(Tiếp theo Sách Khải Huyền)
B. Bảy tiếng kèn (Trumpets), (Kh 8, 2 - 11, 19):
1. Bảy thiên thần đứng chầu trước nhan Thiên Chúa lănh nhận bảy chiếc kèn để thổi loan báo Thiên Chúa ngự đến xét xử mọi người, (Kh 8, 2).
2. Lời cầu nguyện của toàn thể dân thánh, hay những người tử đạo, (Kh 8, 3-5).
3. Bảy thiên thần cầm bảy kèn sửa soạn thổi, (Kh 8, 6).
4. Bốn tiếng kèn đầu tiên mô tả cảnh tượng ngày cánh chung (Christian Eschatology), (Kh 8, 7-13):
a) Tiếng kèn của thiên thần thứ nhất nổi lên: “Mưa đá và lửa, hoà với máu, trút xuống đất. Một phần ba mặt đất bị thiêu huỷ, một phần ba cây cối bị thiêu huỷ, và tất cả cỏ xanh bị thiêu huỷ”
b) Tiếng kèn của thiên thần thứ hai nổi lên: “Có cái ǵ như quả núi lớn rực lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển hoá thành máu.9 Một phần ba các loài thụ tạo sống dưới biển bị chết, và một phần ba tàu bè bị phá huỷ”.
c) Tiếng kèn của thiên thần thứ ba nổi lên: “Từ trời rơi xuống một ngôi sao lớn cháy như đuốc. Sao rơi xuống một phần ba sông ng̣i và xuống các nguồn nước.11 Tên ngôi sao là Ngải Đắng. Một phần ba nước hoá thành ngải đắng, và có nhiều người chết v́ thứ nước đă hoá đắng ấy”.
d) Tiếng kèn của thiên thần thứ tư nổi lên: “Một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng và một phần ba các ngôi sao bị đánh trúng, khiến chúng tối đi một phần ba, ngày mất sáng một phần ba và đêm cũng thế”.
5. Tiếng kèn thứ năm, (Kh 9, 1-12):
a. Cái Khốn thứ nhất (The First Woe): “1Tiếng kèn của thiên thần thứ năm nổi lên. Tôi thấy một ngôi sao từ trời sa xuống đất; ngôi sao ấy nhận được ch́a khoá của giếng vực thẳm.
b. 2 Ngôi sao mở giếng vực thẳm, và một đám khói từ giếng bốc lên, giống như khói một cái ḷ lớn, khiến mặt trời và không khí tối sầm lại v́ khói của giếng ấy”.
c. 3 Từ đám khói ấy, châu chấu bay ra khắp mặt đất. Chúng nhận được quyền phép như quyền phép của bọ cạp trên mặt đất.4 Chúng bị cấm không được phá hại cỏ trên mặt đất, mọi loài xanh tươi và mọi cây cối, mà chỉ được phá hại những người không mang ấn của Thiên Chúa trên trán.
d. 7 H́nh dạng châu chấu giống như ngựa sẵn sàng vào trận; trên đầu chúng có cái ǵ như thể triều thiên bằng vàng, c̣n mặt chúng th́ như mặt người.8Chúng có tóc như tóc đàn bà, có răng tựa răng sư tử.9 Ngực chúng khác nào áo giáp sắt, và tiếng cánh chúng đập, như tiếng xe nhiều ngựa kéo đang xông vào trận.”
6. Tiếng kèn thứ sáu, (Kh 9, 13-21):
a. Cái Khốn thứ hai (The second Woe): “Tiếng kèn của thiên thần thứ sáu nổi lên. Tôi nghe có một tiếng phát ra từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng ở trước nhan Thiên Chúa.
b. 14 Tiếng ấy bảo thiên thần thứ sáu đang cầm kèn: “Hăy thả bốn vị thiên thần đang bị trói ở sông cả Êu-phơ-rát (Euphrates).”15 Bốn thiên thần được thả ra, các vị săn sàng để đúng vào năm, tháng, ngày, giờ ấy th́ giết một phần ba loài người.16 Số các đạo quân là hai trăm triệu kỵ binh ; tôi được nghe biết con số ấy.
c. Một phần ba loài người bị ba tai ương ấy giết, tức là lửa, khói và diêm sinh từ mơm ngựa phun ra.”
7. Hai thị kiến xen kẻ, (Kh 10, 1-11,13):
a. Thiên Thần trao cho Gio-an (John) cuốn sách nhỏ và bảo “Cầm lấy mà nuốt đi”, (Kh 10, 1-11).
b. Gio-an được lệnh đo Đền Thờ Thiên Chúa và bàn thờ cùng với những người đang thờ phượng trong đó; Hai chứng nhân: ông Mô-sê (Moses) và ông Ê-li-a (Elijah) (Kh 11, 1-13).
8. Tiếng kèn thứ bảy, (Kh 11, 14-19): Đức Ki-tô quang lâm chấm dứt lịch sử nhân loại, hoàn thành ơn cứu độ: “14 Cái Khốn thứ hai đă qua, th́ này cái Khốn thứ ba lại sắp đến.15 Tiếng kèn của thiên thần thứ bảy nổi lên. Trên trời có những tiếng lớn nói rằng: “Vương quyền trên thế gian nay đă thuộc về Chúa chúng ta và Đức Ki-tô của Người; Người sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.16 Hai mươi bốn vị Kỳ Mục ngồi trên ngai trước nhan Thiên Chúa, liền sấp mặt xuống, phủ phục mà thờ lạy Thiên Chúa. ”. (Kh 11, 14-19).
C. Các thị kiến xen kẻ, (Kh 12, 1-15, 8):
1. Người Phụ nữ (tượng trưng dân Thiên Chúa hay Hội Thánh hay Đức Ma-ri-a) và Con Măng Xà (tượng trưng Xa-tan), (Kh 12, 1-18):
a. “Con Măng Xà đứng chực săn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. (Kh 12, 1-6).
b. Bấy giờ, có giao chiến trên trời: “thiên thần Mi-ca-en (Michael) và các thiên thần của người giao chiến với Con Măng Xà. Con Măng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến”., (Kh 12, 7-12).
c. Khi thấy ḿnh đă bị tống xuống đất, “Con Măng Xà cố gắng làm hại người Phụ Nữ, nhưng Bà được Thiên Chúa bảo vệ. Nó trả thù, tấn công con cái Bà, gây chiến với họ”. (Kh 12, 13-18).
2. Hai con thú, (Kh 13, 1-18):
a. Con Thú thứ nhất tiêu biểu cho hoàng đế Rô-ma và việc tôn thờ hoàng đế Rô-ma; (các Con Thú là công cụ của Xa-tan), (Kh 13, 1-10).
b. Con Thú thứ hai thúc đẩy các dân cư trên mặt đất thờ lạy Con Thú thứ nhất, (Kh 13, 11-18).
3. Con Chiên và cuộc phán xét, (Kh 14,1-15,8):
a. Những người tháp tùng Con Chiên: là dân mới, những chứng nhân tử đạo, (Kh 14, 1-5).
b. Ba thiên thần báo giờ phán xét Con Thú và những kẻ theo nó, (Kh 14, 6-13).
Mùa gặt cánh chung của Trái Đất (Earth), hay cảnh phán xét người lành kẻ dữ, (Kh 14, 14-20).
c. Bài ca cũ của ông Mô-sê (Moses) hát ca mừng chiến thắng thoát ách nô lệ Ai-cập và bài ca mới của Con Chiên được các chứng nhân hát ca tụng Đấng đă cứu thoát họ, (Kh 15, 1-4).
d. Một trong bốn Con Vật đưa cho bảy thiên thần bảy chén vàng đựng đầy cơn lôi đ́nh của Thiên Chúa, sẽ được dùng để trừng phạt Con Thú và những kẻ đi theo nó, (Kh 15, 5-8).
D. Bảy chén tai ương của Thiên Chúa (God’s fury) được bảy thiên thần trút xuống thế gian, (Kh 16, 1-21):
1. “Vị thứ nhất đi trút chén của ḿnh xuống mặt đất. Những người mang dấu thích của Con Thú và thờ lạy tượng nó liền bị một ung nhọt ác tính và đau đớn.”
2. “Vị thứ hai trút chén của ḿnh xuống biển. Biển liền hoá ra máu như máu người chết, và mọi sinh vật dưới biển đều chết.”
3. “Vị thứ ba trút chén của ḿnh xuống sông ng̣i và các nguồn nước. Nước liền hoá ra máu.”
4. “Vị thứ tư trút chén của ḿnh xuống mặt trời. Mặt trời liền được phép dùng lửa mà thiêu đốt người ta.”
5. “Vị thứ năm trút chén của ḿnh xuống ngai Con Thú. Vương quốc của nó liền ra tối tăm; người ta cắn lưỡi v́ đau đớn; họ nói phạm đến Thiên Chúa trên trời, v́ quá đau đớn và bị ung nhọt, nhưng họ không chịu hối cải mà từ bỏ các việc ḿnh làm.”
6. “Vị thứ sáu trút chén của ḿnh xuống sông cả Êu-phơ-rát. Nước sông ấy liền khô cạn, để dọn đường cho các vua từ phương đông tới.” Thần khí của ma quỷ làm những dấu lạ và đi đến với vua chúa trên khắp cả thiên hạ, nhằm tập hợp họ lại để giao chiến trong ngày lớn lao của Thiên Chúa Toàn Năng trong trận Hác-mơ-ghít-đô (Armageddon).
7. “Vị thứ bảy trút chén của ḿnh xuống không khí. Từ Đền Thờ, từ ngai liền có tiếng lớn phát ra: “Xong cả rồi !” Lúc ấy có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét và động đất lớn như chưa hề có động đất lớn như vậy bao giờ, từ khi con người xuất hiện trên mặt đất. Thành vĩ đại vỡ ra làm ba phần và các thành thị của các nước bị sụp đổ.”
V. Ba-by-lon (Babylon) bị trừng phạt và các quốc gia ngoại giáo bị tiêu diệt, (Kh 17, 1-20, 15)[/B]:
A. Ba-by-lon, tức đế quốc Rô-ma (Roman Empire), bị trừng phạt, (Kh 17, 1-19, 10):
1. Rô-ma: Con Điếm khét tiếng, (Kh 17, 1-6).
2. Ư nghĩa tượng trưng của Con Thú (Beast) và Con Điếm (Harlot), (Kh 17, 7-18).
3. Ba-by-lon, tức Rô-ma, sụp đổ, (Kh 18, 1-24):
a. Thiên thần báo tin Ba-by-lon sụp đổ, (Kh 18, 1-3).
b. Dân Thiên Chúa phải lánh, ra khỏi Rô-ma, (Kh 18, 4-8).
c. Than khóc Ba-by-lon, tức Rô-ma, (Kh 18, 9-24).
4. Bài ca khải hoàn trên thiên quốc, sau khi Rô-ma bị sụp đổ, (Kh 19, 1-10):
a. Đoàn chứng nhân, các kỳ mục và bốn con vật hát mừng ngợi khen Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, (Kh 19, 1-4)
b. Toàn thể dân thánh cất tiếng tung hô v́ được dự tiệc cưới Con Chiên, (Kh 19, 5-10).
B. Các dân ngoại bị tiêu diệt, (Kh 19, 11 - 20,15):
1. Cuộc chiến cánh chung thứ nhất: Con Thú (Beast) và tên ngôn sứ giả (False Prophet) bị “Vua của các Vua” bắt, bị quăng sống vào hồ lửa có diêm sinh đang cháy ngùn ngụt, (Kh 19, 11-21).
2. Triều đại một ngàn năm, (Kh 20, 1-8):
a. Triều đại “Vua của các Vua” nhốt giam Xa-tan trong vực thẳm một ngàn năm, (Kh 20, 1-6).
b. Hết một ngàn năm ấy, Xa-tan sẽ được thả ra khỏi ngục và tập hợp đồ đệ, Gốc và Magốc (Gog and Magog), để tái giao chiến, (Kh 20, 7-8).
3. Cuộc chiến lần thứ hai trước ngày cánh chung: Ma quỷ lại bị “Vua của các Vua” đánh bại và bị quăng vào hồ lửa và diêm sinh đời đời kiếp kiếp, (Kh 20, 9-10).
4. Cuộc phán xét chung: “Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đă làm. Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh (Book of life) th́ bị quăng vào hồ lửa”, (Kh 20, 11-15).
VI. Giê-ru-sa-lem tương lai, (Kh 21, 1-22, 5):
1. Trời mới (New Heaven) đất mới (New Earth) sẽ thay cho trời cũ, đất cũ. “Sẽ không c̣n sự chết; cũng chẳng c̣n tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, v́ những điều cũ đă biến mất”. (Kh 21, 1-8).
2. Giê-ru-sa-lem mới (New Jerusalem), hay Hội Thánh trên trời và là vương quốc đích thật của Thiên Chúa. (Kh 21, 9-27).
3. Nước trường sinh và cây sự sống, (Kh 22,1-5).
VII. Phần kết, (Kh 22, 6-21):
1. “Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến ! Phúc thay kẻ tuân giữ các sấm ngôn trong sách này!”, (Kh 22, 6-11).
2. Sứ điệp cho đời sống đức tin: “14 Phúc thay những kẻ giặt sạch áo ḿnh, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành!” (Kh 22, 12-15).
3. Lệnh truyền của Đức Giê-su: “Ta là Giê-su, Ta đă sai thiên thần của Ta đến với các ngươi để làm chứng về những điều trên đây, liên quan đến các Hội Thánh. Chính Ta là Chồi Non (Root) và Ḍng Dơi (Offspring) Đa-vít, là Sao Mai (Morning star) sáng ngời.” (Kh 22, 16).
4. Xin Đức Giê-su ngự đến, (Kh 22, 17-20).
5. Lời chúc cuối thư: “Chúc mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giê-su”, (Kh 22, 21).
*
**
Bản văn sách Khải Huyền:
Sách Khải Huyền theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
Sách Khải Huyền hay Khải Huyền Của Yoan theo bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Sách Khải Huyền hay Revelation theo bản dịch New American Bible Revised Edition của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.
Thánh Gio-an, tác giả sách Khải Huyền, trên đảo Patmos:
Đảo Patmos thuộc Hy-lạp (Greece) trên bản đồ Google hiện nay:
Đảo Patmos là nơi tác giả sách Khải Huyền bị đế quốc La-mă giam cầm và cũng là nơi sách Khải Huyền được viết.
Các tỉnh của đế quốc La-mă, có nền màu hồng, vào năm 70 sCN:
Bảy Hội Thánh và đảo Patmos theo sách Khải Huyền:
Bảy Hội Thánh ở A-xi-a (Asia) ở phía tây vùng Tiểu Á (Asia Minor, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) gồm: Ephesus (Ê-phê-xô), Smyrna (Xi-miếc-na), Pergamum (Péc-ga-mô), Thyatira (Thy-a-ti-ra), Sardis (Xác-đê), Philadelphia (Phi-la-đen-phi-a) và Laodicea (Lao-đi-ki-a).
Bảy Hội Thánh và đảo Patmos theo sách Khải Huyền, trên bản đồ Google hiện nay:
(Hết Bài 8)
Bookmarks