Originally Posted by
Cổ Văn
Hai Bà Trưng, dân ta tôn kính đọc trại âm TRƯƠNG thành Trưng .
Nếu gọi 1 cách nôm na th́ 2 bà có tên là Trương Nhất, Trương Nh́.
QuanTran không rơ lắm về những phát biểu của TS Lê Mạnh Hùng. Tuy nhiên xin đăng bài viết của tác giả Phạm Vũ tựa đề "Tưởng nhớ Hai Bà Trưng: Hát Giang Trường Hận & Hậu duệ Hai Bà ở Sumatra" dưới đây để người Việt Nam chúng ta ư thức rằng những ǵ xảy ra trong quá khứ, trong một h́nh thức nào đó, c̣n giữ những manh mối c̣n sót lại. Trong những chuyện truyền khẩu từ ngàn xưa có pha những sai lạc do thêm bớt, nhưng vẫn ẩn hiện những nét chấm phá của sự thật.
Cũng xin nhấn mạnh điểm thú vị liên quan đến tên gọi của Hai vị Nữ Vương trong đoạn sau: "... Dân tộc này hiện c̣n duy tŕ chế độ mẫu hệ, trong gia đ́nh, phụ nữ nắm quyền kinh tế. Trong mỗi ḍng họ của người Minangkabau, người phụ nữ giữ quyền thừa kế được gọi là Turun Cicik, những người em gái trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Những âm này, sau giai đoạn dài của lịch sử, đọc lên vẫn thấy hơi giống âm gợi hai tên Trưng Trắc, Trưng Nhị."
Tưởng nhớ Hai Bà Trưng:
Hát Giang Trường Hận & Hậu duệ Hai Bà ở Sumatra
(Phạm Vũ)
HAI BÀ TRƯNG và Cuộc Khởi Nghĩa Chống Quân Đông Hán
Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) - Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh. Mẹ hai Bà là bà Man Thiện, người làng Nam Nguyễn, Ba V́, Sơn Tây, Hà Nội. Chồng mất sớm, bà Man Thiện một ḿnh nuôi dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị giỏi vơ, có tinh thần yêu nước, có chí lớn.
Trưng Trắc là vợ của Thi Sách, con trai Lạc tướng Châu Diên. Các Lạc tướng Mê Linh và Chu Diên có ư chống lại sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định. Định bèn bắt giết Thi Sách để trấn áp tinh thần người Việt.
Tháng 2/40, Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị nổi binh chống lại quân Hán. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh.
Ngày 30/2/41, nhà Hán thấy bà xưng vương dấy quân đánh lấy lại các thành.
Tháng 1 năm 42, tướng Mă Viện nhà Hán tiến đánh Hai Bà. Năm 43, Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán và thua nhiều trận lớn ở vùng Lăng Bạc (Tiên Sơn-Bắc Ninh), Cẩm Khê (Ba V́-Hà Nội) nên đă gieo ḿnh xuống Hát Giang tử tiết vào ngày 6/2/43.
Người dân đă dựng đền thờ Trưng Nữ Vương ở xă Hát Giang, huyện Phúc Lộc, nay ở Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Hai Bà Trưng được coi là anh hùng dân tộc, và được thờ cúng tại nhiều đền thờ, trong đó lớn nhất là Đền Hai Bà Trưng ở phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và đền Hai Bà Trưng tại Mê Linh, ngoại thành Hà Nội - quê hương của Hai Bà.
-Tp.HCM có Đền thờ Hai Bà Trưng tại đường Hoàng Hoa Thám, Q. B́nh Thạnh (Gia Định cũ)
“Hát Giang Trường Hận” tưởng nhớ HAI BÀ TRƯNG
Bài hát “Hát Giang trường hận" - với nhịp điều trầm hùng, gợi nhớ đến công ơn và sự hy sinh của Hai Bà Trưng kháng chiến chống ách đô hộ của nhà Hán.
Tác giả Lưu Hữu Phước đă sửa chữa và đổi tên lại bài hát "Hát Giang trường hận" thành "Hồn tử sĩ" để tưởng nhớ và chiêu hồn các anh hùng liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
"Hồn tử sĩ" là một bài hát được dùng trong nghi thức lễ tang chính thức của nhà nước Việt Nam hiện nay. Trước 1975, bài hát này đă được cả 2 miền sử dụng, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa sử dụng trong lễ tang cấp nhà nước và chế độ Việt Nam Cộng ḥa sử dụng trong nghi thức lễ tang quân đội.
Xuất xứ của bài hát
Vào năm 1941, Lưu Hữu Phước cùng với các sinh viên miền Nam có khả năng văn nghệ đang học tại Hà Nội tham gia trong phong trào Tổng hội Sinh viên Đông Dương, ông thành lập nhóm nhạc Tổng hội Sinh viên, chú trọng đặc biệt đến việc dùng ḍng nhạc hùng trong Tân nhạc, sử dụng trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Suốt trong giao đoạn 1941-1944, Lưu Hữu Phước cùng với nhóm sinh viên trong Tổng Hội đă tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy ḷng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là những học sinh, sinh viên. Những ca khúc đó thường lấy đề tài lịch sử ca ngợi những chiến công, những anh hùng dân tộc, đặc biệt phải kể đến những bản nhạc của Lưu Hữu Phước. Trong những đợt tổ chức các hoạt động về nguồn của sinh viên, Lưu Hữu Phước đă sáng tác được nhiều ca khúc nổi tiếng như "Tiếng gọi sinh viên" (sau thành quốc ca của Quốc gia VN và VN Cộng ḥa) và "Hát Giang trường hận" ("Hồn tử sĩ"), “Giải phóng Miền Nam” (MTGP Miền Nam)... đă để lại dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam, được xem là đỉnh cao của thể loại bài hát về đề tài lịch sử của Việt Nam, nhằm hun đúc t́nh thần dân tộc cho thanh niên Việt Nam.
Nguyên bản "Hát Giang trường hận”
Thời điểm sáng tác của bài hát vào khoảng 1942-1943, trong một đợt cắm trại do Tổng hội Sinh viên Đông Dương tổ chức tại Mê Linh. Trong dịp này, Lưu Hữu Phước đă sáng tác bài hát nguyên thủy với tên gọi "Hát Giang trường hận". Bài hát với nhịp điều trầm hùng, gợi nhớ đến công ơn và sự hy sinh của Hai Bà Trưng kháng chiến chống ách đô hộ của nhà Hán.
Sửa chữa và đổi tên thành Hồn Tử sĩ
Năm 1944, Lưu Hữu Phước vào Nam Bộ theo yêu cầu của Mặt trận Việt Minh tham gia vận động cho phong trào "Xếp bút nghiên" của sinh viên ba miền Nam - Trung - Bắc rủ nhau bỏ học để trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng. Đầu năm 1945, khi tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập, ông trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào. Tháng 8 năm 1945, ông tham gia cướp chính quyền tại Sài G̣n. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông giữ chức vụ Giám đốc pḥng xuất bản Nam Bộ cho đến tận tháng 5 năm 1946. Chính trong thời gian này, ông cùng với một đồng nghiệp có tên là Hồng Lực đă sửa chữa và đổi tên lại bài hát "Hát Giang trường hận" thành "Hồn tử sĩ" để tưởng nhớ và chiêu hồn các anh hùng liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đêm khuya âm u/ Ai khóc than trong sương mù?
Gió rít qua lũy tre như nghiến răng vương mối thù
Hồn ai kia đau xót chơi vơi?/ Hồn quân Nam căm uất chưa nguôi/ Uất khí ngất đất
Bao lớp mây che kín trời/ Sóng thét qua băi lau như nhắc người xưa anh dũng…
Bài hát chung của người Việt Nam: bài hát này được VN Cộng ḥa trước đây và CH.XHCN Việt Nam hiện nay sử dụng trong các lễ tang chính thức. Tại hải ngoại, bài hát vẫn được sử dụng trong các nghi lễ chiêu hồn tử sĩ.
Hậu duệ Hai Bà Trưng ở đảo Sumatra và Borneo
1/ Tộc người Việt cổ giàu có và phồn vinh tại Sumatra (Indonesia)
Khu vực đảo Sumatra thuộc Indonesia là nơi sinh sống của tộc người Minangkabau. Họ có gốc gác và nhiều tập quán sinh hoạt rất giống với người Việt.
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia đă cùng cho rằng tộc người Minangkabau sinh sống tại Tây Sumatra có nguồn gốc từ Việt Nam.
Theo giả thuyết nhà nghiên cứu độc lập Trương Thái Du đưa ra, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, vào cuối năm 43 một bộ phận người Việt đă lên thuyền ra khơi và dạt vào Eo biển Malacca nhờ gió mùa Đông Bắc. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay.
Cư dân Minangkabau sinh sống bằng nghề trồng lúa từ lâu đời, và họ cũng có tục ăn trầu nhuộm răng cùng nhiếu nét văn hóa khác gần gũi với người Việt. Họ vẫn giữ văn hóa mẫu hệ trong truyền thống gia đ́nh, ḍng tộc. Người phụ nữ trong gia đ́nh mang trọng trách cao và có quyền quyết định mọi việc lớn. Mọi tài sản cũng như đất đai đều thuộc quyền phụ nữ.
Ngày nay có hơn 4 triệu người Minangkabau sinh sống tại tỉnh Tây Sumatra, trong khi có hơn 3 triệu người khác sinh sống rải rác tại nhiều thành thị của Indonesia và bán đảo Mă Lai.
Nam giới Minangkabau nổi tiếng là những nhà kinh doanh giỏi do phải đi lập nghiệp xa và giao nhà cửa cho người phụ nữ quản lư.
Trong tiếng Indonesia, “Minang nghĩa là chiến thắng”, “kabau là trâu”. Người Minangkabau có sự tích về kiểu kiến trúc “sừng trâu” của Rumah Gadang dẫn giải như sau: Ngày xưa có một mối bất ḥa giữa người Minangkabau và người Java, và hai bên thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java đưa ra một con trâu khổng lồ, trong khi người Minangkabau lại dùng một con nghé con, bị bỏ đói nhiều ngày và trên đầu buộc con dao sắc...Khi vào trận con nghé đói tưởng trâu là mẹ ḿnh, lập tức rúc vào bụng trâu để bú. Con trâu mộng đă bị hạ gục v́ dao đâm thủng bụng, và người Minangkabau chiến thắng. Cũng theo sự tích này “Minangkabau: chiến thắng trâu”.
Sự tích kể trên tương đồng gần như hoàn toàn với một giai thoại dân gian nổi tiếng của người Việt Nam về chuyện Trạng Quỳnh dùng nghé đấu với trâu chiến của sứ giả Trung Hoa. Phải chăng đây là hai dị bản của một câu chuyện đă có từ thời các cư dân Việt cổ?
Tên gọi của tộc người bắt nguồn từ một chiến thắng trong quá khứ. V́ vậy, con trâu là hiện thân quan trọng trong nhiều nét văn hóa của người Minakabau.
Trẻ em Minangkabau trong lễ aquika mừng ngày sinh nhật. Họ được mặc những bộ trang phục rực rỡ, màu đỏ và vàng trên chiếc cũ cầu ḱ tượng trưng cho tinh thần và sự dũng cảm của người Minangkabu.
Đây cũng là cộng đồng theo chế độ mẫu hệ lớn nhất thế giới.Mọi tài sản lớn đều thuộc quyền thừa kế của phụ nữ.
Kết cấu nhà truyền thống của người Minangkabau có mái cong vút như mái chùa cổ Việt Nam, cũng tương tự cặp sừng trâu, có đường nét giống với nhà sàn h́nh thuyền trên trống đồng Đông Sơn, được gọi là Rumah Gadang.
-Một ngôi nhà Rumah Gadang bề thế & Cư dân làm đồ dùng bằng tre. Một nét độc đáo khác thể hiện giá trị văn hóa đặc sắc trong xây dựng là những chi tiết trang trí được thể hiện tinh xảo bằng lối chạm khắc, phối màu sặc sỡ phủ kín quanh nhà từ chân cột lên đến nóc mái. Nhà của trưởng làng – một phụ nữ – thường là ngôi nhà lớn nhất, điêu khắc đẹp nhất. Gia đ́nh nào càng có nhiều con gái càng chứng tỏ sự giàu có trong tương lai.
-Người Minangkabau ngày nay theo đạo Hồi, nhưng tín ngưỡng nguyên bản của họ là thuyết vật linh (thờ linh vật, tin rằng vạn vật có linh hồn).
Theo nhiều nhà nghiên cứu, thuyết vật linh là tín ngưỡng đầu tiên của dân tộc Việt, trước khi các đạo Nho, đạo Lăo và đạo Phật du nhập.
Đàn ông Minangkabau giữ nhiệm vụ duy tŕ văn hóa truyền thống cũng như đi xa làm ăn.
- Indonesia ǵn giữ văn bản nguồn gốc người Việt cổ - Cơ quan lưu trữ và thư viện của tỉnh Tây Sumatra, Indonesia, đang lưu giữ 40 trong số 150 văn bản cổ đại đă được đăng kư trong cả nước.
Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia cho rằng người Minangkabau có nguồn gốc từ người Việt và hiện chiếm tới 80% trong tổng số 4,5 triệu dân của tỉnh Tây Sumatra.
-Theo các nhà sử học, mùa Xuân năm 43, một số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng cùng những người không chịu khuất phục giặc phương Bắc, đă chạy về phương Nam và cuối năm đó họ tiếp tục lên thuyền ra biển.
Những đợt gió mùa Đông Bắc đă đẩy thuyền của họ dạt vào Eo biển Malacca. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay.
-Dân tộc này hiện c̣n duy tŕ chế độ mẫu hệ, trong gia đ́nh, phụ nữ nắm quyền kinh tế. Trong mỗi ḍng họ của người Minangkabau, người phụ nữ giữ quyền thừa kế được gọi là Turun Cicik, những người em gái trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Những âm này, sau giai đoạn dài của lịch sử, đọc lên vẫn thấy hơi giống âm gợi hai tên Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Người Minangkabau có tục lệ mời khách ăn trầu và những ngôi nhà truyền thống của họ đều có mái cong như h́nh chiếc sừng trâu, gợi h́nh ảnh những mái đ́nh, chùa ở Việt Nam. Người Minangkabau c̣n nổi tiếng buôn bán giỏi và nấu ăn ngon./.
2/ Tộc người rất giống người Việt cổ trên đảo Borneo (Kalimantan)
Dân tộc Dayak dùng mũ lông chim, xăm ḿnh, ở nhà sàn và chim thần như cư dân Việt cổ.
Theo nghiên cứu lịch sử, Dayak là nhóm cư dân bản địa Borneo lâu đời.
Đảo Borneo, ḥn đảo lớn nhất Đông Nam Á thuộc lănh thổ 3 quốc gia Brunei, Malaysia và Indonesia là nơi sinh sống của dân tộc Dayak – một cộng đồng người có nền văn hóa cổ xưa và độc đáo. Theo nghiên cứu lịch sử, Dayak là nhóm cư dân bản địa Borneo lâu đời. Tổ tiên của họ đă di cư từ lục địa châu Á ra đảo từ hơn 3.000 năm trước. Xă hội Dayak bắt đầu khởi sắc khi nghề luyện kim được truyền đến ḥn đảo này cách nay khoảng 2.450 năm, tương ứng với cuối thời kỳ Hùng Vương ở Việt Nam.
(c̣n tiếp)
Bookmarks