Tiếp theo mọi người c̣n nhớ sau này , trong những ngày mấp mé bờ vực chiến tranh của nước Việt Nam , mới tiếp tục xuất hiện nhóm thơ Dạ Đài của Trần Dần, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch… Trong Bản Tuyên Ngôn Tượng Trưng nhóm Dạ Đài đă nói rơ thái độ phủ định văn học giai đoạn cũ và không dấu diếm ư đồ muốn tạo ra một ḍng văn học mới:
V́ thế, cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh, của bọn lăng mạn khóc bạn chẳng làm chúng ta quên, ví chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng bềnh của bản thanh âm hoàn vũ.
Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động.
Trần Dần thủ lĩnh của nhóm Dạ Đài sau mười năm, ở một ngă ba, ngă tư thời đại lại đă được trời đất cho nguồn cảm hứng về một cuộc lột xác cho nền văn học.
Hẳn là Trần Dần đă mang cái khát vọng sôi sục ấy vào các trường ca Cách mạng Tháng Tám, Đi- Việt Bắc, Nhất định thắng… và lôi cuốn các người bạn cùng theo. Trong nhật kư Ghi 1954 ông viết:
Lúc tôi muốn một thứ Thơ dễ dăi. Lúc một thứ Thơ không có vần. Lúc một thứ Thơ như một hạt ngọc. Lúc một thứ Thơ kể chuyện. Lúc một thứ Thơ gồ ghề. Lúc một thứ Thơ hiền lành, có cái khỏe của những bắp thịt hồng. Lúc một thứ Thơ na ná như của anh lính, nó mát mà lành, nó hiền mà khỏe, nó thực tế. Lúc là một thứ Thơ na ná như bài nói của anh cán bộ, nó đả thông, nó giục giă, nó lư luận.
Tôi thích Thơ thời sự, theo sát cái hồi hộp, lo lắng của Đảng tôi, dân tôi, triệu triệu quả tim dân chúng và quân đội, chiến sĩ và cán bộ, lănh tụ và quần chúng.
Tôi lại cũng thích Thơ không thời sự, Thơ bao trùm đất nước và thời gian, Thơ ăn lấn sang mọi thế kỉ, và Thơ nhập cả vào cái biện chứng bao la của sự vật.
V́ vậy bây giờ tôi muốn một thứ Thơ nào đó lấy đề tài ngay ở nhịp đập trước mắt của trái tim dân tộc Việt Nam.
Nhưng trong đề tài đó tôi đào măi đào măi tới khi tôi t́m thấy quả tim Nhân Loại. Đó là thực sự mà cũng là ư muốn của tôi. Quả tim dân tộc tôi có nghĩa là quả tim Nhân Loại. Nhịp đập của nó là nhịp đi của Biện Chứng. Cái ngày hôm nay là dồn ép của hàng triệu năm về trước và mở ra triệu thế kỷ về sau. Tôi muốn một thứ Thơ nào đó vạch ra được sự thực đó.
Hạt bụi, sợi tóc mây là cả một vũ trụ. Một khoảnh khắc là cả lịch sử của trần gian. Một thắc mắc của em là tất cả lo âu nhân loại.
Qua những ḍng này không ai có thể nghĩ đó là một quan niệm suy đồi. Thời đại đă cho Trần Dần một quan niệm thơ ca mới mẻ và rất biện chứng, rất tích cực đối với cuộc sống.
Như vậy có lẽ trước tiên NVGP đi từ cảm hứng của một cuộc cách tân văn học, bị kích thích bởi thời cuộc Việt Nam 1954- 1956. Tuy vậy, vẫn phải nói thêm rằng nếu không có cái thời cuộc đó sẽ không có NVGP!
Trong NVGP trào lưu tư tưởng chính trị và trào lưu tư tưởng văn học gặp nhau đă tạo ra một sức mạnh xă hội to lớn làm chính quyền nh́n thấy một nguy cơ đe dọa nguy hiểm cần phải loại bỏ hơn là để nó tồn tại. Lúc ấy miền Bắc Việt Nam chưa hẳn là chưa đủ điều kiện để làm một cuộc cải cách dân chủ, một cuộc cải cách văn học. Nhưng đáng tiếc cơ hội bị bỏ lỡ v́ tham vọng của bộ phận tả khuynh của ĐCSVN muốn ngay lập tức thống nhất đất nước, thủ tiêu chính quyền phía bên kia bằng vũ lực. Tham vọng này gặp được bộ phận những người chủ trương, tổ chức thực hiện CCRĐ lấy nguy cơ dân chủ để biện minh cho đường lối và hậu quả việc làm của họ.
Hai mươi năm sau khi NVGP bị đánh dẹp, 1979 văn nghệ Việt Nam lại lâm vào bế tắc khi chuyển giai đoạn thời chiến sang thời b́nh. Nhà văn Nguyên Ngọc với sự giúp đỡ của các chiến hữu đồng nghiệp miền Trung đă viết bản Đề cương đề dẫn thảo luận ở Hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học. ĐCĐD đă thẳng thắn nói ra những mặt yếu kém bế tắc của nền văn học Việt Nam lúc đó ( trừ văn học miền Nam dưới chế độ cộng ḥa) và đưa ra mấy vấn đề bức thiết có ư nghĩa cách tân trong đó có vấn đề dân chủ, tự do sáng tác.
Tất nhiên là sự diễn đạt của Nguyên Ngọc c̣n ở mức độ lễ phép, phải đạo nhưng ngay lập tức ông đă bị Tố Hữu cách chức Bí thư đảng đoàn HNVVN. ĐC ĐD bị các phần tử bảo thủ cơ hội phê phán kịch liệt nhưng năm 2010 trong khi viết lịch sử HNVVN các ông Hồng Diệu, Hữu Nhuận, Thái Kế Toại, Lê Quang Trang… đă coi ĐCĐD là hiện tượng tiền đổi mới của văn học Việt Nam.
Ba mươi năm sau, bị tác động bởi cuộc cách mạng dân chủ lần thứ hai của phe xă hội chủ nghĩa, đứng trước nguy cơ khủng hoảng nghiêm trọng, ĐCSVN mới đưa ra sách lược đổi mới. Trường Chinh đă làm được việc khởi xướng đổi mới, nền kinh tế đất nước đă có ít nhiều thay đổi, nhưng về chính trị th́ đó là cuộc đổi mới nửa vời phụ thuộc vào các bước đi của ĐCS Trung Quốc. V́ thế những di sản văn hóa Maoist mà Trường Chinh đă áp đặt lên đất nước từ 70 năm nay dù đang hoen rỉ nhưng bộ khung của nó th́ vẫn c̣n tù hăm đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Còn tiếp ...
Bookmarks