TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HOÀ 26.10.1955.-2.11.1963
QUÂN HIỆU KỲ - QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ
TRUNG TƯỚNG LÊ VĂN TỴ 53 TUỔI :TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG -QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ
TÂN THIẾU TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH 41 TUỔI :TƯ LỆNH CHIẾN DỊCH NGUYỄN HUỆ
LỰC LƯỢNG THAM CHIẾN : CHIẾN DỊCH NGUYỄN HUỆ 1.1.1956-31.5.1956
Chiến Dịch Nguyễn Huệ (1 tháng 1 đến 31 tháng 5 năm 1956)
Đây là một chiến dịch mà Quân Đội VNCH đă huy động một lực lượng hùng hậu gồm cả Hải, Lục, và Không Quân với 4 hải đoàn xung phong, 3 sư đoàn khinh chiến (Sư Đoàn 11, 14 và 15), một sư đoàn dă chiến (Sư Đoàn 4,-tiền thân của Sư 7 Bộ Binh sau này), Thuỷ Quân Lục Chiến , Nhẩy Dù , Biệt Động Quân ( thời gian này BĐQ chỉ có cấp Đại Đội Độc lập , đến 1960 mới h́nh thành tiểu đoàn từ 40 Đại đội BĐQ) 5 tiểu đoàn Pháo Binh, một phân đội của một phi đội quan sát, 3 phi cơ oanh tạc, 6 chi đoàn thám thính xa.
Nhiệm vụ chính của chiến dịch là truy kích lực lượng ly khai của Trần Văn Soái tại Cái Vồn -Vĩnh Long , Rạch Giá và Đồng Tháp Mười và lực lượng của Ba Cụt tại miền Tây. Ngoài ra chiến dịch c̣n có nhiệm vụ tiêu diệt những cơ cấu của Việt Cộng trong vùng hành quân, tái lập khai thác vùng Đồng Tháp Mười, Cà Mau. Vùng hành quân được phân chia thành hai khu chiến và một vùng trái độn: Khu chiến Miền Tây, Khu chiến Đồng Tháp Mười, Khu Trái Độn thuộc Phân Khu Vĩnh Long. Người chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ là Tân Thiếu Tướng Dương Văn Minh.,
BINH CHỦNG :THIẾT GIÁP - PHÁO BINH - CÔNG BINH -THÔNG VẬN BINH QĐVNCH THÀNH LẬP 1.12.1955.
BINH CHỦNG BIỆT ĐỘNG QUÂN -LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT THÀNH LẬP 2.1956 .
THIẾT GIÁP BINH :
CHIẾN XA M.24
Trung tá Dương Ngọc Lắm Chỉ huy trưởng Thiết Giáp Việt Nam Cộng Ḥa đầu tiên ( sau này Thiếu tướng )
Thiết Giáp Việt Nam Cộng Ḥa
Lịch Sử Thiết Giáp VNCH H́nh Thành
* Sự phát triển của Binh Chủng Thiết Giáp Quân Đội Quốc Gia Việt Nam sau Hiệp Định Genève :
Từ tháng 5/1954 đến tháng 11/1954, để đáp ứng nhu cầu chỉ huy của các Binh Chủng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam ngày càng lớn mạnh,Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm cho thành lâp Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Binh Chủng cấp Quân Khu chính thức thành lập, riêng Thiết Giáp, Bộ Chỉ Huy cấp Quân Khu được thành lập ngày 16/11, nhưng trên thực tế, các Bộ Chỉ Huy này mới chính thức hoạt động do các Sĩ Quan Pháp đảm trách, vừa với tư cách cố vấn cho các Tư Lệnh Quân Khu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và vừa là Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thiết Giáp trong Quân Khu.
Ngày 29/3/1955, Tổ Chức Thanh Tra Binh Chủng Trung Ương của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chính thức thành lập với các vị Thanh Tra kiêm Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng, để thay thế các Bộ Chỉ Huy Binh Chủng cấp Quân Khu bị giải tán. Những vị sĩ quan này được coi là những Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của binh chủng được bổ nhiệm.
Riêng Binh Chủng Thiết Giáp do Trung Tá : Dương Ngọc Lắm giữ chức Thanh Tra kiêm Chỉ Huy Trưởng Trung Tá Dương Ngọc Lắm là em rể của Đại tá : Đỗ Cao Trí.
.
Về Hệ Thống Binh Đoàn, trước khi Hiệp Đ́nh Genève được kư kết ( 20-7-1954 ), chỉ có Đệ Tam Quân Khu có cấp Trung Đoàn Thiết Giáp, Sĩ Quan Việt Nam đầu tiên thay thế Sĩ Quan Pháp chỉ huy trung đoàn nầy là Thiếu Tá : Dương Ngọc Lắm. Tại các Quân Khu khác chỉ có các Tiểu Đoàn (Chi Đoàn) Biệt Lập. Ngoài số chi đoàn cũ, có thêm Chi Đoàn Thám Xa 10 và 11 được thành lập để đáp ứng cho chiến trường miền Trung và Nam Việt. Đến khi đ́nh chiến, Đệ Nhất Trung Đoàn Thiết Giáp Hộ Tống của Pháp được chuyển giao cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Đây là một đơn vị cơ giới phức tạp, với đủ các loại xe, dùng để hộ tống các đoàn xe vận chuyển trên đường bộ và cả trên đường xe lửa. Vào thời gian nằy, các đơn vị Thiết Giáp phối trí như sau :
- Đệ Tam Trung Đoàn Thám Thính Xa, Đà Nẵng.
- Đệ Nhất Trung Đoàn 1 Thiết Giáp Hộ Tống, Gia Định.
- Chi Đoàn 1 Thám Thính Xa, Cần Thơ.
- Chi Đoàn 2 Thám Thính Xa, Văn Xá (Trung Việt).
- Chi Đoàn Thám Thính Xa 4, Ban Mê Thuột).
- Chi Đoàn Thám Thính Xa 6, Long Xuyên.
- Chi Đoàn Thám Thính Xa 10, An Nông (Trung Việt).
- Chi Đoàn Thám Thính Xa 11, Cai Lậy.
Đầu năm 1955, tên gọi các Trung Đoàn Thám Thính được đổi thành các Trung Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp, tổ chức này được duy tŕ tới khi có kế hoạch quân số áp dụng vào tháng 9/1955 với việc thành lập thêm Liên Đoàn Thủy Xa và 2 Trung Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp số 2 và số 4. Tất cả các đơn vị Thiết Giáp đă trải qua một thời kỳ cải tổ để đến cuối năm 1955 hoàn thành theo sự kết hợp và phối trí như sau :
- Đệ Nhất Trung Đoàn Kỵ Binh đóng tại Gia Định, kết hợp bởi các đơn vị thuộc Đệ Nhất Trung Đoàn Thiết Giáp Hộ Tống, riêng các cơ giới chạy trên đường rầy như loại Wicklam và những toa xe bọc thép vơ trang đều cho Sở Hỏa Xa Quân Đội ( thành lập 1 tháng 9/1955 ).
- Đệ Nhị Trung Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp đóng tại miền Tây Nam Việt, kết hợp bởi các Chi Đoàn 1 , 6 và 11.
- Đệ Tam Trung Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp đóng tại Đà Nẵng, kết hợp với một phần của Trung Đoàn 3 Thám Thính Xa và một phần các Chi Đoàn Biệt Lập ở miền Trung.
- Đệ Tứ Trung Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp trước đóng tại Nha Trang, sau chuyển lên Ban Mê Thuột, kết hợp bởi các Chi Đoàn 4 và 8 và một phần của Trung Đoàn 3 Thám Thính Xa.
- Đệ Ngũ Liên Đoàn Thủy Xa đóng ở Nhà Bè, được thành lập với 1 Chi Đoàn Chiến Xa Con Cua (Crabes) và 1 Chi Đoàn Chiến Xa Con Cá Sấu (Alligators). Đây là những Chiến Xa Lội Nước xuất hiện trong các trận chiến giữa Quân Đội Liên Hiệp Pháp và quân Việt Minh (tên gọi của quân CSVN lúc bấy giờ). Khi đ́nh chiến, các loại xe này đă cũ, Pháp mới chuyển giao cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam để thành lập những đơn vị trên. Bởi thế Liên Đoàn Thủy Xa nầy chỉ hoạt động được một thời gian ngắn th́ giải tán.
Một ghi nhận đặc biệt là khi thành lập các Trung Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp, các Chiến Xa M24 đă xuất hiện trong thành phần tổ chức của các đơn vị nầy. Các Trung Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp với quân số 514 Quân Nhân, gồm 1 Chi Đoàn Chỉ Huy, 1 Chi Đoàn Chiến Xa và 2 Chi Đoàn Thám Thính Xa. Binh Chủng Thiết Giáp kể cả Liên Đoàn Thủy Xa (420 Quân Nhân), đến cuối năm 1955 có quân số là 2,500 người. Một thời gian sau, các Trung Đoàn Thiết Giáp Ky Binh (TGKB) được cải danh thành Trung Đoàn 1, 2, 3 và 4 TGKB (Thiết Giáp Kỵ Binh). Về Chiến Xa, trước năm 1960, các chiến xa M 24 là loại cơ giới chính yếu của binh chủng Thiết Giáp.
CHIẾN XA M.24
THÁM THÍNH XA
Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Binh Chủng Thiết Giáp Quân Đội VNCH :
- Trung Tá : Dương Ngọc Lắm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 3 Thám Thính, giữ chức Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh/Quân Lực VNCH từ ngày 29/3/1955 đến năm 1958 rời Binh Chủng Thiết Giáp, từ năm 1959 đến 1963, mang cấp Đại Tá và lần lượt giữ các chức vụ sau đây : Tư Lệnh Sư đoàn 2 Bộ Binh, Tổng Giám Đốc Bảo An và Dân Vệ (giữa năm 1964 cải danh thành Tư Lệnh Địa Phương Quân và Nghĩa Quân). sau đảo chánh thăng cấp Thiếu Tướng, kiêm nhiệm chức vụ Đô Trưởng Đô Thành Sài G̣n. ,một thời gian ngắn rồi giải ngũ. Thiếu Tướng : Dương Ngọc Lắm là em rể của Cố Đại Tướng : Đỗ Cao Trí.
Anh trai Cố Đại Tướng : Đỗ Cao Trí là Dân biểu Đệ nhất Cộng Hoà, hết ḷng trung thành Ngô TT , sau 1963 , rời bỏ chính trường.
BINH CHỦNG PHÁO BINH :
PHÙ HIỆU PHÁO BINH QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ
Huy hiệu của BCH/PB/QLVNCH, đeo tay áo bên trái của quân phục
PHÙ HIỆU TRƯỜNG PHÁO BINH QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ
05/1955 Phú lợi Thủ Dầu Một
10/1955 Thành Thủ Đầu Một
09/1961 Dục Mỹ, Ninh Ḥa
ĐẠI PHÁO M101A1 105 LY -105mm Light Howitzer QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ
LỰC LƯỢNG PHÁO BINH TẠI MIỀN TÂY-NAM VIỆT NAM TRONG CHIẾN DỊCH NGUYỄN HUỆ 1956
Trung tá Bùi Hữu Nhơn 28 tuổi (1927 )- Chỉ huy trưởng Pháo Binh Việt Nam đầu tiên ( sau này Thiếu tướng )
Lịch Sử Pháo binh VNCH H́nh Thành
16-3-1955 Quân đội Quốc gia Việt Nam tiếp nhận Trung tâm Huấn luyện Pháo binh Phú Lợi chuyển giao
Tiếp sau đó Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm kư sắc lệnh uỷ nhiệm Thiếu tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ thành lập ban thanh tra các binh chủng tại Bộ Tổng Tham Mưu vào cuối tháng 3 .1955. Ban thanh tra này đă khai sinh ra bộ chỉ huy Pháo Binh cũng như Thiết giáp, Công binh và Thông Vận Binh, kể từ 1-12-1955. Chỉ huy trưởng Pháo Binh Việt Nam đầu tiên là Trung tá Bùi Hữu Nhơn .
Do kế hoạch quân số VNCH 150,000 người, ngành Pháo binh gia tăng thành 11 tiểu đoàn, trong đó có một tiểu đoàn Pháo binh 155 ly đầu tiên được thành lập. Tiểu đoàn số 34 được cải biến thành 155 ly và di chuyển khỏi miền Nam để đồn trú tại Đà Nẵng.
* Tiểu đoàn 1 Pháo binh: B́nh Thủy;
* Tiểu đoàn 2 Pháo binh: Đông Hà;
* Tiểu đ̣an 3 Pháo binh Nha Trang,
* Tiểu đoàn 4 Pháo binh: Pleiku;
* Tiểu đoàn 5 Pháo binh: Quảng Ngăi;
* Tiểu đoàn 6 Pháo binh: Sông Mao;
* Tiểu đoàn 12 Pháo binh: Dĩ An;
* Tiểu đoàn 22 Pháo binh: Huế; và
* Tiểu đoàn 34 Pháo binh: Mỹ Tho.
Tồng thống Ngô Đ́nh Diệm, Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu uỷ nhiệm : Trung tướng Tỵ Tổng Tham Mưu Trưởng cấp tốc thành lập các Sư đoàn đầu tiên của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà ,từ 150 Tiểu đoàn Bộ binh Quốc Gia Việt Nam : 4 Sư Đoàn Dă chiến, quân số mỗi Sư Đoàn 8 600 người : SĐ1DC, SĐ2DC, SĐ3DC, SĐ4DC, và 6 Sư đ̣an Khinh Chiến quân số mỗi Sư Đoàn 5245 người :SĐ11KC, SĐ12KC, SĐ14KC, SĐ15KC, SĐ22KC, SĐ23KC . Mỗi Sư đ̣an Dă chiến có một BCH/PB/Sư Đ̣an, và một Tiểu đ̣an PB 105 ly.
Đầu năm 1956 Pháo binh tăng thêm 2 tiểu đoàn, tiểu đoàn số 23 và 25 thành lập liên tiếp trong các ngày 1-1 và 1-2 và 3 tiểu đoàn 155 ly với danh hiệu Tiểu đoàn 35, 36, và 37 Pháo binh.
Trong lúc đó để ḥa nhịp với sự cải tổ của quân đội,Cuối năm 1958 10 Sư đoàn kể trên cải tổ thành 7 Sư Đ̣an Bộ Binh: SĐ1BB, SĐ2BB, SĐ5BB, SĐ7BB, SĐ21BB, SĐ22BB, SĐ23BB. Với quân số là 10.500 cho mỗi Sư đoàn, thành phần Pháo binh cũng gia tăng, mỗi Sư đoàn có một BCH/PBSĐ, một tiểu đoàn pháo binh 105 ly, và một Tiểu đoàn Súng cối với 27 khẩu 4”2.
* Tiểu đoàn 2 Pháo binh Đông Hà đổi danh thành Tiểu đoàn 1 Pháo binh, cơ hữu Sư đoàn 1 Bộ binh.
* Tiểu đoàn 5 Pháo binh Quảng Ngăi đổi danh thành Tiểu đoàn 2 Pháo binh, cơ hữu Sư đoàn 2 Bộ binh.
* Tiểu đoàn 6 Pháo binh Sông Mao đổi danh thành Tiểu đoàn 3 Pháo binh, cơ hữu Sư đoàn 3 Bộ binh.
* Tiểu đoàn 3 Pháo binh Nha Trang đổi danh thành Tiểu đoàn 4 Pháo binh, cơ hữu Sư đoàn 4 Bộ binh.
* Tiểu đoàn 1 Pháo binh B́nh Thủy đổi danh thành Tiểu đoàn 21 Pháo binh, thuộc Quân Khu 1.
* Tiểu đoàn 12 Pháo binh Di An đổi danh thành Tiểu đoàn 27 Pháo binh, thuộc Quân Khu 1.
* Tiểu đoàn 22 Pháo binh Huế đổi danh thành Tiểu đoàn 26 Pháo binh, thuộc Quân Khu 2.
* Tiểu đoàn 4 Pháo binh Pleiku đổi danh thành Tiểu đoàn 24 Pháo binh, thuộc Quân Khu 4.
* Tiểu đoàn 34 Pháo binh Mỹ Tho trang bị đại bác 155 ly và di chuyển ra Đà Nẵng.
Đại đội Trọng Pháo của Liên Đ̣an Thủy Quân Lục Chiến thành lập.
Năm 1961 biến đổi Đại Đội Trọng Pháo TQLC thành Pháo Đội Đại bác trang bị 8 khẩu 75 Sơn Pháo. Cùng năm Tiểu đoàn Pháo Binh TQLC thành lập với pháo đội A, B trang bị mỗi Pháo đội 8 khẩu Sơn Pháo, và Pháo đội C với 8 khẩu 105 ly.
Năm 1962 tân lập 2 BCH/PBSĐ cho SĐ9BB và SĐ25BB. Tân lập Tiểu đoàn 9 Pháo binh, Tiểu đoàn 9 Súng cối cho Sư đoàn 9 Bộ binh. Tân lập Tiểu đoàn 25 Pháo binh và Tiểu đoàn 25 Súng cối cho Sư đoàn 25 Bộ binh. BCH/PBSĐ 9 và 2 tiểu đoàn di chuyển vào Sa Đéc Quân khu 1. BCH/PBSĐ 25 di chuyển về Hậu Nghĩa Quân Khu 3..
Ngày đó Việt Nam Cộng Hoà Chia làm 4 Quân Khu : Quân Khu 1 : Miền Tây-Nam Bộ , Quân Khu 3 : Đông Nam Bộ, Quân Khu 2 : Vùng Hoả tuyến , Quân Khu 4 Cao Nguyên.
BINH CHỦNG : BIỆT ĐỘNG QUÂN KHAI SINH :
ĐẠI TÁ LAM SƠN TƯ LỆNH ĐẦU TIÊN BINH CHỦNG BIỆT ĐỘNG QUÂN VNCH 1956
( Ngày đó Binh chủng BĐQ là phải có bằng Nhẩy Dù, sau 1963 băi bỏ )
BĐQ-Quân Đội VNCH đă được thành lập tại Nha Trang vào tháng 2 năm 1956, là một binh chủng biệt động cảm tử, nên được sử dụng tối đa trong các cuộc hành quân nhẩy dù ,trực thăng vận, tấn công các căn cứ địa của phe Cộng sản, tại các căn cứ hậu cần và mật khu, khắp bốn vùng chiến thuật.trong những ngày đầu tiên thành lập chỉ huy BĐQ là Thiếu tá Phan Trọng Chinh nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Nhẩy Dù số 3 QĐ VNCH, sau đó bàn giao Đại tá Lam Sơn
Biệt Động Quân và Lực lượng Đặc Biệt VNCH phát xuất từ lực lượng commando Bắc VN của quân đội Quốc gia VN thành lập tại Nha Trang in 1951., dưới thời đệ nhất Cộng Ḥa vào 1956 Lực lượng Commando chia làm 2 : 2/3 phát tiển thành là Lực lượng Đặc Biệt do Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu chỉ huy có 2 nhiệm vụ ; bảo vệ chế độ , và thám báo nhảy toán vào Miền Bắc VN. 1/3 lực lượng c̣n lại phát triển thành Biệt Động Quân do Đại tá Lam Sơn (Phan Đ́nh Thứ ) Chỉ huy ."The French established a commando school in Nha Trang in 1951 After the American Military Assistance Advisory Group took over the military advisory role, the school was converted to a Ranger school in 1956. In 1960, when the Vietnam War began in earnest, the Vietnamese Rangers were formed. Rangers (Biet Dong Quan [BDQ]) initially organized into separate companies with US Army Rangers were assigned as advisers, initially as members of the Mobile Training Teams (MTTs), at Ranger Training Centers (RTC), ), and later at the unit level as members of the Military Advisory Command Vietnam (MACV). A small number of Vietnamese Ranger officers were selected to attend the U.S. Army Ranger School at Ft. Benning."
As long ago as 1957, U.S. Army Special Forces soldiers were in the Republic of Vietnam, going about their business of training, advising, and assisting members of the Vietnamese Army. Despite the old Army witticism about never volunteering for anything, the Special Forces soldier is, in fact, a double volunteer, having first volunteered for airborne training and then again for Special Forces training. From a very meager beginning but sustained by a strong motivation and confidence in his mission, the Special Forces soldier has marched through the Vietnam struggle in superb fashion.
Trong các đơn vị tổng trừ bị của QLVNCH, binh chủng Biệt Động Quân là đơn vị duy nhất không có Bộ Tư Lệnh mà chỉ có Bộ Chỉ Huy. Những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975, BĐQ có 15 Liên Đoàn gồm 45 T Đ chiến đấu được thành lập 2 Sư Đoàn BĐQ 101, và 106
BĐQ có hai trung tâm huấn luyện tại Trung Ḥa (Củ Chi-Hậu Nghĩa)1956 và Dục Mỹ (Khánh Ḥa)1960. Đây chính là ḷ luyện thép, huấn luyện tân binh cùng với các Khoá học về Rừng Nuí Śnh Lầy-Biệt Động, cho các cấp Hạ Sĩ quan và Sĩ Quan/QLVNCH.
Ngày 1-7-1960, Binh chủng Biệt Động Quân chính thức được thành lập các Tiểu Đoàn từ 65 Đại Đội Độc Lập
Năm 1967, Tiểu Đoàn 37 BĐQ là đơn vị duy nhất của QLVNCH, được biệt phái cho Hoa Kỳ, để trấn giữ căn cứ Khe Sanh. Trong suốt thời gian chiến đấu, Tiểu đoàn này đă giữ vững pḥng tuyến, dù làm tiền đồn và bị đối phương tấn công biển người .Ngoài ra, hai Tiểu Đoàn 21 và 39 BĐQ thuộc Liên Đoàn 1/BĐQ cũng là những đơn vị thiện chiến nhất của binh chủng, tham chiến trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 và tại mặt trận Sa Huỳnh (Quảng Ngăi) năm 1973. Riêng Tiểu Đoàn 43 BĐQ là đơn vị cuối cùng, tử thủ tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tới trưa 30-4-1975, mới buông súng ră ngũ khi có lệnh bắt đầu hàng.
Từ năm 1966, binh chủng B ĐQ cải tổ và thành lập các Liên Đoàn, đặt trực thuộc Quân Đoàn. Ngày nay khi nhớ về binh chủng, những quân nhân các cấp của BĐQ luôn hănh diện v́ đă hoàn thành trách nhiệm với chế độ VNCH. Nhiều cấp chỉ huy của binh chủng, đă được ghi vào Quân sử Việt Nam Cộng Ḥa như Chuẩn Tướng Lam Sơn, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Vơ Vàng, Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự..
BIỆT ĐỘNG QUÂN
HISTORY
ARVN Rangers
(Biệt Động Quân)
During 1951, the US Central Intelligence Agency (CIA) suggested to General De Lattre (Jean de Lattre de Tassigny - Commander in chief Indochina) that the French should form "counter-guerilla" warfare groups to operate in Vietminh - controlled areas. The French command rejected the concept of unconventional warfare units, although they did establish a Commando School at Nha Trang. By 1956, the US Advisory Group would turn this facility into a physical training and ranger-type school.
As the seriousness of the insurgency became more apparent during the early weeks of 1960, American and South Vietnamese leaders began to consider what measures might be adopted to deal with the deteriorating security situation. President of the Republic of Vietnam, Ngo Dinh Diem had his own solution. On 16 February 1960, without consulting his American military advisors, he ordered commanders of divisions and military regions to form ranger companies from the army, the reserves, retired army personnel and the Civil Guard.
In the Beginning
Activated in 1960, Army of the Republic of Vietnam (ARVN) Rangers (Biêt Dông Quân [BDQ]) initially organized into separate companies to counter the guerilla war then being waged by the Viet Cong (VC). From the beginning, American Rangers were assigned as advisors, initially as members of Mobile Training Teams (MTTs), deployed from the U.S., at training centers, and later at the unit level. A small number of promising Vietnamese Ranger leaders were selected to attend the U.S. Army Ranger school at Fort Benning. As a result of their common experiences, lasting bonds of mutual respect were formed between the combat veterans of both nations. During the early days, Ranger missions focused on raids and ambushes into such VC zones as War Zone D, Duong Minh Chau, Do Xa and Boi Loi (later to be called the "Hobo Woods" by the American forces) to destroy the VC infrastructure. The well-known shoulder insignia, bearing a star and a Black Panther's head, symbolized the courageous fighting spirit of the Vietnamese Rangers.
Training
Ranger courses were established at three training sites in May 1960: Da Nang, Nha Trang, and Song Mao. The original Nha Trang Training course relocated to Duc My in 1961 and would become the central Ranger-Biêt Dông Quân-Company and Battalion sized unit training was later established at Trung Lap; to ensure a consistently high level of combat readiness, BDQ units regularly rotated through both RTC's. Graduates of the school earned the coveted Ranger badge with its distinctive crossed swords. Ranger Training Centers conducted tough realistic training that enabled graduates to accomplish the challenging missions assigned to Ranger units. Known as the 'steel refinery ' of the ARVN, the centers conducted training in both jungle and mountain warfare.
South Vietnamese combat reconnaissance was a responsibility of the Ranger Training Command and ARVN reconnaissance units and teams were trained at either the Duc My RTC Long Range Reconnaissance Patrol (LRRP) course or at the Australian-sponsored Long Range Patrol (LRP) course of the Van Kiep National Training Center; graduates were awarded the Reconnaissance Qualification badge (a pair of winged hands holding silver binoculars)
Bookmarks