(Tiếp theo Bài 8)
III. Đại cương các điểm chính của 46 sách Cựu Ước
…..
4. Các Sách Ngôn Sứ, hay Tiên Tri:
…..
[42]. Sách Kha-ba-cúc (Habakkuk)
Trong phần giới thiệu sách Habakkuk, các dịch giả sách New American Bible Revised Edition 2011 của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ viết như sau:
“Habakkuk is the only prophet to devote his entire work to the question of the justice of God’s government of the world.”
Xin tạm dịch:
“Chỉ có ngôn sứ Kha-ba-cúc là vị tiên tri dành toàn bộ công việc của ḿnh cho câu hỏi về đức công chính của Thiên Chúa trong cách vận hành thế giới.”
Vấn nạn của ngôn sứ Kha-ba-cúc (Habakkuk) cũng là thắc mắc của dân Giu-đa lúc bấy giờ. Và cũng có thể là vấn nạn của chúng ta trong cuộc sống hiện nay.
Trong phần Dẫn Nhập Sách Kha-ba-cúc, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ viết:
“Những lời sấm này được gửi đến dân Giu-đa đang thắc mắc về đức công chính của Thiên Chúa. Họ không hiểu tại sao Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Đấng Chính Trực mà lại để dân ngoại tội lỗi xâm phạm Đền Thờ là nơi Người ngự, tàn sát dân riêng Người tuyển chọn”.
Ngôn sứ Kha-ba-cúc là ai mà dám hạch hỏi Thiên Chúa như vậy?
Ngôn sứ Kha-ba-cúc (Habakkuk), theo nhiều nhà chú giải Kinh Thánh, hoạt động ngôn sứ trong khoảng thế kỷ thứ 7 tCN, vào thời gian đế quốc Ba-by-lon (Neo-Babylonian Empire) của người Can-đê (Chaldean) hùng mạnh nhất. Cũng theo nhiều nhà chú giải Kinh Thánh, Kha-ba-cúc có gốc ở vương quốc Giu-đa (Judah) và sách Kha-ba-cúc (Kb) được hoàn tất vào khoảng 605-600 tCN, trước khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo (Nebuchadnezzar II, trị v́ 605–562 tCN) đánh chiếm và cướp phá Đền thờ ở Giê-ru-sa-lem năm 587 tCN.
Trong sách, Kha-ba-cúc đối thoại với Thiên Chúa về các thắc mắc của ông như tại sao kẻ xấu không bị trừng phạt, tại sao Thiên Chúa dùng kẻ hung dữ để trừng phạt người tốt hơn; Kha-ba-cúc nêu lên những lời chúc dữ cho dân Can-đê, kẻ áp bức và cuối cùng là lời Kha-ba-cúc cầu xin Đức Chúa can thiệp.
Sách được chia ra ba phần chính sau đây, (phần lớn dựa theo Introduction và Commentary trong bài viết về sách Habakkuk trong The New Jerome Biblical Commentary - 1st Edition, các trang 261-264.):
• Tên sách, (Kb 1,1).
I. Cuộc đối thoại giữa ngôn sứ Kha-ba-cúc và Thiên Chúa, (Kb 1,2-2,4):
1. Cuộc đối thoại lần thứ nhất, (Kb 1,2-11):
a. Lời phàn nàn của ngôn sứ: Không c̣n công lư bên trong Giu-đa, (Kb 1,2-4)
b. Thiên Chúa trả lời Kha-ba-cúc: Người Can-đê (Chaldean) sẽ là dụng cụ để sửa phạt của Thiên Chúa*, (Kb 1,5-11).
2. Cuộc đối thoại lần thứ hai, (Kb 1,12-2,5):
a.Lời phàn nàn của ngôn sứ: Làm sao Thiên Chúa chí công lại dùng kẻ dữ hại người lành, (Kb 1,12-17)
b.Thiên Chúa trả lời Kha-ba-cúc: Người lành sẽ sống nhờ ḷng trung tín,
(Kb 2,4): “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngă gục, c̣n người công chính th́ sẽ được sống, nhờ ḷng thành tín của ḿnh.” - (Kb 2,1-5**).
II. Năm lời nguyền rủa, chúc dữ cho bạo quyền Can-đê, kẻ áp bức, (Kb 2,5-20):
1. Lời mở đầu, (Kb 2,5-6a).
2. Lời nguyền rủa thứ nhất: chống lại sự tham lam tiền bạc (Greed), (Kb 2,6b-8).
3. Lời nguyền rủa thứ hai: chống lại tính kiêu căng, ngạo mạn (Presumption), (Kb 2,9-11).
4. Lời nguyền rủa thứ ba: chống lại tính khoác lác (Vainglory) và bạo lực (Violence), (Kb 2,12-14).
5. Lời nguyền rủa thứ tư: chống lại tội làm suy thoái phẩm giá con người (Degradation of Human Dignity), (Kb 2,15-17).
6. Lời nguyền rủa thứ năm: chống lại sự tôn thờ ngẫu tượng (Idolatry), (Kb 2,18-20).
III. Bài Thánh Ca (Canticle) của ngôn sứ Kha-ba-cúc, (Kb 3,1-19):
1. Tựa đề: Lời cầu nguyện của ngôn sứ Kha-ba-cúc, theo điệu Ai ca (Shigyonot), (Kb 3,1).
2. Giới thiệu: Xin Đức Chúa can thiệp, cho tái diễn các công tŕnh trong quá khứ, (Kb 3,2).
3. Sự xuất hiện của Đức Chúa để cứu dân của Người, (Kb 3,3-15):
a. Đức Chúa xuất hiện và phản ứng của các tạo vật, (Kb 3,3-7).
b. V́ con dân của ḿnh, Đức Chúa giao chiến với các lực của Hổn Mang như sông, biển, sấm sét, (Kb 3,8-15):
• Chuẩn bị cho cuộc chiến, (Kb 3,8-9).
• Phản ứng của thiên nhiên, (Kb 3,10-11).
• Gánh nặng của cuộc chiến, (Kb 3,12-13).
• Đức Chúa Chiến thắng, (Kb 3,14-15).
4. Kết luận: Ḷng tin nơi Thiên Chúa, (Kb 3,16-19):
a. Nỗi lo lắng và sợ hăi của ngôn sứ, (Kb 3,16-17).
b. Đức Chúa đầy yêu thương và công b́nh -
(Kb 3,18): “Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng v́ ĐỨC CHÚA,
hỷ hoan v́ Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”- (Kb 3,18-19).
(C̣n tiếp)
*
**
Chú thích:[*]: Chú giải các câu (Hb1:5–7) trong bản dịch New American Bible Revised Edition của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ như sau:
“*[1:5–7] Habakkuk interprets the Babylonian defeat of Egypt at Carchemish (605 B.C.) as the answer to his complaint: the Lord will send the Chaldean empire against Judah as punishment for their sins.”
Xin tạm dịch: “Kha-ba-cúc giải thích việc Babylon đánh bại Ai Cập (Egypt) ở Các-cơ-mít (Carchemish) năm 605 tCN là câu Thiên Chúa trả lời khiếu nại của ông: Thiên Chúa sẽ gửi người của đế quốc Can-đê (Chaldean) đến trừng phạt Giu-đa như là h́nh phạt cho tội lỗi của họ”, (trong các năm 597 tCN và 587 tCN).
[**]: Chú giải các câu (Kb 2,1-4), hai anh em Linh mục Bernard Hurault và Louis Hurault viết và được Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch lại trong sách “Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước - Lời Chúa Cho Mọi Người”, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2012, trang 1542 như sau:
“Câu trả lời của Đức Chúa: Đến một ngày, người ta sẽ thấy rơ người tốt lành và kẻ xấu không được đối xử như nhau. Những ai luôn trung thành sẽ được cứu thoát.”
Bản văn sách Kha-ba-cúc:
Sách Kha-ba-cúc theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
Sách Kha-ba-cúc hay Habacuc theo bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Sách Kha-ba-cúc hay Habakkuk theo bản dịch New American Bible Revised Edition của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.
Vương quốc Giu-đa thời ngôn sứ Kha-ba-cúc, trước khi bị đế quốc Chaldean đánh chiếm
Đế quốc Chaldean cũng là đế quốc Babylon, v́ đế quốc Babylon lúc đầu là do những người thuộc bộ lạc
Chaldea gây dựng nên.
Đế quốc Tân-Ba-by-lon (Can-đê) [Neo-Babylon (Chaldean) Empire], màu vàng, trong các năm (626-539 tCN).
The Neo-Babylon (
Chaldean) Empire: (626-539 BCE)
Đế quốc Tân-Ba-by-lon (Can-đê) [Neo-Babylon (Chaldean) Empire], màu vàng nhạt, khoảng năm 600 tCN.
Đế quốc Ba-by-lon (Babylon Empire), màu gạch, khoảng năm 1750 tCN và đế quốc Tân-Ba-by-lon (Can-đê) [Neo-Babylon (Chaldean) Empire], màu vàng nhạt, khoảng năm 600 tCN, sau khi đánh chiếm Giu-đa.
Tượng ngôn sứ Kha-ba-cúc
"Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, c̣n Ngài cứ đứng nh́n cảnh khổ đau?"
Lời phàn nàn thứ nhất của ngôn sứ: Sự công chính suy thoái
“2 Cho đến bao giờ, lạy ĐỨC CHÚA,
con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe,
con la lên: “Bạo tàn !” mà Ngài không cứu vớt? 3 Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài,
c̣n Ngài cứ đứng nh́n cảnh khổ đau?
Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn,
chỗ nào cũng thấy tranh chấp và căi cọ. 4 V́ thế, Luật không được tuân giữ,
công lư chẳng c̣n thấy xuất hiện,
v́ kẻ gian ác bủa vây người công chính
nên chỉ c̣n thứ công lư vạy ṿ.” (Kb 1,2-4)
"Người công chính th́ sẽ được sống, nhờ ḷng thành tín của ḿnh"
“Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngă gục, c̣n người công chính th́ sẽ được sống, nhờ ḷng thành tín của ḿnh.” (Kb 2,4)
Bookmarks