Tạ Tỵ đi theo ban kịch truyền bá quốc ngữ được nửa năm th́ bị sốt rét nặng, phải về Liên khu Ba (vùng Thái B́nh), vẽ tranh hí họa chống Pháp trên báo Cứu Quốc Thủ Đô, sáng tác văn thơ và dạy hội họa. Tạ Tỵ kể về nhiệt t́nh cách mạng của Văn Cao:
"Một chiều khi gần tối, bỗng Văn Cao và Nguyễn Đ́nh Thi đến thăm. Thật không ǵ vui hơn, khi nằm một ḿnh trong căn nhà vắng lại được bạn đến thăm. Văn Cao cho biết từ Liên khu 1 mới xuống công tác ở Khu 3, nhân tiện ghé chơi. (...) Nói chuyện tầm phào măi cũng chán, tôi yêu cầu Văn Cao đọc lại bài thơ "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc". Văn Cao tuy làm nhạc nhưng không có giọng hát, nhạc Văn Cao nổi tiếng nhờ tài hát của Phạm Duy, Bùi Công Kỳ v.v... Văn Cao cũng không có tài ngâm thơ, hát chèo như Hoàng Cầm, nhưng tiếng đọc thơ của Văn Cao nghe rất lạ, nghe ghê rợn như tiếng vọng từ đáy huyệt. (...) Tôi nhớ, đêm ấy Văn Cao nói với tôi:
- Này cậu, tôi có ư định giới thiệu cậu vào Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiă Các-Mác[62]cậu nghĩ sao? Tôi thẳng thắn trả lời, không thích chính trị, chỉ yêu nghệ thuật thôi! Trong đêm tối, tôi không nh́n thấy nét mặt Văn Cao và Nguyễn Đ́nh Thi ra sao, nhưng qua câu nói của Văn Cao:
- Không c̣n con đường nào khác đâu, nghệ thuật cũng phải phục vụ chính trị. Tôi chỉ biết nói thế. C̣n tùy cậu. Vả lại, Hội cũng ở gần đây thôi, mất công ǵ đâu mà cậu ngại?
Tôi không trả lời nói lảng sang truyện khác. (...) Sáng hôm sau, Thi và Văn Cao đều dậy sớm, đi ngay".[63]
Tạ Tỵ và Phạm Duy cho biết trong thời gian đầu kháng chiến, nghệ sĩ được tương đối tự do sáng tác. Tạ Tỵ vừa vẽ tranh tuyên truyền (hí họa chống Pháp) vừa sáng tác nghệ thuật theo ư riêng ḿnh và có thể triển lăm. Phạm Duy viết:
"Trong ba, bốn năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những văn nghệ sĩ rời thành thị ra thôn quê đều là những người tự động tham gia cuộc chiến đấu chung và dù có gia nhập vào một tổ chức văn nghệ nào của chính quyền th́ cũng được tự do đi lại, tự do sáng tác hay tự do biểu diễn. Dù Đảng Cộng Sản đă có đề cương văn hoá từ lâu[64] quy định mọi sáng tác văn nghệ đều phải có "tính Đảng" nhưng chỉ tới khi có Đại Hội Văn Hoá lần thứ hai được tổ chức ở Bắc Kạn vào năm 1950[65] th́ mới có những đường lối văn nghệ được Ban Chấp Hành đưa ra để văn nghệ sĩ ngoài Đảng học hỏi"[66].
Trong không khí c̣n khá dễ thở, Văn Cao trở lại Liên khu ba năm 1949, và các họa sĩ có thể tổ chức triển lăm chung, Tạ Tỵ kể: "Từ khi có Văn Cao ở gần, chúng tôi mỗi lần gặp lại bàn về chuyện làm pḥng triển lăm. Văn Cao cũng vẽ được hai tấm tranh sơn dầu. Anh cho rằng vấn đề mở Pḥng Tranh là việc nên làm v́ từ ngày kháng chiến, Liên Khu 3 chưa có Pḥng Tranh nào. Chúng tôi[67] giao việc liên lạc với chính quyền cho Văn Cao lo, c̣n tranh, có bức nào bày bức đó. (...) Văn Cao bày hai tác phẩm: Cây đàn đỏ và Đường cấm. Tôi có hai bức: Ĺa phố và Chiến tranh.
Cả bốn bức là sơn dầu, c̣n toàn là tốc họa, bút ch́ vẽ trên giấy. Tuy vậy, pḥng Triển Lăm cũng nhiều người xem lắm, nhiều buổi phải chen lấn nhau, làm chúng tôi lên tinh thần, tuy sự trưng bày này hoàn toàn có tính cách biểu dương, chứ không bán. Có bán cũng chẳng ai mua. Sau khi pḥng triển lăm bế mạc, Văn Cao gửi tôi giữ giùm hai tác phẩm nói trên v́ lư do không ở đây lâu, nhưng sau khi tôi đă "dinh tê", đến năm 1951, quân Pháp đánh vào quê tôi, lấy đi tất cả!"[68]
Trước đây, người ta chỉ biết bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê b́nh, nhưng nội dung phê b́nh ra sao, không ai rơ. Nhờ những điều Tạ Tỵ viết về buổi phê b́nh tranh Mưa Núi của ông, chúng ta có thể đoán được cảnh phê b́nh tranh Văn Cao: "Tôi vẽ thêm được bức tranh Mưa Núi, vẫn theo kỹ thuật lập thể. Một buổi chiều, tôi nhận được giấy mời đi tham dự buổi họp của Chi Bộ Văn Nghệ Liên Khu (...) Đúng ngày, tôi mang tranh đến một ngôi làng sát chân núi, bên kia sông Đặng. Đến nơi đă có nhiều anh em, tuy vậy, tôi quen rất ít, chỉ có Phái[69], Huyền Kiêu và Lương Xuân Nhị, là bạn.(...)
Sau vài giờ thảo luận sinh hoạt về chiều hướng sáng tác phục vụ kháng chiến, anh trưởng ban Tổ Chức (tôi không nhớ tên) đặt tác phẩm Mưa Núi của tôi trên chiếc giá bằng tre, xong mời anh em phát biểu ư kiến về tác phẩm đó. Mỗi người nói một cách, tôi phải trực tiếp giải thích, bào chữa cho tác phẩm ḿnh có "nội dung cách mạng".
Chắc đă được sắp đặt trước, anh trưởng ban Tổ Chức cho mời một số ông bà già, con nít chăn trâu đến trước bức tranh, hỏi mỗi người về cảm tưởng của họ. Thật khốn đốn cho tôi khi phải chống đỡ với những lời phát biểu vô cùng thật thà v́ không hiểu ǵ về hội họa của những người dân quê mùa chất phác và các em bé chăn trâu, cắt cỏ. Trước cảnh huống đó, tôi muốn phát điên lên, nhưng cố nén giận, giữ vẻ mặt b́nh tĩnh tới phút chót.
Sau cuộc phê b́nh khốn khổ, tôi dự đoán được Tổ Chức Chi Bộ Văn Nghệ muốn đối xử với tôi ra sao rồi! Phái và Huyền Kiêu thông cảm, nhưng đứng về phía thiểu số, cũng chẳng đỡ đ̣n ǵ được, đành làm ngơ. Cuộc họp chỉ có một ngày. Đáng lẽ sau khi họp xong, tôi phải ở lại vui chơi với anh em, nhưng tối hôm đó, tôi về ngay, nại cớ ngày mai phải đi gặp trưởng Cơ Quan B́nh Dân Học Vụ nhận công tác. Cũng kể từ đó, trong tôi đă dứt khoát, nếu có dịp thuận lợi là "dinh tê", chứ ở lâu không xong!"[70]
Đó là t́nh h́nh năm 1949. Và đó là lư do khiến những hoạ sĩ như Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng... bỏ kháng chiến về thành.
Sự "dinh tê" của văn nghệ sĩ được Vũ Bằng cảm nhận như sau: "Thế rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc cảm, là v́ tôi quan niệm rằng Hà Nội là đất nước ḿnh, ḿnh có quyền ở đó, c̣n vấn đề hèn hay không, đó là tùy ở nhân cách của từng người"[71].
Còn tiếp ...
Bookmarks