Từ năm 1965 đến năm 1973 Cam Ranh là một cứ điểm quan trọng của Hoa Kỳ. Quân đội và tiếp liệu cho toàn cuộc chiến đều ra vào qua cảng Cam Ranh. Sau Hiệp Định Paris 1973 Hoa Kỳ rút các lực lượng ra khỏi Cam Ranh, và giao lại cho quân đội Việt Nam Cộng Ḥa.
Việt Nam Cộng Ḥa không có phương tiện duy tŕ Cam Ranh như một căn cứ và chỉ xử dụng phi trường Cam Ranh một cách giới hạn.
Vào đầu tháng 4/1975 cảng Cam Ranh c̣n được xử dụng để tiếp người tị nạn từ miền Trung. Ngày 3/4/1975 quân đội Việt Nam Cộng Ḥa rút khỏi Cam Ranh.
Sau khi chiếm miền Nam, Hải quân Bắc Việt một phần không có nhu cầu, một phần không có khả năng nên căn cứ Cam Ranh bỏ trống. Năm 1979, sau cuộc chiến biên giới với Trung quốc, Việt Nam cho Nga thuê Cam Ranh trong 25 năm.
Mục đích chính yếu là dùng sự hiện diện của Nga ngăn ngừa một cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung quốc. Nga đă biến cải Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn ngoài lănh thổ Nga. Nga cho xây thêm tại Cam Ranh 5 cầu tàu, 2 băi đưa tàu lên cạn để bảo tŕ và sửa chữa, xây thêm cơ sở cho tàu ngầm ẩn núp, kho chứa dầu, nhà máy điện, doanh trại và kéo dài phi đạo. Năm 1991 Liên bang Xô viết sụp đổ, quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc thay đổi. Giữa năm 2002, Nga rút khỏi Cam Ranh. Sau khi Nga rút đi, Trung quốc ve văn Hà Nội để thuê cảng Cam Ranh, nhưng Hà Nội vẫn c̣n đủ tỉnh táo để không “bán” Cam Ranh cho Trung quốc dù căn cứ được bỏ trống .
Những năm gần đây Hà Nội cho chuyển phi trường dân sự Nha Trang vào Cam Ranh dùng cho các chuyến bay nội địa. Người ta đoán Hà Nội có ư dân sự hóa hải cảng Cam Ranh, và sau đó quốc tế hóa Cam Ranh để giải tỏa áp lực đ̣i thuê bao xử dụng của Trung quốc. (Cam Ranh và Liên bang Nga)
Quyết định đó của Hà Nội là một quyết định có tính chiến lược đúng đắn chừng nào Trung quốc c̣n biết tự chế trong việc đ̣i quyền làm chủ Biển Đông và giành quyền kiểm soát con đường biển quan trọng của thế giới .
Thời gian cho thấy Trung quốc dường như đặt mục tiêu “trở thành siêu cường” là một nhiệm vụ lịch sử và bước đầu là bung ra Biển Đông, biến Biển Đông thành cái “hồ nhà” của ḿnh để dọn đường đi bốn biển năm châu. Trung quốc biết rằng sức mạnh của Hoa Kỳ đang đi xuống nhưng c̣n mạnh hơn ḿnh nhiều và Trung quốc sẽ chờ đợi:10 năm, 15 năm, trước khi đọ sức với Hoa Kỳ.
Nhưng với các nước nhỏ trong vùng Trung quốc không cần chờ đợi. Trung quốc dùng chính sách o ép bằng kinh tế và chính trị. Riêng với Việt Nam ngoài áp lực kinh tế Trung quốc c̣n dùng nợ nần và ơn nghĩa cũ để làm áp lực. Đối với Trung quốc, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng nhất nên nếu trị được Việt Nam, các nước khác trong khối Asean sẽ phải cúi đầu thuần phục. Cho nên trong những năm qua Trung quốc đă triển khai một chính sách “lấn ép” Việt Nam trên Biển Đông. Và năm 2011 là năm Trung quốc làm những hành động bắt nạt Việt Nam lộ liễu nhất.
Giữa năm 2011 chính quyền đảo Hải Nam công bố lệnh ngưng đánh cá trong Biển Đông và gởi hằng trăm tàu hải giám để chận bắt ngư dân Việt Nam. Ngày 1/6 Trung quốc dọa bắn một ngư thuyền Việt Nam gần Trường Sa và ngày 5/7 nhân viên hải giám Trung quốc đánh đập một chủ thuyền khác trước khi dùng vũ lực đuổi ra khỏi vùng biển “cấm” tại Hoàng Sa.
Trung quốc cũng c̣n t́m cách ngăn cản việc khai thác dầu khí của Việt Nam trong vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone – EEZ). Ngày 26/5 Trung quốc cho 3 tàu hải giám đến lén cắt giây cáp ḍ t́m dầu khí của tàu B́nh Minh 2 của Cục Dầu khí PetroVietnam . Đây là lần đầu tiên Trung quốc xâm phạm một cách lộ liễu vùng EEZ của Việt Nam.
Trong hai ngày liên tiếp 29 & 30/5 trong khi tàu khảo sát Viking II do PetroVietnam thuê t́m dầu khí trong băi Tư Chính (Vanguard Bank), một tàu hải giám Trung quốc đến cắt giây kéo dụng cụ t́m dầu. Lực lượng bảo vệ Viking II của Việt Nam đă ngăn cản đuổi tàu hải giám của Trung quốc đi và hai bên xuưt đụng đô nhau bằng vũ lực.
Chưa hết, ngày 9/6 Trung quốc lại cho tàu đánh cá đến cắt giây cáp của Viking II. Và cuối tháng 6 một vụ cắt giây cáp khác lại diễn ra chung quanh băi Tư Chính.
Trước các hành động khiêu khích và lần lướt của Trung quốc, Việt Nam đă áp dụng đối sách phản ứng nhiều mặt: (1) đối đầu (không dùng vũ khí) trên thực địa, (2) thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tuyên bố mạnh mẽ Việt Nam sẽ hy sinh tất cả để bảo vệ chủ quyền biển đảo của quốc gia, (3) làm ngơ để nhân dân Hà Nội và Sài g̣n biểu t́nh trong các ngày Chủ Nhật trong suốt 12 tuần từ đầu tháng 6, và sau cùng (4) không quên mặt ngoại giao gởi giới chức cao cấp đi Trung quốc nói chuyện hơn thiệt . (Trung Quốc bắt nạt Việt Nam)
Nhưng các hành động của Trung quốc trên Biển Đông không phải là những đụng chạm ngoài ư muốn, mà là các hành động trong chính sách nên các đối sách đáp ứng của Việt Nam không c̣n thích hợp. Việt Nam cần phải có một chọn lựa khác.
Có nhiều dấu hiệu năm 2012 là năm căng thẳng. Đầu tháng 3/2012 Trung quốc bắt giữ 21 ngư dân Việt Nam và hai thuyền đánh cá trong vùng biển Hoàng Sa (Trung quốc đă chiếm bằng vũ lực đầu năm 1974) đ̣i tiền chuộc.
Và Việt Nam cũng chỉ có thể phản ứng bằng nước bọt. Giữa tháng 4 Trung quốc gây hấn với Phi luật Tân tại băi cạn Scarborough của Phi, và với lời lẽ “dao to búa lớn” của Trung quốc người ta chờ đợi những bước lấn tới trong chính sách đă được hoạch định của Trung quốc.
C̣n tiếp...
Bookmarks