(tiếp theo)
Làm sao mấy cô gái nầy có thể tắm ngoài suối như đám nam giới! Đây đâu phải là một băi biển đông người mặc quần áo tắm và nhất là có một gă lính đi theo nữa. Dễ ǵ mà đám đàm bà-con gái tự nhiên được và đă có người dùng dằng nửa muốn đi nửa lại không. Nhưng nếu không đi, phải chờ ngày mai v́ nội quy chỉ cho phép ngày tắm một lần.
- Đám lính ra lệnh đi tắm lè lẹ ḱa mấy bà mấy cô, làm ơn nhanh chân lên. Ông Thăng đi tới đi lui thúc giục
Trong căn nhà lều, ông Thăng ông Phát và Tám Kiệt đă sắp xếp lại chỗ ở cho cả bọn. Nam giới cả thẩy là 64 người lớn và 8 bé trai, cứ chỗ cha con, anh em ở gần bên nhau. Căn nhà lều chúng tôi ở nó lớn như một cái nhà nho nhỏ, sườn là các thân gỗ tṛn nối với nhau bằng khoen sắt. Nóc phủ vải bạt nhà binh, vách cũng vậy và được kéo căng bằng các dây cố định ở các cọc. Những năm 1972, 1973 ở vùng Củ Chi-Tây Ninh, chính quyền miền Nam VNCH đă dựng hàng loạt loại nhà lều này cho Việt kiều tránh nạn cáp Duôn hồi hương từ Kampuchia về. Một nhà lều, chỗ tạm trú cho hai hoặc ba gia đ́nh nhưng ở đây với 72 người, chúng tôi đành phải vạch 4 phần trên sàn chia chỗ cho cả bọn. Mỗi phần là chỗ nằm của 18 người. Để tiện đi lại, một khoảng trống nhỏ rộng 40 cm h́nh chữ thập nằm chính giữa bốn phần. " Bên lều nữ giới cũng phải chia như vậy khi họ đi tắm về ", ông Phát nói. Chỗ tôi và Đỉnh ở sát bên nhau. Tấm bạt nền lều mới toanh thơm mùi thuốc nhuộm lót trên các ván gỗ ép bằng phẳng. Tám Kiệt kể vợ y nói hôm qua vào sớm dọn dẹp hai nhà lều, đă nhặt được các giấy báo cũ tiếng Việt c̣n sót lại chứng tỏ có thuyền nhân từng tạm trú ở đây. Hai dăy bàn ghế gần cổng trại ước chừng chỉ ngồi được độ 60 người, như vậy trại này dành cho những thuyền vượt biên nhỏ.
Lần lượt vài phụ nữ đi tắm về trong tay cầm bộ quần áo vừa giặt. Ai cũng trông tươi tắn trong bộ quần áo sạch sẽ và có người lại cầm cả chùm trái chôm chôm vàng tươi. Chôm chôm này ở đâu ra? Một bà đưa vài quả chôm chôm cho thằng bé con trong nhà lều. Hỏi, bà ta trả lời: " Cây chôm chôm gần chỗ tắm trái nhiều lắm nhưng c̣n xanh, tui bứt được ít trái chín ở cành thấp thôi ".
Cây chôm chôm gần chỗ tắm! Như vậy, đám nữ giới chúng tôi đă tắm ở một chỗ khác của con suối.
Đến trưa, đám lính thổi c̣i tập hợp khi có một xe nhà binh vào trại. Xe chở cơm cho chúng tôi cùng đám lính gác. Hai thùng nước nóng được chuyền xuống cùng các thùng chứa cơm, canh. Như buổi sáng, trẻ em đứng trước rồi phụ nữ và sau cùng đám nam giới. 3 người lính chia cơm trắng, cá, canh rau đựng trong dĩa và tô giấy cứng. Chỉ có muỗng bằng nhựa đúc. Hai dăy bàn ngồi chật chỗ, người đến sau đành đứng hoặc chồm hổm trên đất. Mỗi người bất kể lớn nhỏ đều một con cá chiên rất ḍn. Món canh không ai ngờ, đó là rau muống nấu với cá cơm nhỏ. Ông Thăng nói. " Mấy bà miền Nam hết nói chúng tôi dân Bắc Kỳ rau muống nghe, thấy người Mă Lai họ cũng ăn rau muống chưa? ".
- Họ biết ḿnh người Việt nên nấu canh rau muống cho ḿnh ăn đó. Một người căi lại.
- Thôi đi cha, sao họ biết ḿnh ghé vào mà trồng sẵn rau muống. Ḿnh là ông nội họ chắc? Tui nghĩ dân Mă Lai cũng ăn rau muống nhưng khác ở chỗ họ nấu bằng cá cơm thay v́ thịt heo hay tôm khô như ḿnh. Người khác đáp lại.
Cơm ngon nhưng chỉ có một dĩa nên ai cũng thanh toán lẹ làng, đám lính trên xe thu dọn đồ lề rồi rút gọn. Một giờ sau lại có lệnh buộc đám nam giới chúng tôi dọn dẹp sân trại lần nữa và sửa chữa cái hàng rào cùng bàn ghế hư cũ. Ông Thăng, ông Phát liền chia người ra ba nhóm đi vét các rănh nước chung quanh hai căn nhà lều pḥng trời mưa và đào thêm nhà vệ sinh cùng các hố tháo nước. Nhóm c̣n lại vào rừng chặt một số cây thẳng để gia cố các chỗ hỏng, gẫy mục cho cứng chắc.
- Không nên một ḿnh vào rừng v́ ở đây có cọp, trăn và rắn độc. Gă lính dặn ḍ nhóm người chặt cây làm hàng rào.
Phía nữ được ở yên chỗ, một bà thấy chỉ có nam giới phải đi làm nên nói:
- Tối hôm qua mấy ông ở không, giờ họ bắt làm bù mới công bằng chứ.
Tôi và Đỉnh ở trong nhóm mười hai người đi vào rừng chặt cây. Gă lính dặn ông Thăng nói chúng tôi phải xong mọi việc trước 5 giờ chiều rồi y lấy ra 3 cây mă tấu cho cả bọn dùng. Đi chung với nhau ai nấy cười đùa vui vẻ, nếu có cọp hay trăn mà gặp đám đông như vầy th́ cũng phải chạy tét. Mấy thanh niên cầm mă tấu đi đầu, tay loang loáng chặt các cây nhỏ cản đường. Nói vào rừng chặt cây nhưng thực tế chúng tôi phải đi kiếm mới có loại cần dùng. Cả đám vượt qua các khoảng rừng cây to, có lúc gặp thân cây mục nằm vật ngang giữa đường phải t́m cách trèo qua đi tiếp. Gặp cả những bụi tre rừng rồi qua băi cỏ tranh th́ may sao gặp được một khu vực có cây chồi nhỏ mọc sát thân thẳng tắp. Chúng tôi dừng lại, trong nhóm có người từng có thời đốn cây rừng hầm than góp ư: " Ḿnh chẳng ở trại này lâu, theo tôi nên t́m cây tạp đừng lựa cây lá kim gỗ cứng khi chặt sẽ đau tay lắm, phí sức ". Chúng tôi lựa những cây thẳng, to bằng cườm tay và dài khoảng 3 m vừa tầm với hàng rào. Chớp mắt đă đủ số được giao 3 cây cho mỗi người. Cả đám xong việc sớm ngồi nghỉ, vài người phàn nàn về bữa cơm trưa. Con cá chiên khá lớn và canh nhiều mà cơm lại ít xỉn, người lớn hay trẻ nhỏ ǵ cũng một dĩa bằng nhau. Chia hết ṿng vẫn c̣n dư cơm mà đám lính cũng không múc thêm cho. Một ông vóc dáng to con, bực bội:
- Nói thẳng, sức tôi phải hai dĩa th́ mới thấm. Mấy người có con nhỏ c̣n được ké thêm. Cơm dư trong thùng mang về cũng bỏ, không lẽ lính chịu ăn thừa? Vậy mà cũng không cho.
Có lẽ phần ăn của từng người chúng tôi là như vậy, đám lính chỉ thừa hành lệnh cấp trên.
Ngồi không, có người đề nghị đi sục sạo kiếm trái cây rừng để ăn cho vui miệng nhưng người khác lại sợ v́ lời dặn của đám lính trước khi đi. Rừng Mă Lai có loài cọp nhỏ cỡ con chó lớn nhưng rất hung dữ. C̣n trăn? Tuy không có nọc độc nhưng loài này có thể quấn chết rồi nuốt sống gọn một người lớn như chơi. Nhất là loại trăn gió, chúng có thể chuyền từ cây nầy sang cây khác để t́m mồi mà không gây một tiếng động. Ngồi không măi một chỗ cũng chán, cả bọn quyết định cắt rừng để quay trở về. Gần tới trại, chúng tôi gặp một khoảnh đất trống trải nằm lọt thỏm giữa cây rừng bao chung quanh. Cả đám dừng lại bên cây Thánh giá gỗ có hàng chữ đen Truong Cong Dai mờ nhạt cắm ở một trong các g̣ đất lúp xúp. Một nghĩa địa người vượt biên từng sống ở đây. Tên là nam giới rơ ràng nhưng Dai là Đại, Đăi hay Đài? Người này chết lâu mau v́ không thấy ghi ngày sinh ngày tử? Tuy vậy, nạn nhân vẫn hơn các người khác v́ có cây Thánh giá ghi tên. Nằm xuống vĩnh viễn ở rẻo rừng xứ người, chắc ǵ thân nhân của họ bên quê nhà đă biết tin.
Gặp nghĩa địa, đám chúng tôi ai nấy cũng cảm thấy buồn buồn trong ḷng. Một ông làm dấu đạo Thiên Chúa, miệng lầm thầm nguyện kinh nho nhỏ. Đêm bị tàu hải tặc đuổi, nếu không có cơn mưa đột ngột, số phần chúng tôi chắc không khác những người tị nạn bất hạnh nằm ở đây. So ra, ghe chúng tôi thật may mắn v́ đến được xứ người b́nh an.
Cây thẳng mang về tới trại, gă lính mang ra búa và đinh cho cả bọn gia cố các chỗ hư hỏng ở hàng rào và ở hai dăy bàn ăn. Hai nhóm kia cũng đă làm xong các việc được giao, căn trại bây giờ trông sạch sẽ hơn. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại nên ông Thăng ông Phát xin phép bọn lính cho chúng tôi được đi tắm thêm lần nữa. Đám lính gật đầu, chúng tôi hăm hở lên đường. Đến gần suối, để ư thật kỹ cả bọn mới thấy có thêm một lối ṃn khác nằm phía tay trái, ngược với hướng con suối nam giới tắm. Lối ṃn đó là hướng đi tắm của nữ giới trong trại.
Bữa cơm chiều cũng món ăn y như khi sáng nhưng nam giới do làm việc, ai cũng đói bụng nên ăn thật ngon.
Chúng tôi đă sống trong căn trại này được ba ngày. Cứ tuần tự sáng dậy sớm lúc 7 giờ vệ sinh cá nhân, 8 giờ ăn điểm tâm, 9:30 nam giới đi ra suối tắm giặt. Khi đám nam giới về th́ đến phiên nữ giới. Xong vụ tắm giặt trời đă trưa, chúng tôi phải chờ đến 1 giờ th́ xe chở cơm mới đến. Bữa cơm chiều lúc 5 giờ, sau đó chẳng có việc ǵ làm ngoài chuyện nằm ngủ, đi tới lui trong sân hoặc tụ họp nói chuyện đời cho đến khi trời tối. Tối, cả bọn kéo vào căn nhà lều và chờ đến 10 giờ khuya khi đám lính ngưng máy điện th́ ngủ.
Lính gác trại không ăn sáng như chúng tôi mà hầu như chỉ cà phê thuốc lá. Thỉnh thoảng, mới thấy họ nấu ḿ gói để điểm tâm. Cơm trưa hoặc cơm chiều khi xe chở đến trại, đám lính cũng nhận khẩu phần đựng trong các khay nhôm che kín nên không ai biết loại thức ăn ǵ ở bên trong? Ngày hôm qua, ông nhân viên bộ Nội Vụ và hai sĩ quan quân đội vào thăm chúng tôi sau bữa ăn trưa. Đi ḷng ṿng trong trại, vẻ mặt họ hài ḷng khi thấy căn trại sạch sẽ và gọn gàng. Ba người họ thông báo cho chúng tôi biết là đă liên lạc với đại diện của UNHCR tại Kuala Lumpur xong. Ông Thăng hỏi họ bao lâu nữa th́ chúng tôi rời khỏi trại và rồi sẽ đi đâu? Vào Sungei Besi hay ra đảo tị nạn Pulau Bidong? Ông Alek bảo chúng tôi cứ chờ và sẽ được thông báo sau. Khi biết ghe chúng tôi ra khỏi nước đă hơn tuần lễ, một sĩ quan quân đội lấy ra một chồng giấy cùng bút mực và b́ thư cho chúng tôi, nói ai muốn gửi thư cho thân nhân th́ viết ngay. Ông ta sẽ ghé lại trong vài ngày tới và chuyển các thư về Việt Nam liền. Tôi xin giấy viết liền thư cho gia đ́nh.
Ăn ở không nhưng ai cũng cảm thấy bụng rất mau đói và mong giờ cơm tới sơm sớm. Có một bất tiện trong việc ăn uống đó là xong bữa cơm chiều lúc 5 giờ th́ chúng tôi phải qua một đêm dài đến 8 giờ sáng hôm sau mới có điểm tâm mà chỉ vỏn vẹn một gói bánh qui nhỏ cùng bịch nước trà đường nóng khoảng 1/3 lít. Thời gian cách quăng giữa hai bữa ăn đó quá dài làm nhiều người cảm thấy sót ruột v́ bụng trống, nhất là các cháu bé. Trẻ nít khóc v́ đói, cha mẹ nh́n con mà bó tay c̣n người lớn đánh lừa bao tử bằng các hớp nước lă. Những người có con nhỏ như Tám Kiệt, ông Thăng... bàn nhau thử ḍ hỏi bọn lính gác để mua thêm thức ăn. Đám lính lúc đầu gồm 6 người nay rút xuống chỉ c̣n 3. Mới bàn và chưa kịp ḍ ư với bọn lính th́ chính chúng lại tỏ ư trước. Chúng biết người vượt biên có vàng, dollar mang theo. Xă hội nào cũng có người nghiền thuốc lá điếu, cà phê và nếu thiếu các thứ này, mặt người đó sẽ tiều tuỵ, cơ thể mệt mỏi tuy... không chết. Sơ khởi, bọn lính mang thuốc lá điếu và cà phê ra bán nhưng chỉ nhận tiền Ringgit (tiền Malaysia) thôi. Thấy người trong chúng tôi sùy ra dollar, chúng vờ vĩnh không biết xài mà chỉ đ̣i tiền Ringgit. Do vậy, đành phải để chúng đổi dùm luôn. Cứ 100 dollar Mỹ, chúng đổi lấy 200 Ringgit. Hối suất hai loại tiền thực sự bao nhiêu th́ không ai biết nhưng bọn lính phải có lời. Được cái tiền Malaysia có giá trị v́ chỉ 10 Ringgit th́ cũng mua được kha khá thức ăn. Ai không có dollar mà có nhẫn vàng 24 cara th́ chúng cũng sẵn sàng đổi giùm luôn. Thậm chí, đồng hồ đeo tay chúng cũng nhận đổi nhưng phải c̣n mới và tốt.
- Đến được đây coi như thành công, c̣n cái đồng hồ đổi lấy tiền mua thuốc lá hút cho miệng đỡ nhạt. Không có đồng hồ cũng chả sao. Một ông tháo cái đồng hồ Seiko 5 trên tay, phân bua trước khi đưa cho gă lính.
Giờ đây muốn có thứ ǵ chỉ cần đưa tiền ra, đám lính phóng xe máy chạy đi mua liền. Có người nhờ mua cả bếp dầu, chảo và xoong-nồi nhỏ nhưng không phải ai cũng có dollar thủ trong người hoặc sẵn vàng, tư trang quư để trao đổi với đám lính. Người có Ringgit mua thêm thức ăn, cà phê và thuốc lá về nhâm nhi làm người không có rất thèm. Đành chịu, không lẽ mở miệng xin. Tám Kiệt thấy vậy, y lẳng lặng bỏ tiền mua thêm cà phê, thuốc lá cùng bánh kẹo cho người trong trại hưởng chung. Tâm lư con người thật kỳ, lúc đầu thấy hành động của Tám Kiệt làm th́ ai cũng khen thầm rồi chỉ sau một hai ngày cà phê thuốc lá đă có tiếng xầm x́ sau lưng. Nói Tám Kiệt thu được khối vàng khi tổ chức vượt biên và hối lỗi, muốn mua cái đức cho mấy đứa con sau cơn hút chết trên biển. Tám Kiệt nghe được các chuyện đó, mỉm cười thố lộ:
- Đầu người đi trong ghe chỉ 2 cây nếu khách trực tiếp nói chuyện với tui. C̣n mối của ai khác sang qua mất bao nhiêu tui không quan tâm. Cả ghe 135 người đi th́ đă 30 người là gia đ́nh, bà con và trong băng tui. Số khách c̣n lại, tưởng nhiều thật nhưng tiền công đưa rước rồi phải cúng cho bọn công an nên cũng chẳng dư bao nhiêu. Cái chính là tui đưa gia đ́nh đi thoát là mừng, sang được xứ người th́ ḿnh sẽ làm lại cuộc đời mấy hồi.
Thực ra trong túi nhiều người cũng c̣n tiền nhưng loại tiền đă thành các tấm giấy màu không chút giá trị, đó là tiền in h́nh lăo già. Đủ loại tiền từ tờ bác đau gan, bác sợ cho đến bác say rượu (tiền Việt Cộng có h́nh mặt Hồ Chí Minh mầu vàng 200 $, mầu xanh xám 50.000$ và mầu đỏ 500$, 10.000). Nhiều người lấy tiền đó vất bỏ gần hố rác sau khi cho đám lính xem. Thấy vậy, tôi gom lại được một bó ước đoán trên 7 triệu đồng và cất trong túi xách dù chưa biết sẽ làm ǵ với số tiền này.
Buổi tối, bóng người lui cui nấu nướng bên những ánh lửa xanh của các bếp dầu ở mé sau căn nhà lều nữ giới. Mùi món ăn, cà phê nóng bay thơm ngào ngạt trong tiếng xèo xèo chảo chiên.
Mối thân thiện giữa đám lính gác và người trong ghe tăng lên. Một gă lính trẻ tên Daniel có máu văn nghệ, y có một cây đàn guitar. Vài người trong ghe cũng biết guitar nên nhanh chóng thân thiện với gă. Trưa nào cũng vậy, sau bữa cơm th́ túm tụm dưới bóng mát một nhúm con trai con gái đàn hát bên nhau. Nhạc Việt, nhạc Mă hoặc nhạc trẻ ngoại quốc văng vẳng trong cái tĩnh mịch trại lính giữa rừng.
Thư chúng tôi viết xong, viên sĩ quan quân đội ghé vào trại lấy đi rồi nên ai cũng vui khi nghĩ thân nhân bên quê nhà sớm muộn ǵ cũng biết tin về chuyến đi. Ở yên chỗ, tạm thời vất bỏ các lo lắng trước mắt, các cô gái trẻ se sua lại y phục, trang điểm khuôn mặt và mái tóc mỗi khi đi tắm về. Theo đề nghị của nhiều người, đám lính cho phép chúng tôi vào rừng lần nữa để chặt cây về làm thêm hai dăy bàn ăn. Rồi kế đó th́ ở mé sau căn nhà lều nam giới, đất cũng được chúng tôi san phẳng và cất một lều tṛn nhỏ lợp tranh có cả bàn ghế nghỉ trưa. Nhờ vậy, tới giờ ăn, ai cũng có chỗ ngồi ở bàn gọn gàng không c̣n cảnh bưng dĩa cơm đứng lêu bêu hoặc ngồi bệt dưới đất như trước nữa. Ngồi chung bàn ăn cơm, một hai lần tôi đă đối mặt với cô gái ở dưới khoang hầm cá lớn và biết tên cô là Đoàn Hải Yến, 20 tuổi. Chim én biển họ Đoàn, cái tên đẹp như khuôn mặt cô. Từ lúc c̣n ở ngoài băi biển, cô đă nhận ra tôi là người bên cô dưới khoang hầm cá lớn và đă đến hỏi chuyện. Én biển nhưng chịu không nổi các cơn sóng. Có lần, trong bữa cơm Yến đă hỏi tôi khi đó đang ngồi chung với Đỉnh:
- Anh Vũ! Yến nghe mấy chỉ nói người nào là lính VNCH hoặc liên quan với chế độ cũ th́ sẽ được họ cho vào Sungei Besi, c̣n không th́ sẽ phải ra đảo Bidong ở. Phải không?
Tôi gật đầu dù không biết chắc về cái tin đồn. Đầu đuôi câu chuyện là do lính gác trại x́ ra cho mấy cô gái biết và đám đàn ông đă bàn bạc liền ngay đó. Người gốc lính hoặc viên chức thời miền Nam VNCH như ông Hưng ông Thăng, ông Phát... đều phấn khởi v́ nghĩ vào được Sungei Besi th́ chỉ chờ làm thủ tục đi định cư tại đệ tam quốc gia. Phải chuyển ra đảo Bidong th́ bị xét lư lịch và phải chờ rất lâu nếu nhân thân lờ mờ hoặc thuộc phe Việt Cộng. Đỉnh ngồi cạnh, hích nhẹ đùi vào chân tôi miệng cười tủm tỉm. Yến đă hai lần mang cho tôi ḿ gói và thuốc lá. Tôi không hút thuốc định đem trả th́ Đỉnh giữ lại dành phần cho nó. Sau lúc đôi co giữa tôi với cậu thanh niên đ̣i lại bộ quần áo rồi do sắp xếp, Đỉnh và tôi nằm sát bên nhau trong căn nhà lều khiến cả hai thân thiện với nhau hơn, đi đâu cũng hai đứa. Có lần Đỉnh đă kể về cha ruột hiện đang sống tại Mỹ.
- Ba em là trung úy ṭng sự tại nha an ninh quân đội miền Nam VNCH. Sau ngày 30-4-1975 ổng bị Việt Cộng tập trung cải tạo như các sĩ quan khác. Mẹ em tưởng chỉ có một tháng sẽ về nào ngờ ông đi đằng đẵng cả mấy năm. Anh biết khi đó em mới có 13 tuổi c̣n niên thiếu, biết ǵ. Lúc mấy tháng đầu không thấy ba trong nhà, em cứ hỏi mẹ rồi hỏi măi th́ mẹ em gắt không biết nên sợ không dám hỏi nữa. Cả năm trời không thấy ba em về mà cũng chẳng có tin tức ǵ của ổng, mẹ em ra chợ Tân B́nh, sang lại một sạp buôn bán quần áo cũ sống qua ngày chờ xem t́nh h́nh. Bất ngờ có thư của ba gửi về cho biết chỗ ổng bị giam, mẹ em mừng quá liền đi thăm ngay nào ngờ khi đến nơi, quản giáo nói ông đă bị chuyển sang trại khác. Mẹ em đành quay về, lên phường xin giấy đi thăm nuôi th́ bọn công an bảo chưa được phép, phải chờ. Chờ cả mấy tháng trời không được cấp giấy, mẹ em lại đến trại của ổng th́ được biết đă chuyển đi nơi khác rồi và lần này th́ quản giáo không biết ổng chuyển đi đâu nữa. Măi hơn ba năm cho đến một hôm th́ tự dưng bọn công an phường đến nhà hỏi thăm nhiều chuyện về ba càng làm mẹ em lo lắng, rối trí thêm. Rồi một lần, có vài người lạ mặt đến gặp mẹ em và gặp riêng cả em nữa anh. Ngừng một chút, Đỉnh tiếp: " Mấy người đó tự xưng họ ở trong tổ chức phục quốc và muốn liên lạc gấp với ba em, hỏi em biết ba đang ở đâu th́ chỉ chỗ. Em đâu biết phục quốc phục kiết ǵ. Phần mẹ em th́ ngạc nhiên v́ từ lúc ba đi cải tạo tới giờ c̣n không biết chỗ để liên lạc thăm nuôi. Khi mấy người này đi khỏi nhà th́ mẹ em lờ mờ đoán đă có chuyện với ba em. Khổ cái gia đ́nh không biết đi hỏi ḍ tin tức ở đâu ". Đỉnh dứt lời, ngồi im lặng như nhớ về chuyện cũ.
- Rồi sao nữa, kể tiếp? Tôi hỏi dồn Đỉnh.
- Một ngày vào cuối năm 1980, lúc đang bán hàng ở chợ th́ mẹ em t́nh cờ gặp lại một thuộc cấp dưới quyền ba em khi trước. Nhờ ông này, mẹ em liên lạc được một người cải tạo đă có lúc ở chung trại với ba em và được chính quyền CS thả về sớm. Đến nhà ông ta rồi th́ mẹ em mới biết ba đă trốn khỏi trại Suối Máu từ cuối năm 77.
Phạm Thắng Vũ
(c̣n tiếp)
Bookmarks