Nh́n lại những người Saigon sau cuộc chiến :
Đêm Giao Thừa Của Những Người Lính Mất Nước
Phạm Thành Châu
Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Ḥa. Ở trại tù, cán bộ thường nói mấy câu “Các anh có nợ máu với cách mạng, với nhân dân.
Đảng và nhà nước đưa các anh vô đây là để bảo vệ các anh khỏi bị nhân dân căm thù làm hại tánh mạng các anh. Các anh đáng tội chết nhưng đảng và nhà nước ta khoan hồng, mở cho anh một con đường sống là học tập, lao động cải tạo.
Các anh phải thành khẩn khai báo tội lỗi của ḿnh, lập công chuộc tội, chấp hành nghiêm chỉnh nội qui của trại. Về hay không về là do bản thân anh có tiến bộ hay không. Học tập tốt, lao động tốt, yên tâm cải tạo là con đường duy nhất đúng để các anh sớm được đảng và nhà nước tha về sum họp với gia đ́nh...”
Cán bộ nào ở trại tù nào cũng nói tương tự, tù nghe suốt mấy năm đâm thuộc ḷng, có thể nói nhanh hơn cán bộ. Sự thực, ban giám thị trại chỉ có nhiệm vụ giữ tù. Tù về hay ở đều do cục Quản Huấn bộ Nội Vụ chính quyền Cộng Sản qui định sẵn số năm tù cho mỗi tù nhân, (nhưng không kêu án, tù không biết, cán bộ cũng không biết, chỉ nói, tiến bộ th́ được tha về).
Chẳng hiểu v́ sao đảng Cộng Sản Việt Nam kích động người dân miền Bắc căm thù người miền Nam tàn tệ như trong bài hát “Giải Phóng Miền Nam”: “Ôi xương tan máu rơi ḷng hận thù ngất trời...” Miền Nam đang sống yên lành, đâu có động chạm ǵ đến miền Bắc để khiến họ căm thù kéo vào bắn giết?
Trong tù, những ông bà tù (miền Nam) bị buộc phải làm “thu hoạch”, kể tội chính quyền miền Nam “phản dân hại nước, tay sai đế quốc Mỹ”, tự ḿnh buộc tội là “có nợ máu” với nhân dân, đáng tội chết, rồi phải hả họng hát thật to “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng...” (?!)
Không làm như thế th́ “đi cùm” rồi bỏ mạng. Thế mà, nhiều ông tù c̣n tưởng bởû, làm ăn-ten (entenna: vu cáo tù lên cán bộ để tù bị đi cùm) để “lập công chuộc tội”. Nhưng họ lầm to. Những người làm an-ten, dù có tên trong danh sách tha tù, trại tù vẫn đề nghị giữ lại v́ kiếm được một con chó săn tự nguyện, làm việc đắc lực không phải dễ.
Những tù nhân b́nh thường, khi cán bộ sai làm ăn-ten (báo cáo) cũng vâng dạ nhưng chỉ báo cáo những chuyện tào lao như anh A. gây lộn với anh B., anh C. làm ồn không cho người khác ngũ hoặc “Thấy những người khác chuyện tṛ tôi đến gần th́ họ im lặng”.
Cũng chẳng cần làm chó săn hoặc “lao động tốt, học tập tốt”, đă là tù cải tạo th́ cứ yên tâm chờ đến lượt ḿnh đi tàu suốt. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng.
Hai cái chân khô đét, xanh lét tḥ ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên g̣ nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang”.
Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Đi xe lửa Hà Nội - Sài G̣n, về đến ga B́nh Triệu th́ đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga B́nh Triệu về đường Vơ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài G̣n).
Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà bên vợ, ở đường Vơ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, đói lạnh, chết gần hết. Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đă dội ngược. Gia đ́nh cán bộ đang ở trong đó.
Như vậy, gia đ́nh bên vợ tôi đă bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù (gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng.
Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, nồi niêu, chén đũa, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu?
Anh em ruột thịt chưa chắc đă dám chứa “tù ngụy” trong nhà v́ sẽ bị công an các cấp đến hạch hỏi thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng ǵ từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đ́nh bên vợ hỏi thăm tin tức th́ họa may.
Tôi cứ đi ḷng ṿng trên đường Vơ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nh́n ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Định, chứ không dám nh́n vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Đói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng.
Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài G̣n, sau năm 1975 bị đánh tư sản.
Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói chết dần, họ bỏ về Sài G̣n, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.
Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật ḿnh, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nh́n tôi.
Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước th́ bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nh́n “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn”
Làm phật ḷng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần c̣n lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị ǵ đó chắn trên đầu và dưới chân, đ́nh mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện tṛ vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng.
Tôi nằm nh́n thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép. Mấy năm tù đă làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Đến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lănh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp ǵ đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (bảo vệ) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đ́nh cũng vô ích. Gia đ́nh, vợ con đang lo cho người tù, sống chết ra sao? hơi sức đâu lo ngược lại cho họ. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất.Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đă đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi ḿnh đă bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết v́ mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cơi hư vô...
Đang suy nghĩ linh tinh th́ có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trêntay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nh́n, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy c̣n trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Được không?”“Đây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên”
Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo ḿnh coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù ŕ nhưng tôi nghe rơ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà t́nh thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người c̣n, người mất.
Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện tṛ, tôi biết hai ông là sĩ quan dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. H́nh như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện tṛ rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng, họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tayquyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như không.
Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù tṛ chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Đột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không.Một đô la cũng không có.
“Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Việt Nam cho Cộng Sản, đổi lấy ǵ đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng.
Người lính Cộng Ḥa cay đắng nhận chân người đồng minh, v́ quyền lợi nước Mỹ mà bỏ rơi miền nam một cách lạnh lùng, tàn nhẫn, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người lính miền bắc được học tập để căm thù miền nam.
Họ bắn vào trường học (Cai Lậy), giật ḿn xe đ̣, chôn sống gần chục ngh́n dân Huế, họ pháo vào người dân vô tội trên đường chạy giặc. Những con đường đầy xác chết không toàn thây của đàn bà, trẻ con. Đại lộ kinh hoàng Quảng Trị – Huế, con đường chạy giặc khủng khiếp từ cao nguyên về đồng bằng. Người lính Cộng Ḥa đến đâu, dân chúng chạy theo đến đó để được bảo vệ, cứu giúp.
Trong giây phút hấp hối của miền nam, người lính Cộng Ḥa chỉ c̣n biết lăn xả vào quân thù, đem thân ra che chắn cho đồng bào chạy thoát. Đó là dịp bằng vàng để quân đội Cộng Sản miền bắc hoan hỉ trả thù, người nào sống sót th́ đưa đi tù cải tạo, không có ngày về...
C̣n tiếp...
Bookmarks