Sửa đổi Hiến pháp dựa trên nền tảng nguyên lư nào?
Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-01-28
Gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến bản dự thảo Hiến Pháp đề nghị của đông đảo trí thức mà báo giới nước ngoài xem như một h́nh thức "cách mạng mềm" trong chính trường Việt Nam.
Phản ánh nguyện vọng nhân dân?
Bản dự thảo Hiến Pháp do giới trí thức đề nghị xuất hiện ngay sau khi ông Phan Trung Lư, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc Hội Việt Nam tuyên bố "không có vùng cấm" nào đối với việc góp ư của toàn dân về việc tu chính Hiến pháp năm 1992.
Nói chung, bản dự thảo Hiến pháp của giới trí thức đề nghị bỏ lời nói đầu của bản Hiến pháp VN 1992 v́ nó mang "tính chất vi hiến" là bị áp đặt dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ không thực sự phản ánh nguyện vọng nhân dân; đề nghị bỏ tên nước hiện hành "CHXHCN Việt Nam "; đổi thể chế Chủ tịch sang Tổng thống chế; cho các đảng phái đối lập đúng nghĩa tham chính; bảo vệ quyền làm người; tôn trọng sở hữu tư nhân về đất đai; "rạch ṛi" tam quyền phân lập; lực lượng vơ trang phải bảo vệ đất nước, nhân dân, chứ không phải trung thành với đảng CS; cho trưng cầu dân ư về Hiến pháp... C̣n về Điều 4 Hiến Pháp, ông Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư kư Hội Trí thức yêu nước TP HCM, người kư tên trong bản kiến nghị dự thảo hiến pháp vừa nói, cho biết:
Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu, nhưng nếu Điều 4 c̣n th́ nó sẽ phủ định hết tất cả.
Ô. Huỳnh Kim Báu
“Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu, nhưng nếu Điều 4 c̣n th́ nó sẽ phủ định hết tất cả. V́ họ độc quyền lănh đạo mà nếu họ ghi những điều đó đồng thời với Điều 4 th́ Điều 4 sẽ phủ định hết tất cả những ǵ thay đổi.”
Qua bài "Hành tŕnh Hiến pháp Việt Nam dưới góc nh́n khoa học", tác giả Trần Xuân Hoài nhận xét rằng tính cho tới giờ, không kể thời Trung cổ, đă có 3 bản tuyên ngôn xă hội phổ biến nhất mà các xă hội loài người dựa vào đó làm nền tảng Hiến pháp, đó là Tuyên ngôn Độc lập Mỹ 1776, Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền Pháp 1791 và Tuyên ngôn CS 1848.
Liên quan vấn đề hiến pháp VN, theo GS Trần Xuân Hoài, th́ bản Tuyên ngôn độc lập mà ông Hồ Chí Minh tuyên bố ở Quảng trường Ba Đ́nh ngày 2 tháng 9 năm 1945 là bản tuyên ngôn xă hội chính thức duy nhất của VN cho đến nay, qua đó đưa những tiên đề xă hội của Tuyên ngôn độc lập Mỹ lên ngay ḍng đầu của bản Tuyên ngôn độc lập Việt Nam:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyên Pháp: "Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi”. Tuyên ngôn độc lập Việt Nam đă khẳng định: Đó là những lẽ phải không ai chối căi được.”
GS Trần Xuân Hoài nhận xét rằng trong gần 70 năm "hành tŕnh" của Hiến pháp XHCN Việt Nam với các tiêu đề xă hội như bản Tuyên ngôn độc 1945 đă khẳng định th́ " các quyền hiển nhiên như Độc lập, Tự do, B́nh đẳng, Dân chủ là những điều khắc sâu trong ḷng Việt Nam tất phải thể hiện thành lời trong Hiến pháp Việt Nam v́ Hiến pháp là văn bản pháp lư tối cao, với kỳ vọng là được bắt nguồn từ những lẽ phải không ai chối căi được". Nhưng "riêng 'Dân chủ' trong hành tŕnh hiến pháp Việt Nam có sự biến đổi bất thường nhất. Trong các phiên bản ban đầu, 1946, 1960, phạm trù này được nhấn mạnh nhiều, sau đó th́ giảm mạnh". Vấn đề là, theo GS Trần Xuân Hoài, cơ sở xây dựng hiến pháp phải v́ quyền lợi của toàn dân, hiến pháp phải thực sự của toàn dân, phải được toàn dân chấp nhận; "Khi Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở những lẽ phải không thể chối căi được, th́ việc chấp thuận của toàn dân là một lẽ tự nhiên. C̣n khi cơ sở là những lư lẽ dễ bị chối căi, dù cho Hiến pháp đó bằng cách này hay cách khác tuyên bố được nhân dân chấp thuận, th́ đó chỉ là sự áp đặt khiên cưỡng. Một Hiến pháp như vậy chỉ là h́nh thức, chỉ để tuyên truyền và tất nhiên không thể thực thi làm nền tảng cho sự phát triển hài ḥa, bền vững và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc".
Nghệ thuật phù phép ngôn từ
TS Hà Sĩ Phu nhận thấy "những gợi ư nhẹ nhàng và khách quan" của tác giả Trần Xuân Hoài "khiến ta dễ dàng đạt tới những nhận thức vô cùng thú vị", đó là:
1/ Tần suất những chữ "Độc lập”, “Tự do”, “B́nh đẳng” th́ tương đối ổn định. Riêng từ “DÂN CHỦ” được nhấn mạnh trong Hiến pháp 1946, nhưng sau đó th́ liên tục “giảm mạnh” ! Đúng là Nhân quyền bị “teo dần trong Hiến pháp”.
2/ Theo thời gian, sự giảm dần của yếu tố Dân chủ lại tương ứng với sự tăng dần của yếu tố Cộng sản và Chuyên chính...
Nếu ngay cả Hiến pháp cũng chỉ là bàn để cho vui th́ không có cái ǵ trên đời này có thể được coi trọng.
GS Hà Văn Thịnh
3/ Sự định danh lại vào Hiến pháp 1980 từ nhà nước dân chủ sang nhà nước CHUYÊN CHÍNH, là một bước ngoặt lớn, hiếm có quốc gia nào có được sự tự định danh chính thức là nhà nước CHUYÊN CHÍNH như Hiến pháp 1980 của nước ta. Từ một Hiến pháp năm 1946 dựa trên những tiên đề “không ai có thể bác bỏ” đă du nhập thêm những tiên đề rất dễ bị bác bỏ, nhiều người muốn bác bỏ. Càng củng cố được quyền lực, sự Chuyên chính càng bộc lộ một cách trực diện, ngang nhiên và được pháp chế hóa thẳng thừng.
4/ Chuyên chính tăng lên th́ Dân chủ giảm đi là dễ hiểu, nhưng lạ một điều càng Chuyên chính th́ Hiến pháp càng tô rơ thêm hai chữ Nhân dân...
TS Hà Sĩ Phu viện dẫn một bài báo trong tờ Quân đội nhân dân tựa đề " Đừng nhầm lẫn từ 'nhân dân' trong Hiến pháp" để hiểu ngay rằng chỉ có những người đi theo đảng CS làm cách mạng mới được giới cầm quyền cho là "nhân dân", "nhân dân phải mang tính giai cấp". Nghĩa là, theo TS Hà Sĩ Phu, các khái niệm "dân chủ" và "nhân dân " đă bị đánh tráo, và hai chữ "độc tài" nghiễm nhiên hiện diện trong Hiến pháp qua hai chữ "chuyên chính" của Trung Quốc, do "nghệ thuật phù phép ngôn từ", trong khi việc nhập nhằng giữa khái niệm "nhà nước" với "chính quyền"; "quyền con người" với "quyền công dân"; "quyền độc lập của một dân tộc" với "quyền độc lập của mỗi cá nhân"...cũng là một "thủ thuật pháp lư láu cá". Và TS Hà Sĩ Phu khẳng định "chừng nào việc soạn thảo và quyết định Hiến pháp c̣n do một tập thể mà tuyệt đại đa số (trong tập thể ấy) là người của một phe, một đảng th́… xin đừng tranh biện làm ǵ cho hoài công!
Nhân chuyện sửa đổi Hiến pháp Việt Nam, GS Hà Văn Thịnh đề cập "Vài nét về Hiến pháp Mỹ", lưu ư tới bậc tổ tiên của nhà nước Mỹ "đoan quyết rằng phải thành lập một mô h́nh nhà nước hoàn toàn mới, không giống với bất kỳ ai; và, quan trọng nhất, nó phải là nhà nước thực sự của dân, do dân, v́ dân. Sáu chữ đó là sáu chữ vàng bởi nó trở thành nền tảng, cội nguồn, nguyên tắc bao trùm mọi nguyên tắc trong suốt quá tŕnh soạn thảo Hiến pháp (của Hoa Kỳ)". Nh́n chung, theo GS Hà Văn Thịnh, Hiến pháp Mỹ h́nh thành trên cơ sở "định hướng t́m tới sự hoàn hảo cụ thể; được cụ thể hóa thành nhiều nguyên tắc lập pháp, chẳng hạn như:
-Tạo dựng nền tảng Hiến pháp trường tồn bằng cách khẳng định rơ những điều không bao giờ thay đổi như "quyền tư hữu là thiêng liêng bất khả xâm phạm; quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; quyền người dân ủy nhiệm cho chính quyền, nhân dân có quyền bầu và băi nhiệm chính quyền đó...". C̣n những điều có thể thay đổi th́ Hiến pháp dự trù các khoản bổ sung gọi là "Tu chính án".
-Nhân dân Mỹ chọn mô h́nh nhà nước tam quyền phân lập giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp. Ṭa án hoàn toàn độc lập, không bị bất kỳ áp lực nào. Nhưng cũng có thiết chế cho người dân được quyền giám sát, quyết định về phán quyết của ṭa, chẳng hạn dưới h́nh thức Bồi thẩm đoàn.
-Thiết lập cơ chế ngăn chận mọi ư đồ thao túng và sửa đổi Hiến pháp với "mưu đồ lạm quyền" của thiểu số cầm quyền. Theo nguyên tắc này, quyền tham gia của mọi công dân là tối hậu.
-Mỗi đảng phái, trước Hiến pháp, chỉ là một tổ chức công dân, chịu sự điều chỉnh của luật pháp.v.v...
Nói chung, theo nhận xét của GS Hà Văn Thịnh, mô h́nh nhà nước Mỹ - nhà nước hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài người - "chưa thể t́m thấy sự đối sánh nào khả dĩ hiệu quả hơn, đó là mô h́nh nhà nước chưa hề có tiền lệ, với bản Hiến pháp, cho đến nay, là độc nhất vô nhị, trường tồn, bất chấp sự thay đổi về thời gian và không gian". Thế c̣n VN th́ sao? GS Hà Văn Thịnh mong mỏi rằng:
“Việc lấy ư kiến đó không phải là chuyện h́nh thức, bởi một sự thật giản dị: Nếu ngay cả Hiến pháp cũng chỉ là bàn để cho vui th́ không có cái ǵ trên đời này có thể được coi trọng! Một bản Hiến pháp khoa học, nhân văn, phù hợp ư nguyện của toàn dân, xu thế của mọi thời đại, chắc chắn là nguyên tắc, điều kiện đầu tiên cho sự phát triển vững bền...”
Qua bài "Hiến pháp là nền tảng, c̣n nền tảng hiến pháp (th́ sao) ?", TS Nguyễn Sỹ Phương lưu ư tới hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo đều dựa trên nền tảng kinh Koran, với 3 chủ thể: Vai tṛ lănh đạo tinh thần thuộc giáo chủ; nhà nước quyết định mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xă hội, văn hóa...; người dân có bổn phận phải chấp hành, được củng cố bằng tín điều Hồi Giáo trong kinh Koran.
Trong khi nền tảng Hiến pháp Hoa Kỳ th́ chính người dân chứ không phải ai hết là chủ nhân thực sự của đất nước, có toàn quyền định đoạt Hiến pháp.
Và TS Nguyễn Sỹ Phương nêu lên câu hỏi " Vậy Dự thảo sửa đổi Hiến pháp ta hiện nay dựa trên nền tảng nguyên lư nào? Nguyên lư đó đă thực sự xuất phát từ ư chí, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân không ?"
Thanh Quang xin cảm ơn và kính chào tạm biệt quư vị.
Bookmarks