Vẻ vang dân tộc / Tương lai đất nước
Người con gái sông Hương” đoạt giải nhất International Book Award 2012
LGT: Sách của W. Nicole Dương (Dương Như Nguyện), nữ thẩm phán Hoa Kỳ đầu tiên gốc Việt, vừa đoạt luôn giải nhất và giải nh́ của cuộc giải thưởng sách quốc tế 2012 (International Book Awards 2012), dạng tiểu thuyết đa văn hóa (category: multicultural fiction), được tổ chức bởi JPX Media Group của Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Chào đời tại Hội An, Quảng Nam và đến Hoa Kỳ năm 1975, Nicole tốt nghiệp Cử Nhân Báo Chí tại ĐH Southern Illinois, sau đó Tiến Sĩ Luật của DH Houston và LLM của Harvard. Tuổi 24, cô đă làm Tổng Giám Đốc Vụ Bồi Thường Rủi Ro cho Quận Học Chánh Houston, rồi tốt nghiệp luật sư năm 1984. Hành nghề luật được 18 năm th́ cô trở thành giáo sư luật thực thụ ở đại học Denver . Cô viết văn từ khi c̣n ở Việt Nam và là người cuối cùng đoạt giải danh dự cuộc thi Văn Chương Phụ Nữ Toàn Quốc Lễ Hai Bà Trưng của Việt Nam Cộng Ḥa. Cuốn “Con gái của sông Hương” xuất bản năm 2005 gây nhiều tiếng vang.
Trích phần kết của bài phỏng vấn này:
HLC: xin cảm ơn cô Dương Như Nguyện. Ông Nguyễn Ngọc Anh, Cựu Chủ Tịch cộng đồng NVQG Arizona đă viết cho tôi như sau trong những trao đổi cá nhân qua mail :“Cô ấy (DNN) là viên ngọc quư, cần được khám phá (hay đúng hơn, cần tạo cơ hội cho người khác khám phá.) Tư cách. Thâm thuư. Có t́nh tự dân tộc. Có chiều sâu triết học. Anh không dùng chữ 'khôn khéo' v́ nó thường đồng nghĩa với không chân thật, nhưng cô ấy là người biết cách trả lời để lôi kéo độc giả về với suy nghĩ của ḿnh.” Tôi nghĩ, tôi đă phần nào hoàn thành nhiệm vụ. Bài tâm t́nh này là cơ hội tôi gửi DNN đến với mọi người. Trước tôi đă có Lưu Nguyễn Đạt, [1] Nguyễn Xuân Hoàng,[2] Việt Bằng nhưng cái cách một phụ nữ đến với một phụ nữ như tôi đến với cô, có lẽ tôi là người đầu tiên? Con đường thiên lư có ngắn hơn chăng khi có người khám phá? Xin tạm biệt và hẹn một tâm t́nh khác. (Ngưng trích)
1-HLC: Xin chào Cô Dương Như Nguyện. Chúc mừng cô đă đoạt cùng lúc hai giải nhất và nh́ của “International Book Awards” năm 2012. Được biết Amazon gửi 2 tác phẩm này dự thi trong khi cô vắng mặt tại Hoa Kỳ. Như vậy ai là người đầu tiên báo tin vui này và cảm tưởng của cô?
DNN: Cám ơn chị Lan Chỉ đă cho tôi nói chuyện với đồng hương. Amazon đưa sách dự thi và báo tin, nhưng tôi không nhận được v́ không có mặt ở Mỹ. Lúc đó, tôi đang phục vụ chương tŕnh Fulbright của Hoa Kỳ ở ngoại quốc. Mới đây, khi về Mỹ tôi mới biết, qua nhà xuất bản Amazon.
2-HLC: Giả dụ bây giờ cho cô hồi tưởng về quá khứ th́ tâm lư của cô qua hai lần đoạt giải: năm 1975 giải văn học của Việt Nam Cộng Ḥa và giải International Book Awards năm 2012 có những điểm ǵ giống nhau và khác nhau?
DNN: Năm 1975, đang học 12 C Trưng Vương, tôi được giải Danh Dự Văn Chương Phụ Nữ Toàn Quốc vào Lễ Hai Bà Trưng. Trước khi dự thi, bà Hiệu Trưởng, Giám Học và Tổng Giám Thị đă mang tôi đi thắp hương, quỳ lạy trước bàn thờ Hai Bà Trưng ở Sài G̣n. Giải thưởng trao ở Vườn Tao Đàn cùng với nhiều phụ nữ xuất sắc khác. Ngoài khánh vàng c̣n được quyền chọn học bổng du học trong 6 quốc gia.
Lần này tôi không vui mấy và không thể so sánh một cách tương xứng được, v́ giải thưởng bây giờ không có tầm vóc quốc gia như năm 1975. Tuy nhiên, có một niềm an ủi: những ǵ tôi viết bằng tiếng Anh đă được đọc và công nhận giá trị.
Có một điểm tương đồng: Giải Văn Chương Lễ Hai Bà Trung là kết quả của cuộc thi “nặc danh”, hội đồng giám khảo không được biết tên các thí sinh. 40 năm sau ở Mỹ cũng thế. Ban tổ chức International Book Awards hoàn toàn không biết tôi là ai, và tôi không hề biết họ.
Điểm khác biệt: Giải ở Việt Nam dựa trên sáng tác viết cho cuộc thi, chưa bao giờ xuất bản. Giải ở Mỹ bây giờ dựa trên tác phẩm đă được xuất bản, do nhà xuất bản của tôi đem di dự thi.
3-HLC: Chúng ta đi vào 2 tác phẩm đoạt giải nhé. Cuốn “Mimi and Her Mirror” và cuốn “Postcards From Nam” khởi sự lúc nào và viết trong bao lâu? Nội dung là ǵ?
DNN: Nội dung: “Mimi and her Mirror” là một trong 3 cuốn của bộ trường thiên tiểu thuyết nói về việc sụp đổ của Saigon và lớp người Việt di dân đầu tiên: giới trung lưu của xă hội Việt Nam Cộng Hoà (VNCH). Đây là một tiểu thuyết văn chương hiện đại đúng nghĩa (modern literary fiction), đi vào nội tâm của nhân vật chính, không phải tiểu thuyết thương mại (genre fiction). Cuốn thứ nhất (“Sông Hương”) nói về thời Pháp Thuộc và cuộc di tản 1975, nhân vật chính là con gái đầu ḷng của một nhà giáo. Cuốn thứ hai (“Mimi”) nói về người em gái. Cuốn thứ ba (“Postcards”) , lẽ ra viết về người em trai út nhưng tôi lại viết về người hàng xóm, một thuyền nhân. H́nh như độc giả Việt Nam chưa ai nhận ra rằng bộ ba tiểu thuyết nầy dựa trên một gia đ́nh trung lưu của VNCH 2 gái, 1 trai: "Vương Quan là chữ, nối ḍng Nho gia. Đầu ḷng 2 ả Tố Nga…”
Chu tŕnh viết: Tôi bắt đầu viết trường thiên này năm 1995 khi đang làm luật sư cho Mobil ở Á châu. Viết xong bản nháp đầu tiên của “Sông Hương” năm 1997; “Mimi va Postcards” năm 1999. Hoàn thành 3 cuốn vào năm 2000 th́ tôi bị xe tải đụng suưt chết. Sau đó tôi từ chối việc làm ở Texaco Chevron và đi dạy luật; 3 cuốn sách bỏ vào tủ v́ việc dạy học và biên khảo ngành luật thương mại ở đại học Denver rất nặng nề, đ̣i hỏi khoảng 50 giờ một tuần.
Năm 2003, tự nhiên nhà Xuất Bản Tự Lực Ravensyard gọi điện thoại cho tôi. Từ đó, “Sông Hương” được xuất bản. Đến 2009 th́ Amazon Publishing, một chi nhánh của Amazon Corporation, lựa Mimi từ một cuộc thi văn chương họ tổ chức cùng với Penguin. Khi biết có 3 cuốn, họ mua hết cả 3. Từ trước đến nay, tôi vẫn chưa hề có đại diện mại bản văn chương (literary agent). Do duyên nghiệp mà Ravensyard và Amazon t́m ra tôi. V́ thế con đường xuất bản sách của tôi có thể nói là hi hữu, trái với thông lệ b́nh thường.
4- HLC: cô đến Hoa Kỳ năm 1975. Chất liệu cô lấy từ đâu? Cá nhân ḿnh và những người đồng cảnh ngộ chung quanh?
DNN: Từ những ǵ tôi trải qua, biết, thấy, và áp dụng vào cảnh trí giả tưởng của tiểu thuyết: một phương pháp dùng trong kịch nghệ gọi là “sense memory recollection.” Vài ví dụ: tôi đưa vào tiểu thuyết cảnh gia đ́nh tôi rời Việt Nam bằng máy bay vận tải C130; kinh nghiệm ngoài đời của tôi khi hành nghề quốc tế trực thuộc Châu Á khoảng thời gian Mỹ bỏ cấm vận; và kinh nghiệm tôi làm việc trong những tổ hợp luật sư lớn của Hoa Kỳ. Ngay cả bối cảnh lịch sử cũng là kinh nghiệm đại gia đ́nh của tôi, hai bên nội ngoại. Thí dụ: cuộc thanh trừng địa chủ ở Bắc, cuộc di cư 1954, hai cuộc thảm sát ở Huế (đồn Mang Cá -- phong trào Cần Vương với vua Hàm Nghi –rồi Tết Mậu Thân 1968), việc hai vua Thành Thái và Duy Tân bị lưu đày… Cuộc sống đạm bạc (nhưng tự do và không đói khát) của công chức và giáo chức cũ ở Saigon , rồi cuộc tranh sống ở Mỹ mà học vẫn là động cơ và phương tiện tiến thân, cũng chính là cuộc sống của tôi trước và sau 1975.
Hai thí dụ nữa: để biết cảnh thuyền nhân, đích thân tôi đă ra biển 2 lần, ở Singapore và Mă Lai, bằng tàu nhỏ, rồi leo lên tàu lớn để vào bờ. Chuyện hăm hiếp phụ nữ hay trẻ em vị thành niên trong Postcards và Mimi trở thành biểu tượng cho cuộc hăm hiếp văn hóa của cả một thế hệ hay dân tộc: tôi cũng hiểu thảm trạng này v́ đă từng là luật sư thiện nguyện cho những phụ nữ và trẻ em bị bạo hành. (Đây là lư do tôi quan tâm đến truyện ngắn Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu, một biểu tượng xuất hiện ngay trong ḷng nước Việt Nam . Tuy nhiên lối hành văn hay cách dùng biểu tượng của tôi về đề tài nhạy cảm này khác hẳn cô ta).
5-HLC: Năm 2005, cuốn “Con gái của Sông Hương” gây tiếng vang và dường như gồm cả vài sóng gió. “Mimi and her Miror” sẽ có những hiệu ứng tương tự trong cộng đồng Việt?
DNN: Tôi không nghĩ thế. Cha tôi nhờ Ravensyard gửi vài “review copies” cho một ít báo chí Việt Nam mà ông là độc giả trung thành. Oái ăm thay một vài người Việt Nam nhân cơ hội đó công kích tôi, chỉ trích lỗi chính tả trong “review copies” và thóa mạ luôn nghề luật của tôi. Theo thông lệ của giới xuất bản Hoa Kỳ, “review copies” là sách nháp được gửi cho giới điểm sách trước khi sửa bản kẽm.
Động cơ chỉ là ḷng tỵ hiềm và nhu cầu gây tiếng vang trong cộng đồng ḿnh. Đây là vấn đề mạ lị, phỉ báng, và quấy nhiễu chứ không phải sóng gió văn chương, mà mạ lỵ quấy nhiễu th́ phải đưa vào ṭa án. Thật ra hiện tượng này thường có mặt trong những cộng đồng thiểu số bị chấn động bởi những biến cố lịch sử và xáo trộn xă hội. Không xứng đáng có chỗ đứng trong kư ức tập thể.
"Sông Hương" và “Postcards from Nam ” đă được các giáo sư của VNCH ngày xưa dịch cho cộng đồng người Việt rồi. Tôi chưa thấy có nhu cầu dịch Mimi sang tiếng Việt. Mimi là một tiểu thuyết tâm lư, văn chương (literary fiction), trong bối cảnh lịch sử 1975. Mimi không theo bất cứ một công thức nào. Nội dung, theo tôi, khá táo bạo, đ̣i hỏi việc hiểu tâm lư nhân vật và cách dùng biếu tượng.
6-HLC: Giáo sư đại học Florida State và nhà văn đoạt giải Pulitzer, Ông Robert Olen Butler năm 2010 nhận xét rằng cô kết hợp tuyệt vời giữa văn chương và luật học. Ông ta nói về tác phẩm “Mimi and Her Mirror”?Cô có thể giải thích rơ hơn?
DNN: Butler cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết xứng đáng được đọc. C̣n sự kết hợp giữa văn chương và luật học là điều ông nói về tư duy và tiến tŕnh nghề nghiệp của tôi: vừa làm luật sư vừa viết văn.
7-HLC: Được biết cô ưa thích các tác giả Graham Greene, Albert Camus, Pat Conroy, Isabelle Allende, Vladimir Nabokov. Các tác giả này ảnh hưởng thế nào đến các tác phẩm của cô nhất là cuốn “Mimi and Her Mirror?
DNN: Tính nhân bản và tài năng của họ là động lực và khuôn thước cho tôi viết. Đặc biệt triết lư nhân bản của Albert Camus; nghệ thuật viết chính trị rất “wry” (chua chát mà hững hờ) của Graham Greene; khả năng viết như vẽ tranh vừa tượng h́nh vừa siêu h́nh của Isabelle Allende; cách tŕnh bầy quá sức xúc tích những câu chuyện khó kể nhất của Pat Conroy. Tôi vẫn c̣n mong được đem hết những điều này vào chu tŕnh viết lách của ḿnh. Ba cuốn tiểu thuyết đă xuất bản chỉ là bước đầu, giúp tôi trả món nợ văn hóa với lịch sử Việt Nam . Nghiệp văn chương: tôi cho là “Con Đường Thiên Lư.”
Trong Mimi, tôi hy vọng độc giả sẽ t́m thấy cách mô tả gợi h́nh về những bóng ma của quá khứ, một chút chua chát về lịch sử và chính trị, những thảm thương khó nói về những nỗi khổ tâm phải vùi lấp, và một chút ǵ của triết lư nhân bản.
8-HLC: Tôi ṭ ṃ rất muốn biết cô đọc cái ǵ và ảnh hưởng cái ǵ từ Vladimir Nabokov?
DNN: Tôi đă trả lời vấn đề này, đăng trong sách dịch Postcards from Nam, do Văn Mới xuất bản. Tôi thán phục Nabokov v́ ông viết văn 3 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga. Văn chương của ông vừa bi thảm vừa khôi hài. Sự tỉ mỉ về chi tiết th́ tuyệt vời, và ông hoàn toàn đứng ngoài cái gọi là đạo đức. Điều này tôi không chấp nhận được: tôi không thể viết một cách phi đạo đức như ông.
Sông Hương” của tôi giống Lolita của Nabokov ở điểm trong tiểu thuyết có một t́nh yêu trái cấm. Nhưng t́nh yêu trong Sông Hương” là t́nh yêu đích thực, được thăng hoa thành sợi giây gắn bó giữa hai văn hóa trái ngược, qua ḍng lịch sử, c̣n Lolita theo tôi chỉ là ám ảnh tội lỗi (obsession) v́ có sự chiếm đoạt và hủy hoại người ḿnh yêu.
Tôi hy vọng trong Mimi, độc giả sẽ thấy sự tỉ mỉ của nghệ thuật mô tả, trong bi thảm cũng có những điểm khôi hài thú vị, cũng như vấn để đạo đức, được biểu tượng không những qua các nhân vật anh hùng, mà c̣n qua nhân vật "phản diện." Nghệ thuật viết văn gọi đó là "hero" và "anti-hero."
Bookmarks