TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
Tác giả: Peter Macdonald
Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
Chương 16: Chiến tranh của lính Mỹ
Trong một t́nh trạng nổi dậy, nếu anh không thắng lợi, anh sẽ tổn thất, v́ kẻ địch luôn luôn có thể giữ nguyên trạng mà không chịu một chút nhượng bộ nào.
Sir Robert Thompson
Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1965 các đơn vị tinh nhuệ của quân đội Mỹ đến Việt Nam: sư đoàn cơ động không vận số 101, sư đoàn bộ binh 1 và sư đoàn ky binh không vận số 1, sư đoàn này là một sư đoàn bộ binh được tăng cường sức cơ động nhờ sử dụng số lớn máy bay lên thẳng. Các sư đoàn này tiếp sau sư đoàn 25 một thời gian ngắn. Những sư đoàn khác c̣n tiếp tục vào miền Nam Việt Nam cho đến 10 sư đoàn Mỹ và hai phần ba sư đoàn nữa kéo vào Việt Nam.
Các sư đoàn 1 và 25 tạo thành một vành đai cứ điểm pḥng ngự xung quanh Sài G̣n c̣n 2 lữ đoàn Nam Triều Tiên (con Hổ và Ngựa trắng) chịu trách nhiệm pḥng ngự bờ biển ở phía Nam vĩ tuyến 17.
Các đơn vị khác của Mỹ và quân ANZAC-các lực lượng Úc và Tân Tây Lan hoạt động trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Song song với sự bố trí này, các đơn vị miền Nam Việt Nam hoạt động trong khắp đất nước thực hiện nhiệm vụ "b́nh định": sự hiện diện của quân ngụy coi như có tác dụng răn đe quân Việt Cộng đồng thời khuyến khích dân chúng ủng hộ chính quyền Sài G̣n.
Cho đến cuối năm 1965, quân ngụy miền Nam Việt Nam đă mất trung b́nh mỗi tuần lễ một tiểu đoàn bộ binh và một huyện ly. Trong rừng cây cao su Michelin mênh mông, trung đoàn 272 của sư đoàn 9 Việt Cộng gây nên những tổn thất nặng nề cho trung đoàn 7 quân ngụy ARV (hàng trăm lính chết và bị thương). Năm sau tháng 2 ông Giáp gửi vào miền Nam trung đoàn 32 của Quân đội nhân dân Việt Nam (APV) đến tháng 8 thêm trung đoàn 33. Cả hai trung đoàn đều dưới quyền chỉ huy của Tướng Chu Huy Mân. Sau một trận đụng độ ác liệt, một bộ phận của trung đoàn 33 bị sư đoàn ky binh không vận số 1 loại khỏi ṿng chiến đấu và chịu thất bại nặng, nhưng so với những tổn thất toàn bộ của lực lượng Mỹ và miền Nam Việt Nam th́ chẳng thấm vào đâu chỉ như một mũi kim châm. Phải tiếp tục hành động.
Ở Việt Nam, quân Mỹ bố trí ba loại văn pḥng quân t́nh báo: dịch vụ t́nh báo quân sự; hoạt động cùng với các đơn vị và binh đoàn Mỹ; dịch vụ t́nh báo dân sự phụ thuộc CIA và kết hợp với quân đội và cảnh sát miền Nam Việt Nam; và những dịch vụ t́nh báo chiến lược tập trung những tin tức do không quân và vệ tinh cung cấp. Khai thác những tin tức t́nh báo do các cơ quan dịch vụ t́nh báo cung cấp. Các vị chỉ huy quân đội Mỹ xác định vị tŕ các đơn vị của đối phương. Khi một mục tiêu quan trọng được xây dựng, họ tấn công một lực lượng hỏa lực mạnh. Chủ trương của họ là t́m kiếm địch, rút về dùng hỏa lực mạnh để tiêu diệt mục tiêu.
Một số lượng ngày càng tăng lính bộ binh và thủy quân Mỹ triển khai ở vùng rừng núi và đồng bằng để tấn công quân Việt Cộng mà họ vẫn gọi là "Charlie Cong” như trong vô tuyến điện thường dùng “Victor Charlie" để chỉ Việt Cộng. Thất vọng v́ những cố gắng không hiệu quả của họ, những người lính trẻ hoàn toàn b́nh thường trở thành những tên lính đánh thuê bạo tàn. Những hành động tàn bạo ghê gớm của sư đoàn Nam Triều Tiên "Rồng xanh" ở Binh Hoa và của sư đoàn 23 bộ binh Mỹ lại là những triệu chứng của một sự điên dại không tha thứ được do t́nh trạng vô cảm và bế tắc gây nên; (trong cả hai trường hợp hơn 500 người bị giết). Ở Binh Hoa, lính Nam Hàn đă giết nhân dân-đàn ông, đàn bà và trẻ con-của một làng từ chối kiên quyết việc không giúp đỡ Việt Cộng. Ở Mỹ Lai một đại đội bộ binh Mỹ trở thành điên dại chẳng có lư do ǵ họ đến đây để căm thù tất cả những người Việt Nam.
Nói chung và trong suốt cuộc chiến tranh, quân Mỹ và quân đồng minh đă tiến hành các cuộc hành quân có chỉ huy và kỹ thuật.
Từ tháng giêng đến tháng 3 năm 1966 cuộc hành quân Masker càn quét trong tỉnh B́nh Định làm cho đối phương chết khoảng 1.000 người và 1.700 người bị bắt làm tù binh. Tiếp theo là cuộc hành quân Doulle Eagle càn quét tỉnh Quảng Ngăi. Trong các cuộc hành quân Thayer và Irving, napalm được sử dụng rộng răi. Rồi các cuộc hành quân tiếp nối nhau: Five Ariow, Highway 9, Jeb Stuanrt, Byrt, Pershing, Saratoga, yellow stone... Hàng chục cuộc hành quân gây tổn thấy nghiêm trọng cho đối phương. Những đàn máy bay lên thẳng xuất phát từ các căn cứ phía trước và bay vào rừng rậm đến điểm được tin có địch. Được pháo binh và không quân yểm hộ mạnh mẽ, thỉnh thoảng có sự giúp sức của quân ngụy miền Nam ARV, các đội quân Mỹ và đồng minh tấn công vào các mục tiêu với hỏa lực dày đặc rồi rút lui thường vào lúc xế chiều.
Hàng ngh́n lính, máy bay, máy bay lên thăng và vũ khí các loại thuộc về bao nhiêu căn cứ lớn, không ngừng phát triển xung quanh Đà Nẵng, Chu Lai, Long B́nh, Biên Ḥa. Nhưng bân thân các căn cứ này cũng không vững chắc. ở Đà Nẵng, toàn bộ vùng dân cư cho đến tận hàng rào xung quanh sân bay là do Việt Cộng kiểm soát: màn đêm buông xuống, các con đường vào căn cứ và cảng đều bị cấm.
Thỉnh thoảng, quân đồng minh cũng gây thương vong nhiều cho đối phương. Và thỉnh thoảng như ở Ban Nang, Nha Do, Cam Xe, Bâng Trang, Pleime, B́nh Định, họ cũng bị tổn thất nặng. Đối với hàng chục ngh́n lính Mỹ và quân đồng minh, tên gọi của các địa điểm ấy cũng như tên của hàng chục cuộc hành quân-Double Eagle, Dragon Fine, Shenandoah, Starlight, Silver Bayonet... thỉnh thoảng gợi lại kỷ niệm khát, mồ hôi, sợ hăi, bồi hồi và đôi lúc vui vẻ như điên. Họ không bao giờ quên những thân h́nh đẫm máu, những chiếc xương găy nát, những tiếng kêu của người sắp chết, thất vọng vô cùng, đau thương cho đất nước, nỗi kinh hoàng triền miên.
Những trận tấn công khác được triển khai năm 1966: tháng 4 Abiline và Birmingham, tháng 6: El Pa so. Cuối cùng từ 14 tháng 9 đến 24 tháng 11 một cuộc hành quân lớn Attleboro đề ra không bao giờ thực hiện đúng ngày. Trong cuộc hành quân đó 22.000 lính sử dụng 1.200 tấn đạn dược và chiếm 2.000 tấn gạo và 19.000 quả lựu đạn, 500 ḿn và một xưởng chế tạo ḿn. Đối phương chết 2.000người, trong đó một nửa do máy bay oanh tạc; thương vong của Mỹ là 155 người.
Cuối 1966 những dịch vụ t́nh báo cho biết có khoảng 280.000 lính Việt Cộng và Quân đội nhân dân Việt Nam do 8.000 cán bộ chỉ huy đang hành quân vào Nam. Một phản ứng lớn lại tiếp tục.
Các cuộc hành quân nối tiếp nhau Cedar Falls và Junction City những cuộc hành quân quan trọng nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh đă đạt một đỉnh cao mới. Gần 300.000 người được điều động vào Tam giác sắt. Theo phân tích của dịch vụ t́nh báo, có rất nhiều lực lượng đối phương ở đó: trung đoàn 272 của Quân đội nhân dân Việt Nam, hai tiểu đoàn của trung đoàn 165 chủ lực Việt Cộng, tiểu đoàn Phú Lợi, hai tiểu đoàn tự trị của Việt Cộng và có thể cả tổng hành dinh của Trung ương Cục miền Nam Việt Nam.
Tam giác sắc có tên gọi như vậy do h́nh dáng của khu vực pḥng ngự của Việt Cộng bao gồm giữa hai ḍng sông, cách Sài G̣n về phía Tây Bắc hơn 30km:-một cự ly không đáng lo ngại trong ḷng tam giác sắt là một hệ thống địa đạo, mọi con đường cái, đường ṃn đến đó đều có chông bẫy.
Mục đích của cuộc hành quản là đánh vào các đơn vị và tổng hành dinh trong tam giác để đuổi đối phương ra xa thủ đô. Họ phải thực hiện một hoạt động càn quét vê hướng Đông Nam (búa) buộc đối phương phải chống lại một lực lượng phong tỏa triển khai chặn phía Nam (đe).
Cuộc hành quân Cedar Falls bắt đầu ngày 8 tháng giêng năm 1967 bằng việc càn quét 6.000 dân làng rời khỏi chung quanh tam giác trong đó có một số đă bị Việt Cộng kiểm soát 2 năm nay. Sau đó làng Bến Súc ở góc Tây bắc bị tiến công và xóa sách. Lính phải mất 3 ngày dùng axêtylen và thuốc nổ để phá hỏng những đường hầm của làng xây dựng trên 3 mức (v́ khí làm cháy nước mắt sử dụng để đuổi đối phương ra khỏi đường hầm trước khi quân Mỹ xuống hầm, lính bộ binh và công binh-được gọi là "chuột cống"-bắt buộc phải mang mặt nạ pḥng hơi độc. Được trang bị đuốc điện, súng lục và mặc áo chống đạn, họ phải thực hiện nhiệm vụ độc hại và nguy hiểm trong toàn bộ các làng mạc mà quân Mỹ chiếm được).
Trong lúc này cái "đe" của sư 25 Mỹ có lữ đoàn Mỹ tự do và đoàn 25 ngụy ARV yểm hộ thiết lập 13 vị trí tại chỗ. Quân liên minh đă giết 835 địch và phát hiện được khu vực văn pḥng Trung ương Cục miền Nam, khốn nỗi, chim đă bay đi mất.
Tiếp theo cuộc hành quân Cedar Falls là cuộc hành quân Junction City. Cuộc hành quân này bắt đầu nửa tháng hai, lúc lữ đoàn không vận 173 Took Foice Deane (tên của người chỉ huy tướng John R.Deane Jr) dùng 16 máy bay C130 nhảy dù xuống các vị trí của họ. Cùng với lữ đoàn 3 của sư đoàn Mỹ 11, lữ đoàn không vận này trở thành cái búa. Từ 18 tháng 3 đến 15 tháng 4, hai đội h́nh tiến về hướng "cái đe". Trong đợt này 1.900 lính địch bị giết.
Sư đoàn 9 quân giải phóng miền Nam, tấn công chiếm lại làng mạc bị quân Mỹ chiếm đóng: ấp Bàu Bàng, Suối Tre và Ap gu; sư đoàn bị thiệt hại lớn v́ máy bay ném bom thả hàng tràng bom sát thương trên một vùng rộng lớn, cùng với máy bay B52 ở độ cao và mật độ hỏa lực pháo binh dày đặc đúng vào đội h́nh của sư đoàn.
Trong các cuộc hành quân của Cedar Falls và Junction City, máy bay Mỹ đă thả xuống gần một chục triệu truyền đơn và những máy bay lên thẳng dùng loa phát thanh đưa ra vô số lời kêu gọi để thuyết phục quân đối phương đào ngũ theo những cán bộ chiêu hồi th́ sẽ được tha thứ. Rơ ràng mục đích làm yếu Việt Cộng có đạt được nhưng lẻ tẻ vài người lính đối phương nghe theo lời kêu gọi của họ. Ngoài ra khoảng 6.000 cán bộ dân sự Việt Nam được bác sĩ Mỹ săn sóc theo chương tŕnh viện trợ dân sự gọi là Medcapi Assistance. Ba căn cứ không quân Việt Nam bị giết được thiết lập. Tất cả có 2728 Việt Cộng và quân đội nhân dân trong 2 cuộc hành quân hỗn hợp này. Về phía Mỹ có 282 lính chết và hơn 1.500 bị thương.
Ở Hà Nội, ông Vơ Nguyên Giáp khẳng định Junction City là một thắng lợi lớn của Việt Cộng và hơn 13.000 quân đồng minh bị tiêu diệt.
Chắc chắn rằng cuộc hành quân này cũng như các cuộc hành quân cùng loại khác đă làm nhụt chí quân Việt Cộng ở mức độ nhất định. Đồng thời làm đảo lộn kế hoạch của Trung ương Cục miền Nam v́ bắt buộc phải di chuyển tổng hành dinh, đem các đơn vị và căn cứ của Quân đội nhân dân Việt Nam sang Campuchia, đồng thời phải sử dụng các nguồn cung cấp do đường ṃn Hồ Chí Minh chuyển vào trên vùng biên giới mà không c̣n sứ dụng được những nguồn cung cấp tại chỗ của nhân dân; hơn nữa, các đơn vị quân giải phóng miền Nam đóng căn cứ trong các làng mạc và trong rừng có thể ít trông chờ vào sự yểm trợ tức thời của bộ đội chủ lực của quân đội nhân dân. Hiển nhiên quân Mỹ đă được đầu tư vào các cuộc hành quân một nỗ lực lớn với một nguồn vật chất và tài chính quan trọng. Về số lượng cuộc hành quân dựa trên cơ sở sửdụng một lực lượng hùng hậu phô trương như vậy, song kết quả chẳng được bao nhiêu nếu tính theo số tổn thất của đối phương và vũ khí bị phá hoại-phải chăng v́ một tỉ lệ lớn bom đạn nổ trong rừng không có dân cư. Hai ngày sau khi quân Mỹ rút khỏi tam giác sắt, Việt Cộng lại trở về vị trí của họ.
Bản thân tướng Westmoreland cũng đă ca ngợi ḷng dũng cảm và trí khôn của đối phương Việt Nam, đúng như ông Giáp đă nhấn mạnh về họ. Ông kể rằng nhiều nạn nhân đối phương đă săm ḿnh: "Sinh ra ở miền Bắc để chết ở miền Nam" và họ làm điều đó rất tự nguyện. Tướng Bernard Rogess người đă tham gia Junction City sau đó được bổ nhiệm làm tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh ở châu Âu nói rằng các chiến sĩ Việt Cộng thật "trung thành với sự nghiệp, kỷ luật, kiên nhẫn và dũng cảm".
Đó đúng là vấn đề.
Thất bại và thất vọng, những người lính Mỹ không c̣n hiểu ǵ nữa. Không c̣n giải pháp nào trông thấy khả dĩ. Họ có cảm giác như có một cánh tay què, v́ họ không thể mang chiến tranh lên miền Bắc, nhưng làm sao người ta có thé cho phép họ, trong khi lư do có mặt ở đây là để ngăn chặn miền Bắc Việt Nam xâm nhập vào miền Nam? Làm sao chính phủ Hoa Kỳ có thể bảo lănh một loại xâm lược như vậy để lấy cớ cho Mỹ can thiệp được?
V́ các cuộc hành quân tác chiến với bất kỳ quy mô nào cũng không làm thay đổi được t́nh thế, tháng 5 năm 1965 họ đă có dự kiến sử dụng vũ khí nguyên tử, nhưng ư tưởng này bị loại bỏ v́ người ta sợ dư luận thế giới, trong cuộc chiến tranh lạnh Hoa Kỳ không thể để mất tín nhiệm của một phần ba thế giới. Tất cả mọi nỗ lực không thể ngăn chặn làn sóng người về phương tiện vật chất theo đường ṃn Hồ Chí Minh vào miền Nam. Ném bom oanh tạc chẳng có ư nghĩa ǵ. Lập tức hàng đàn dân công đến lấp hố bom, sửa chữa cầu đường, hoặc tạo dựng một lối rẽ. Cuối nguồn lực, Bộ trưởng Bộ quốc pḥng Robert Mc Namara cho thiết lập một đường dây gồm các máy ḍ t́m từ bờ biển cho đến biên giới Lào. Kế hoạch này được đặt tên là Die Marker yêu cầu xây dựng 250 km hàng rào điện tử bằng những dụng cụ điện tử mới lạ: Công việc đă bắt đầu tháng 4 năm 1967, nhưng phương án quá phức tạp chưa tinh đến tốn kém nên bị bỏ dở.
Robert Strange Mc Namara sinh ngày 9 tháng 6 năm 1916 ở San Francisco. Tốt nghiệp trường đại học California ở Berrkeley và Harvard Business School, chàng trai kỳ diệu này nhanh chóng được phong hàm trung tá trong chiến tranh thế giới thứ hai và trở thành chủ tịch của hội Ford. Tháng chạp năm ấy, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ quốc pḥng của Chính phủ Kennedy và vẫn giữ nguyên vị trí khi Johnson trở thành tổng thống.
Tổng thống Kennedy rất đề cao Mc Namara cho nên sau khi bắt đầu can thiệp vào miền Nam Việt Nam được ít lâu Bộ quốc pḥng bắt đầu được đưa lên hàng đầu trong chính sách chính trị, đồng thời đảm nhận một chức trách theo truyền thống giành cho Bộ quốc gia. Trong những năm tháng chiến tranh, Mc Namara có một ảnh hưởng rất to lớn: không những ông là người chịu trách nhiệm thực hiện các quyết sách chính trị mà ông c̣n là một trong những người đề ra các quyết sách đó.
Tháng 5 năm 1967 con người có trách nhiệm then chốt trong việc lănh đạo chiến tranh mấy năm qua đă viết cho tổng thống Johnson: h́nh ảnh của siêu cường thứ nhất thế giới giết và làm bị thương nặng cho một ngh́n người không có vũ khí trong một tuần lễ, chỉ để đè bẹp một quốc gia nhỏ bé lạc hậu, v́ một lư do c̣n phải tranh căi, thật chẳng thú vị ǵ "một ngh́n dân thương vong trong một tuần". Ông Mc Namara đă nói với tổng thống như vậy. Như người ta có thể trông đợi, rất nhiều thành viên của trung tâm chính trị và quân sự cho rằng tuyên bố này đưa ra một đánh giá sai lầm về t́nh thế và coi đó là một tín hiệu Mc Namara suy sụp.
Mùa hè năm 1967 Mc Namara tham dự hội thảo về "Công thức ḥa b́nh ở San Antonio", định đàm phán với miến Bắc Việt Nam về việc ngừng ném bom. Tháng mười, Hà Nội bác bỏ dự định này. Tháng 11, Mc Namara cuối cùng đă kết luận rằng việc can thiệp quân sự kéo dài bảy năm qua là "phù phiếm và vô đạo đức" Mc Namara đă báo cáo tổng thống rằng việc "b́nh định" không đạt được tiến bộ nào, và chiến dịch ném bom Rolling Thunder cũng không làm giảm được sự xâm nhập và không lung lay tinh thần của Hà Nội. Những đề nghị của ông ta là: giữ nguyên quân số của Mỹ ở Việt Nam như hiện nay, chấm dứt các cuộc ném bom; chuẩn bị bí mật để đàm phán ḥa b́nh với Hà Nội.
Thật quá sức đối với Johnson khi ông đang bị ám ảnh hoàn toàn v́ ư tưởng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh, gây thiệt hại cho bao nhiêu vấn đề nội bộ và quốc tế mà chính phủ của ông đang phải đối mặt. Làm sao ông có thể nhận ra rằng tất cả những con người chết và những cố gắng lớn lao ấy lại chỉ mất thời gian? Mc Namara ra đi. Tháng 2 năm 1991 sau 24 năm im lặng lần đầu tiên nói về Việt Nam,ông đă gần cho một nhà báo rằng ông vẫn chưa bao giờ biết rằng ông được phép từ chức hay ông bị mất chức.
Rơ ràng không phải chỉ có chiến tranh trên mặt đất. Trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, các thuyền con chạy lùng sục để ngăn chặn hoặc giám bớt hoạt động của Việt Cộng dùng ḍng sông Rừng Sạt để đến gần Sài G̣n. Ngoài biển các tàu thủy của hạm đội 7 lùng sục không ngớt trong Vịnh Bắc Bộ bất chấp chẳng có tàu thuyền đối phương. Bọn chúng đă yểm trợ hỏa lực pháo binh cho lực lượng trên bộ đến khoảng cách gần nhất. Trong khi các hàng không mẫu hạm từ các căn cứ phía Nam Việt Nam, Thái Lan hoặc trong Thái B́nh Dương tăng cường lực lượng cho không lực Hoa Kỳ. Máy bay của hải quân Mỹ cất cánh được sáp nhập vào kế hoạch tác chiến của không quân. Mấy năm ṛng, rất nhiều tàu thủy và thủy thủ thực hiện một ṿng cung từ California đến bờ biển châu Á để tham gia không chiến. Lúc ban đầu mọi trường hợp đều ưu tiên cho các cuộc ném bom chiến lược.
Kế hoạch Rolling Thunder được thực hiện ngày 2 tháng 3 năm 1965. Vào thời kỳ, bộ tư lệnh các lực lượng Thái B́nh Dương ở Honolulu đă quyết định 12 ngày ném bom dày đặc bằng không quân kết hợp với hỏa lực pháo binh mật độ cao của hạm đội 7 đủ sức vô hiệu hóa khả năng ủng hộ của miền Bắc Việt Nam cho miền Nam. Họ đă nhầm có đến 120 ngày và đến cả hàng năm trời ném bom vẫn không chấm dứt được việc cung cấp theo đường Hồ Chí Minh.
Tháng 7 năm 1966 được tin Rolling Thunder chỉ có tác động yếu ớt, tổng thống Johnson nâng giới hạn cho phép đánh phá các kho xăng dầu và đạn dược trên toàn lănh thổ miền Bắc Việt Nam. Mùa xuân năm 1967 thấy không giảm bớt làn sóng người và phương tiện vật chất vào miền Nam, tổng thống cho phép không lực Hoa Kỳ đánh vào các trung tâm điện lực, các sân bay và các nhà máy xí nghiệp của vùng Hà Nội và Hải Pḥng, đồng thời phong tỏa ḿn ở các cảng miền Bắc. Kế hoạch tác chiến kết thúc ngày 31 tháng 10 năm 1968, chấp nhận đàm phán ḥa b́nh.
Những con số thống kê đáng ngạc nhiên: 350.000 lần máy bay cất cánh, 655.000 tấn bom trút xuống phía Bắc vĩ tuyến 17, 918 máy bay Mỹ bị bắn rơi với 818 phi công chết hoặc mất tích.
Lănh thổ phía Nam của miền Bắc Việt Nam đă phải chịu đựng máy bay ném bom nhiều gấp 20 lần, những nơi khác. Hai mươi triệu quả bom Mỹ tàn phá tất cả các thành phố làng mạc ở phía Nam Hà Nội kể cả An Xá, nơi sinh trưởng của ông Giáp. Năm thành phố Phủ Lư, Ninh B́nh, Thanh Hóa, Vinh và Hà Tĩnh bị xóa sổ trên bản đồ.
Ngày 1 tháng 11 năm 1968 trong các làng địa đạo quây quanh Vĩnh Linh gần vĩ tuyến 17, bảy mươi ngh́n người đă 3 năm rưỡi nay lần đầu tiên được trông thấy ánh sáng mặt trời mà không sợ chết. Gần như những con xuyên sơn, họ đă đào sâu xuống dưới mặt đất 6m làm thành nhà cửa dưới hang nối liền với nhau bằng một mạng lưới hầm hào. Ban ngày họ cấy, gặt, giúp đỡ quân đội, sửa chữa đường xá, sẵn sàng chui xuống hầm khi máy bay xuất hiện phía chân trời, và ra ngoài một lúc để cho con mắt trẻ con quen với ánh sáng ban ngày. Ban đêm họ về hang thắp sáng ngọn đèn dầu và ngủ trong không khí ô nhiễm. Vĩnh Linh là mục tiêu bị bom đạn nhiều nhất và trong thời gian lâu nhất so với các khu vực khác ở Việt Nam, tuy dân cư chỉ là những người dân thường. Một nửa triệu tấn bom và đạn dội xuống cái thị trấn nhỏ này = ¼ của số bom đạn dùng trong chiến tranh thế giới thứ hai, một nửa số bom đạn trong chiến tranh Triều Tiên.
Phủ Lư, một thị xă và phố chợ nhỏ với vài chục ngh́n dân cách Hà Nội 50km về phía Nam đă liên tục bị bom 8 ngày từ mùng 1 đến mùng 9 tháng 10 năm 1966, thị xă không c̣n ǵ. Ở Ninh B́nh thị xă của tỉnh và trung tâm buôn bán của 25.000 dân, trước đây là vùng công giáo chính của Việt Nam, chỉ c̣n lại mũi tên của nhà thờ sau khi máy bay ném bom đi qua. Hà Tĩnh, tỉnh lỵ của tỉnh ở trên vĩ tuyến 18 đă phải chịu đựng 25.529 trận oanh tạc của không quân từ năm 1965 đến năm 1968, một cuộc không tập suốt 90 phút trong 1.200 ngày.
Bookmarks