Nữ Sĩ Tương Phố
Tương Phố tên thật: Đỗ Thị Đàm (1896 - 1973), là nhà thơ nữ Việt Nam, thuộc thế hệ văn học 1913 - 1932.
Tên tuổi của Tương Phố gắn liền với phong trào "Nữ lưu và văn học", và bà đă có những tác phẩm được đánh giá cao như "Giọt lệ thu" (văn xuôi có xen thơ, 1923), "Tái tiếu sầu ngâm" (thơ, 1930), "Khúc thu hận" (thơ, 1931)...
Cuộc đời.
Tương Phố sinh tại đồn Đầm, tỉnh Bắc Giang, nhưng nguyên quán của bà ở xă Bối Khê, tổng Cẩm Khê, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Bà là con của ông Đỗ Duy Phiên và bà Nguyễn Thị Yểm. Vừa lớn lên, bà ra Hà Nội học ở trường Nữ hộ sinh, sau bỏ dở, để theo học Trường Nữ Sư phạm, nhưng khi tốt nghiệp, bà không đi dạy. Bà có một cô em gái tên là Đỗ Song Khê, chính là người đă viết bài "Muốn ăn rau sắng chùa Hương" dưới bút danh Đỗ Tang Nữ nhắn gửi thi sĩ Tản Đà năm 1923.
Trong khoảng thời gian ở Hà Nội, bà gặp Thái Văn Du (em ruột Thượng thư Thái Văn Toản), một sinh viên trường thuốc, rồi họ thành vợ chồng năm 1915.
Một năm sau (1916), Tương Phố sinh con trai là Thái Văn Châu, th́ chồng bà (khi ấy đă là Y sĩ Đông Dương) phải qua Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh Pháp-Đức (1914-1918). Khoảng cuối năm 1919, chồng bà bị bệnh phổi phải trở về Huế, rồi mất vào mùa thu năm 1920 (ngày 25 tháng 7) khi bà c̣n đang học ở trường Nữ Sư phạm Hà Nội.
Tương Phố thuộc hàng nữ lưu tân tiến những năm 20 của thế kỷ 20. Bà bắt đầu làm thơ vào khoảng những năm ông Du phải đi xa, và số thơ này đều có chủ đề chung là nỗi nhớ mong chồng.
Sau khi chồng mất, năm 1923 (hoặc 1922) bà viết một bài văn xuôi có xen 8 đoạn thơ lục bát và song thất lục bát, mang tên là "Giọt lệ thu", được đăng báo năm 1928. Đây là tác phẩm gây được tiếng vang trên văn đàn thời bấy giờ và cũng đă khơi ḍng văn chương lăng mạn sầu năo trong văn học Việt Nam hiện đại. Bởi nội dung bài là tiếng khóc thê thiết của một người vợ trẻ (Tương Phố) chờ chồng suốt ba năm, nhưng khi chồng (Thái Văn Du) về tới Huế, chẳng bao lâu th́ mất. Đầu những năm 30, bài văn này đă được một nữ dịch giả người Pháp dịch ra tiếng Pháp, được một số nhà phê b́nh Pháp chú ư.
Sau đó bà tiếp tục viết những bài văn thơ cùng loại, đăng báo Nam Phong, về sau được tập hợp thành các tập: Giọt lệ thu, Mưa gió sông Tương, Trúc mai... Bà cũng từng làm thơ xướng họa với nhà chí sĩ Phan Bội Châu, thi sĩ Đông Hồ.
Năm Ất Sửu (1925), bà tái giá với Tuần phủ Phạm Khắc Khánh ở Phúc Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
Sau năm 1945, Tương Phố vào sống ở Nha Trang rồi mất ở Đà Lạt vào ngày 8 tháng 11 năm 1973, thọ 77 tuổi. Bà được an táng tại đồi Tương Sơn, TP. Đà Lạt. Hiện nay, ở thành phố cao nguyên này có một đường phố mang tên bà.
Tác phẩm
Giọt lệ thu
Bao giờ quên được mối t́nh xưa
Sinh tử c̣n đau măi đến giờ
Giấc mộng t́m nhau t́m chẳng thấy
Mênh mang biển hận, hận không bờ.
Trời thu ảm đạm một mầu
Gió thu hiu hắt thêm rầu ḷng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
T́nh thu ai để duyên em bẽ bàng.
Sầu thu nặng lệ thu đầy
V́ lau san sát hơi may lạnh lùng
Ngổn ngang trăm mối bên ḷng,
Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm.
(1923) Khóc thu hận(Trích)
Chàng đi buổi thu sơ năm ấy,
Thu năm về, nào thấy chàng về;
Chàng đi, đi chẳng trở về,
Thu về, thiếp những tê mê dạ sầu!
Làng mây nước biết đâu nhắn gửi,
Khoảnh đất trời để măi nhớ thương;
V́ chàng, chín khúc đoạn trường,
V́ chàng, trăm mối sầu vương tháng ngày.
Thu xưa khóc, thu này lại khóc,
Năm năm thu, mảng khóc mà già;
Người xưa khuất, cảnh cũ qua,
Non buồn nước lạnh, cỏ hoa tiêu điều.
Nỗi ly hận mây chiều gió sớm,
T́nh tương tư khoảng vắng canh trường;
Gió mưa tâm sự thê lương,
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây!
...
(1931. Đăng trên tạp chí Nam Phong số 164-tháng 7 năm 1931)[15].
Tái tiếu sầu ngâm
Trích:
Đàn xưa, ai dứt dây đàn?
Đứt dây từ đấy, chứa chan mạch sầu!
Ngày lạnh chi dở dang nhau,
Tuổi xanh nghi buổi bạc đầu mà thương.
Vóc mai gầy g̣ tuyệt sương,
Mấy thu chiếc bách cánh buồm bơ vơ.
E dè buổi gió chiều mưa,
Con côi, mẹ góa, dễ nhờ nương đâu?
Bước đi, âu cũng thương nhau,
Dừng chân đứng lại cơ mầu dở dang.
Dây loan chắp nối đoạn trường,
Ngâm câu tái tiếu hai hàng lệ sa!
Dễ âu duyên mới du mà,
C̣n t́nh chăng nữa, cũng là lụy thôi.
Trăm năm danh tiết lỡ rồi,
Dẫu thân chung đỉnh cũng đời bỏ đi.
Đào tơ sen ngó từ khi,
Ngây thơ đôi lứa ngờ chi nỗi này.
Uyên ương chia rẽ bấy nay,
Lạc bầy chắp cánh, thẹn ngày giao hoan.
T́nh xưa lai láng khôn hàn,
Bến xưa ngoảnh lại muôn vàn thương tâm!.
... Thuyền ai, năo khách ôm cầm,
Dây tơ d́u dặt, âm thầm tiếng tơ.
Khúc thành, lệ ứa như mưa,
Cảm xoang điệu cũ bao giờ cho thôi.
Thân này, đôi dẫu đủ đôi,
Ḷng này, riêng vẫn lẻ loi tấm ḷng!
Theo duyên ân ái đèo ḅng,
Trăm năm vẫn một khúc ḷng bi thương.
Nghĩ vui đuốc tuệ hoa đàm,
Cha già, con dạy dễ làm sao đây?
Chàng từ cười hạc chơi mây,
Bụi hồng, nào biết những ngày gió mưa.
Đau ḷng thiếp, nỗi sau xưa,
Cửa nhà, non nước như tơ rối bời.
Ḷng nào ḷng tưởng vui cười,
Cũng thân nghiêng ngửa với trời đa đoan.
Nỗi đời nếm hết tân toan,
Khôn ngoan chi mấy mà oan trái nhiều!
Nước non duyên nợ nghĩ liều,
Cầm như con trẻ chơi diều đă xong.
Nỗi riêng lệ ứa đôi ḍng,
Trăm năm để một tấm ḷng từ đây![16]
***
(1925. Đăng trên tạp chí Nam Phong số 147, tháng 2 năm 1930
Nguồn : Bách khoa toàn thư, Wikipedia.
Bookmarks