en dehors du rempart et du mur de la citadelle>>.
@ chữ sa femme : vợ của ông ta, ở đây có lẽ Trương Vĩnh Kư muốn nói là vợ của ông Tổng trấn kể từ sau thời Lê Văn Duyệt chứ không phải là vợ của hoạn quan tả quân Lê Văn Duyệt.
Tạm dịch:
<<Sài G̣n dưới thời Gia Long.
<<Vào năm 1789, sau khi lấy lại Sài G̣n do Tây Sơn chiếm đóng trước đó, Gia Long đă cho xây cất trấn thành đầu tiên mà chúng tôi (Trương Vĩnh Kư) sẽ chỉ cho thấy địa điểm và dấu tích trên lănh vực thành phố Sài G̣n của chúng ta hiện nay.
Năm kế tiếp (1790), Gia Long cho xây thành trấn cổ dưới sự cai quản của một sĩ quan công binh là ông Oliver.
Thành có dạng gần giống như một h́nh tám cạnh (kiểu đồ án xây cất nầy theo ư muốn của Gia Long) với 8 cửa thành theo mẫu của bát quái đồ (tám quẻ trong khoa tướng số của người Tàu tượng trưng cho 4 phương chính cùng với các hướng phụ )
Thành lũy cùng với bờ hào và cầu cống được xây bằng phiến đá lớn Biên Ḥa . Tường thành cao 15 thước An nam (khoảng 5m20).
Trung tâm của thành ở vào khoảng gần nhà thờ lớn hiện nay, nơi đó có một kỳ đài thẳng cao. Từ xa, người ta nh́n thấy một ngọn cây phi lao ở nơi đó. Thành trải rộng từ hướng Nam đến hướng Bắc, từ đường Mac Mahon (4) tới bức tường thành đă bị phá hủy mà người Pháp sau đó sửa lại bằng đất; và từ đông sang tây tức là từ đường d' Espagne đến đường Moï . (Xin lưu ư: đoạn nầy không hiểu ư của Trương Vĩnh Kư đề cập đến bức tường thành nào: tường thành Quy của Gia Long hay tường thành Phụng do Minh Mạng xây cất sau nầy? Chúng tôi suy định rằng ư của tác giả muốn chỉ bức tường của thành Phụng: sau biến cố Lê Văn Khôi, Minh Mạng phá hủy thành Quy và cho xây thành Phụng ở một vị trí mới không xa lắm đối với vị trí của thành Quy. Thành Phụng sau đó cũng bị quân Pháp thiêu hủy và dựng lại một bờ tường bằng đất trên vị trí một bức tường cũ của thành Phụng).
Ở phía Đông có hai cửa trước (cửa tiền), một gọi là Gia Định môn trông ra hướng công viên và con kinh của chợ Sài g̣n ; cửa kia là Phan Yên môn ở về phía trại Pháo binh , nằm trên một con đường chạy dọc theo con Kinh Cây Cám .
Mặt sau (của thành) ở hướng Tây cũng có 2 cửa Vọng khuyết môn và Cộng Th́n môn , ở vào khoảng cầu thứ hai và cầu thứ ba của con kinh Avalanche .
Hướng Bắc bên trái, có hai cửa Hoài Lai môn , Phục Viên môn nằm ở cạnh con kinh Avalanche (cầu thứ nhứt).
Phía tay mặt của thành th́ hai cửa Định Biên môn ) và Tuyên Hóa môn nằm trên đường Mac Mahon; một cửa ăn thông ra đường Chiến lược và cửa kia ăn thông ra đường Trên của vùng Chợ Lớn. Thành nầy thuộc quyền kiểm soát của Gia Long trong 22 năm trong khoảng thời gian mà Gia Long hằng năm đem quân đi đánh Tây Sơn vào mùa gió thổi thuận lợi.
Sau cùng, vào năm 1801, Gia Long quyết định cư trú ở Huế và làm chủ toàn cơi nước An Nam từ Bắc Kỳ đến Nam Kỳ. Lê Văn Duyệt, người tướng lừng danh trong trận chiến thắng ở cửa Thị Nại được cử làm tổng trấn Nam Kỳ. Ông trú đóng ở Sài G̣n. Dinh thự hành chánh (tức là nơi làm việc) của ông ở phía sau hoàng cung, ngày nay là đại lộ Norodom, gần nơi tọa lạc của ṭa giám mục. Tư thất của vợ quan tổng trấn (không phải vợ của Lê Văn Duyệt, phải chăng đây là tư dinh của tổng trấn Lê Văn Duyệt?) th́ nằm trong khuôn viên phủ thống đốc , ở bên ngoài hào lũy và tường thành >>.
Vùng Sài G̣n là Gia Định kinh đô từ 1790 đến 1801. Sau khi đánh đuổi vua Tây Sơn ra khỏi kinh thành Phú Xuân, chú Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long và lấy Huế làm kinh sư, khởi đầu một triều đại cai trị đất nước Đại Nam thống nhất dài rộng chưa từng có trong lịch sử nước ta kể từ khi lập quốc. Thăng Long bị xuống cấp trở thành Bắc Thành và Gia Định Kinh từ nay xuống cấp trở thành Gia Định Thành nhưng vẫn tiếp tục phát triển mọi mặt. Thành bát quái hay thành Qui xuống cấp và trở thành lỵ sở cho các quan chức cai trị của triều đ́nh như lưu trấn rồi tổng trấn; cấu trúc bên trong thành Gia Định cũng thay đổi tương ứng với các chức vụ của quan cai trị: năm 1801, sau khi thu phục kinh thành Phú Xuân, hoàng đế Gia Long tháo gở Thái Miếu trong thành Gia Định để chuyển ra Huế. Trong thành Gia Định, thời các tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn, Trịnh Hoài Đức xây cất thêm ṭa Vọng cung, Hành cung pḥng khi vua đến kinh lư đến ở, các công thự cho Tổng trấn, hiệp trấn hay phó tổng trấn.
Trong ṿng 30 năm từ 1802 đến 1832, Sài G̣n bao gồm cả Chợ Lớn là thủ phủ của Gia Định thành và hầu như trong suốt 30 năm, Sài G̣n được an b́nh và tiếp tục phát triễn cho đến lúc tổng trấn Lê Văn Duyệt qua đời vào tháng 7 năm Nhâm Th́n (1832). Trong khoảng thời gian nầy, có một số nguời ngoại quốc đă đặt chân đến Gia Định thành: năm 1819, một sĩ quan hải quân của nước Hoa Kỳ là John White tới thăm Sài G̣n và mô tả lại cảnh trí bên trong thành Gia Định như sau:
(c̣n tiếp)
Bookmarks