21. HÀ BÁ LẤY VỢ
Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con gái ném xuống sông để làm vợ cho Hà Bá. Sự mê tín ấy có đă lâu ngày, không ai phá nổi.
Lúc ông Tây Môn Báo, đến làm quan ở đấy, ông thân hành ra đứng làm chủ lễ cưới cho Hà Bá. Trước mặt đông đủ cả bô lăo, hào trưởng, ông đồng bà cốt, ông cho gọi người con gái đến. Ông xem mặt xong, chê rằng: "Người con gái này không được đẹp! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà bá xin hoăn lại hôm khác, để t́m người đẹp hơn". Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng xuống sông.
Một lúc, ông nói: "Sao lâu thế này!" Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ. Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông.
Một lúc, ông nói: "Sao không thấy tin tức ǵ cả! Chừng lũ đồng cốt xuống nói không nên lời. Dám phiền các cụ bô lăo đi giúp cho. Lại lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông.
Một lúc, ông nói: "Sao măi không thấy về thế này! Bọn đồng cốt, bô lăo dễ đi cũng không được việc, phải nhờ đến bậc hào trưởng mới xong."
Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt lại van lạy xin thôi. Tây Môn Báo nói: "Để thong thả ta xem đă..." Mọi người run như cầy sấy. Một chốc ông mới bảo: "Thôi tha cho họ. Thế là Hà bá không lấy vợ nữa rồi".
Thành thử từ đây dân đất Nghiệp không ai dám nhắc đến truyện Hà bá lấy vợ nữa.
Sử KưGIẢI NGHĨA
Sử Kư: c̣n được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mă Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Kư trong Phụ Lục D, Tư Mă Thiên trong Phụ Lục C).
Nghiệp: tên một huyện đời nhà Hán tức là huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam bây giờ.
Tây Môn Báo: người nước Ngụy thời Chiến Quốc làm quan rất giỏi, trừ được hại, hưng được lợi cho dân.
Tục: thói quen lưu truyền lâu ngày đă thành nếp. Hà bá: Thần ở dưới nước. (2)
Mê tín: tin một cách mê muội không biết lẽ phải là thế nào nữa. (2)
Thân hành: chính ḿnh đi làm lấy một việc ǵ. (2)
Bô lăo: các cụ già. (2)
Hào trưởng: kẻ có quyền thế, làm bực trên trong dân làng. (2)
LỜI BÀN
Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát nhà, có khi mất cả mạng, thật là tai hại. Khi mê tín đă thành tục, th́ khó ḷng mà phá nổi. Muốn phá, tất phải dụng tâm khéo làm sao mới được. Ông Tây Môn Báo sở dĩ mà phá nổi cái tục cưới vợ cho Hà bá là v́ ông biết trừ tự cái gốc rễ; tức là đám đồng cốt quàng xiên, bọn cường hào ngoan cố, xưa nay quen thói cổ hoặc nhũng nhiễu người ta để kiếm ăn, để cầu lợi. Trừ hai hạng ấy để cứu vớt lương dân, chỉnh đốn phong tục thật là công minh và cương quyết vậy.
22. GHÉT CON KHÔNG GIỐNG M̀NH
Doăn Văn Tử sinh được một đứa con, không thấy giống ḿnh, lấy làm giận lắm, thường đánh đập luôn. Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến chơi bèn nói rằng: "Nó không giống tôi, không phải là con tôi. Tôi lại ngờ mẹ nó có ngoại t́nh mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ ..."
Tử Tư hỏi: "Cứ như ông nói th́ vợ vua Nghiêu vua Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư? Hai ông là bậc thánh đế mà đẻ ra Đan Chu và Thương Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế th́ c̣n cái ǵ mà giống cha? Cái đạo thường, th́ phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ ra con được như vậy. Nhưng cha hiền mà đẻ con ngu th́ cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ đâu?"
Doăn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: "Thôi, xin ông đừng nói nữa."
Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ.
Khổng Tùng TửGIẢI NGHĨA
Khổng Tùng Tử: tên bộ sách, ba quyển, 21 thiên của nhà Bác sĩ là Khổng Phụ làm ra. Khổng Phụ, tên Tử Ngư hay Tử Giáp, cháu đời thứ tám đức Khổng Tử.
Nghiêu, Thuấn: xin xem Nghiêu, Thuấn ở Phụ Lục C.
Tử Tư: xin xem Ngũ Tử Tư ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Có cha ấy tất phải có con ấy, thường th́ vẫn thế. Nhưng không phải cái lư nhất định bao giờ cũng như thế. Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở. Hổ phụ khuyển tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con v́ nó không giống ḿnh, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, th́ cũng chẳng là tự ái quá mà hóa ra si ư? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế. Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần. Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi rồi cứ trách con dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy.
23. LỢN MẸ GIẾT LỢN CON
Họ Tử Xa có con lợn nái sắc đen tuyền đẻ một lứa ba con, hai con đen tuyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống ḿnh rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. C̣n con lợn loang lổ khác ḿnh th́ ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi.
Tử Hoa Tử nói: "Gớm thay tâm thuật hay chuyển di. Mắt đă mờ về kẻ giống ḿnh hay khác ḿnh, th́ bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét. Đă ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con mà không hối huống chi người khác máu với ḿnh. Người đời lúc b́nh cư, th́ âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau, kiên cố tưởng keo sơn cũng không bằng. Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, th́ mặt đă đổi sắc, cơn giận nổi lên và t́m cách tàn hại nhau ngay lập tức. Gớm thay! Tâm thuật chuyển di, tưởng chẳng khác ǵ con lợn nái.
Tử Hoa TửGIẢI NGHĨA
Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu Hi.
Tử Xa: quan Đại phu nước Tần.
Tâm thuật: cách nghĩ trong tâm năo làm thế này thế kia. (2)
Chuyển di: thay đổi. (2)
Thế lợi: quyền thế, tài lợi. (2)
LỜI BÀN
Thói thường, đồng chủng đồng tông, hay đồng t́nh, đồng chí th́ ưa nhau, mến nhau, c̣n ngoại giả, th́ đem bụng ngờ vực, ghen ghét, coi người ta như cừu địch cả, thực là hẹp ḥi đáng tiếc. Người quân tử không bao giờ lấy cái h́nh sắc khác nhau mà thành bụng yêu hay sinh bụng ghét, lại nhất là, không lấy cái tư tưởng thế lợi trái nhau là lúc hợp, lúc ly, lúc thân, lúc sơ, lúc thề ước, lúc tàn hại nhau bao giờ. Người ta tuy không cùng ṇi giống, cùng tư tưởng, cùng chí hướng với ḿnh, nhưng người ta là hạng quang minh chính đại, ḿnh cũng nên có ḷng thân yêu, có lượng cao cả để đối với người ta th́ mới đáng gọi là yêu đồng bào và trọng nhơn đạo. Nếu không th́ tâm thuật lợn nái mất rồi!
24. GIÁP ẤT TRANH LUẬN
Giáp hỏi Ất: "Đúc đồng làm chuông, đẽo gỗ làm dùi, lấy dùi đánh chuông tiếng kêu boong - boong th́ tiếng kêu ấy là gỗ kêu hay đồng kêu?"
Ất đáp: "Lấy dùi gơ vào tường vách không kêu, gơ vào chuông kêu, thế th́ tiếng kêu ở như đồng."
Giáp hỏi: "Lấy dùi gơ vào đồng tiền trinh không kêu, thế th́ có chắc tiếng kêu ở như đồng mà ra không?"
Ất nói: "Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở như các đồ vật rỗng mà ra."
Giáp hỏi: "Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông đánh không ra tiếng, thế th́ có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra không?"
Âu Dương TuGIẢI NGHĨA
Âu Dương Tu: người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu sư, là một nhà văn chương có tiếng. (Xin xem thêm Âu Dương Tu ở Phụ Lục C).
Tiền trinh: tiền đồng, có người cho tiền đồng bên Trung Quốc đem sang ta đầu tiên là tiền đồng niên hiệu Càn Trinh nên gọi là tiền trinh. (2)
LỜI BÀN
Cứ xem Giáp, Ất tranh luận, th́ cũng phân vân, không rơ tiếng kêu là tự chuông hay tự dùi ra. Chuông là đồng vốn kêu, nhưng không có dùi đánh vào, không kêu. Vậy có muốn tiếng kêu, tất phải có cả chuông cả dùi mới được. Tiếng kêu là ǵ? Chẳng qua là cái âm thanh từ hai vật chọi nhau, chạm vào nhau mà sinh ra. Tuy vậy, nếu nói tiếng kêu là tự cả chuông, cả dùi mà ra, th́ h́nh như giữ cái chủ nghĩa "hai phải" trắng, đen là một. Thế mới hay, lẽ phải không cùng, càng nghị luận lắm, có khi lại càng như bối rối thêm ra, không tài nào gỡ rối. Nên biết được thế nào, th́ hay thế, chớ cứ cố chấp nhất câu nệ cho ḿnh là phải, không bết cái phần phải của người, th́ là có tính nhân thiên và lượng hẹp. Nói cho đúng: muốn rơ vật lư, cần phải có khoa học. Không biết khoa học mà bàn luận vật lư th́ không tài nào xác thực được.
25. MẶT TRỜI XA, GẦN
Đức Khổng Tử đi chơi ra phía đông, thấy hai đứa bé căi nhau, hỏi tại làm sao, th́ một đứa nói rằng:
"Tôi th́ tôi cho mặt trời, lúc mới mọc, ở gần ta hơn, về buổi trưa, ở xa ta hơn."
C̣n một đứa nói: "Tôi th́ tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, về buổi trưa, ở gần ta hơn,"
Đứa trước căi: "Mặt trời lúc mới mọc to nhứ cái bánh xe, đến giữa trưa, nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là ǵ?"
Đứa sau căi: "Lúc mặt trời mới mọc, th́ mát mẻ, đến giữa trưa th́ nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là ǵ?"
Khổng Tử nghe nói, không giải quyết được ra làm sao.
Hai đứa bé cười bảo: " Thế th́ cho ông là người học rộng hiểu nhiều thế nào được!"
Liệt TửGIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Buổi sáng, buổi trưa, mặt trời ở cách trái đất cũng không phải lúc gần, lúc xa ǵ cả. Nếu buổi sáng, thấy mát, buổi trưa thấy nóng hơn, chẳng qua là tại tia nóng mặt trời chiếu vào chỗ ta ở trên mặt đất, buổi sáng c̣n chếch, buổi trưa mới thẳng. Vả chăng buổi sáng, c̣n những sương móc ban đêm chưa tan hết cho nên mát hơn buổi trưa là lúc khí nóng tụ tích măi vào, cho nên nhiệt độ càng cao. C̣n nếu buổi sáng, trông mặt trời to, buổi trưa trông mặt trời nhỏ, chẳng qua là một cơi hoăn h́nh của con mắt trông như thế mà thôi. Mặt trời đâu vẫn ở đó. Trái đất xoay chung quanh mặt trời. Lúc mặt trời mọc, con mắt trông chếch, đến buổi trưa, con mắt trông thẳng mà lại trông qua từng không khí, cho nên thấy to nhỏ khác nhau. Vậy chỉ tại người trông hóa to, nhỏ, chớ không phải chính mặt trời xa, gần ǵ cả. Ấy đại để bây giờ th́ ta giải nghĩa như thế. Nhưng ở vào cái đời ông Khổng, khoa học chưa có mấy, th́ xem hai đứa bé suy lư với nhau, đứa nào cũng phải, khó ḷng mà quyết định được thật. Vả lại ngừơi ta thông minh, thánh trí đến đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự vật được.
V́ rằng đời người sống có hạn, mà sự trí thức th́ mông mênh, không bờ bến nào!
26. CÁCH PHỤC L̉NG NGƯỜI
Ḿnh làm người sang trọng giàu có, th́ chớ nên kiêu sa.
Ḿnh là bậc trông minh tài trí, th́ chớ nên khinh ngạo.
Ḿnh có sức lực khỏe mạnh, th́ chớ nên đè nén người.
Ḿnh ăn nói linh lợi, th́ chớ nên dối trá người.
Ḿnh c̣n kém th́ phải học, chưa biết th́ phải hỏi.
Đối với làng nước, th́ phải giữ cái trật tự trên dưới.
Đối với người nhiều tuổi, th́ phải giữ cái nghĩa con em.
Đối với người bằng vai, th́ phải giữ cái nghĩa bầu bạn.
Đối với lũ trẻ thơ, th́ phải dạy bảo khoan dung.
Như vậy th́ ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với ḿnh. Tâm địa rộng răi thênh thang như trời đất, th́ bao bọc được cả muôn loài.
Hàn Thi Ngoại TruyệnGIẢI NGHĨA
Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những việc, những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Đế lấy những ư trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ c̣n Ngoại truyện mà thôi.
LỜI BÀN
Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế mà khiến được, tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo th́ mới được. Bài này chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy. Đoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu, cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắc phải. Đoạn dưới nói cách ăn ở với mọi bậc người trong xă hội. Nói tóm lại khiêm nhă kính ái là một phương pháp rất hay để ở đời.
27. L̉NG CƯƠNG TRỰC
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại ăn thề. Ai nấy đều sợ hăi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước th́ ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức."
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc mặt, ung dung nói rằng:
"Lấy lợi nhử người ta, mà bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân, lấy binh khí hiếp người ta mà làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết th́ giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm."
Thôi Trữ nghe nói, không dám làm ǵ Án Tử.
Án Tử đứng dậy ung dung bước ra.
Tả TruyệnGIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự tích về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Thôi Trữ ( ?-546 TCN): là tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông đă thao túng chính sự nước Tề một thời gian và cuối cùng bị diệt cả gia tộc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục C; xem thêm Thôi Trữ trong Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Án Tử: tức là Án Anh, làm tướng đời vua Cảnh Công, ông là người trung thành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờ.
Tề Trang công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
Cương trực: cứng rắn, ngay thẳng. (2)
Quyền thần: người bầy tôi chiếm hết cả quyền của vua chúa. (2)
Sĩ: quan nhỏ. (2)
Phu: quan to. (2)
Ăn thề: giết một con vật lấy máu cùng uống mà thề ước với nhau làm một việc ǵ. (2)
LỜI BÀN
Cường quyền thường muốn át công lư, tuy vậy công lư vẫn hay uốn được cường quyền. Thôi Trữ mạnh biết bao nhiêu, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm cho phải lùi. Thế mới hay cái ḷng người, cái lẽ phải có sức hơn là mũi gươm, ngọn giáo. Những người có ḷng trung nghĩa, cá tính cương quyết như Án Tử, cứng như sắt, đỏ tựa son, dù nguy cấp thế nào cũng không đổi đại tiết chính là những người giữ được công lư để đối phó với cường quyền.
28. TRÍ, TRUNG, DŨNG.
Nước Trần bị nước Sở đánh, phá tan mất cửa thành bên Tây. Sau người Sở bắt dân nước Trần ra tu bổ lại cửa thành ấy.
Một hôm đức Khổng Tử đi xe qua đấy, không cúi đầu vào miếng gỗ trước xe. Thầy Tử Cống dừng cương lại, hỏi:
"Cứ theo lễ, đi xe qua chỗ ba người th́ phải xuống, qua chỗ hai người th́ phải cúi đầu vào miếng gỗ trước xe để tỏ ḷng kính trọng. Nay quan, dân nước Trần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà thầy đi qua, không có ḷng kính trọng, là cớ làm sao?
Đức Khổng Tử nói:
"Nước mất, mà không biết, là bất trí ; biết, mà không lo liệu, là bất trung ; lo liệu, mà không liều chết là bất dũng. Số người nước Trần tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, th́ bảo ta kính làm sao được!
Hàn Phi TửGIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất phủ Khai Phong (Hà Nam) và Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tử Cống: học tṛ Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Tu bổ: sữa sang chữa lại. (2)
Bất trí: ngu dại không biết phải trái. (2)
Bất trung: chểnh mảng không hết ḷng với vua, với nước. (2)
LỜI BÀN
Cứ theo cổ lễ rất phiền (ba người xuống xe) nhưng đức Khổng tử vốn là người hay giữ lễ nên thầy Tử Cống mới hỏi. Đức Khổng Tử đáp thế, ư hẳn quan dân nước Trần bấy giờ ai nấy đều ra dáng vui vẻ, h́nh như không c̣n ai biết đến nước là ǵ. Nếu quả vậy th́ có người cũng như không, ngài không kính rất là phải, v́ rằng: "Ngu dân bách vạn vị chi vô dân", nghĩa là nhân dân ngu dại th́ tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có người dân nào.
29. BIẾT LẼ NGƯỢC, XUÔI
Việc đời có lắm cái h́nh như ngược, mà thật th́ xuôi, có lắm cái h́nh như xuôi, mà thật ra lại ngược. Ai biết rơ việc thật ngược, xuôi thế nào, người ấy mới là người tinh đời. Phàm cái ǵ đă đến cùng cực th́ tất nhiên phải quay trở lại; dài quá th́ tất phải ngắn dần đi; ngắn quá th́ tất lại dài dần ra. Đó là cái lẽ tự nhiên như thế.
Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh nước Trần, sai người sang ḍ. Người ấy về nói: “Nước Trần không nên đánh."
Trang vương hỏi: “Tại làm sao?
Người ấy thưa rằng: "Nước Trần thành cao, hào sâu, kho tàng súc tích nhiều."
Triều thần có người Ninh Quốc nói: “Như thế th́ nước Trần nên đánh lắm. Nước Trần vốn là nước nhỏ, mà kho tàng súc tích nhiều th́ chắc là thuế má nặng. Thuế má nặng th́ tất dân oán vua. Thành cao, hào sâu th́ phục dịch nhiều. Phục dịch nhiều, th́ tất dân kiệt sức. Nếu ta đem quân sang đánh, tất lấy được Trần.”
Vua Trang Vương nghe lời, cất quân đánh, quả lấy được nước Trần.
Lă Thị Xuân ThuGIẢI NGHĨA
Lă Thị Xuân Thu: sách của Lă Bất Vi làm. Lă Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lă Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, th́ thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lă Bất Vi ở Phụ Lục C).
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất phủ Khai Phong (Hà Nam) và Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
Dài quá th́ ...: câu này ư nói đầy, vơi, tṛn, khuyết, dài, ngắn, thường hay đắp đổi cho nhau. Thí dụ như ngày hạ chí là ngày dài nhất trong một năm, th́ những ngày sau ngày hạ chí tất cứ mỗi ngày mỗi ngắn dần, lại ngày đông chí là ngày ngắn nhất th́ những ngày sau ngày đông chí lại dài dần măi ra. (2)
Súc tích: chứa chất để dành. (2)
LỜI BÀN
Bài này có hai đoạn: Đoạn trên nói cái lẽ ngược, xuôi, đoạn dưới dẫn một câu thí dụ. Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi, mà thực là ngược, có lắm cái cho là ngược, mà thực là xuôi. Ngược, xuôi điên đảo rất là khó phân. Chỉ có người nào không chịu xét bề ngoài, biết cái đầy, vơi, tṛn, khuyết, dài, ngắn, đắp đổi cho nhau là mới đóan trúng được. Như người sứ đây, đến tận nơi, mắt trông thấy thế nào chỉ biết có thế thôi, chớ Ninh Quốc vẫn ở nhà, lấy cái lư đoán mà biết rơ được cái t́nh h́nh ở bên trong thực là người cao đoán vậy.
30. TÀI NGHỆ CON LỪA
Đất Kiểm xưa nay vốn không có lừa. Có người hiếu sự, tải một ít lừa đến đấy nuôi.
Lừa thả ở dưới chân núi. Buổi đầu, hổ trong núi ra, trông thấy lừa, cao lớn, lực lưỡng tưởng là loài thần vật mới giáng sinh. Lại thấy lừa kêu to, hổ sợ quá, cong đuôi chạy. Dần dần về sau hổ nghe quen tiếng, thấy lúc nào lừa kêu cũng thế, lấy làm khinh thường. Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào đầu lừa. Lừa giận quá, giơ chân đá, đá đi đá lại, quanh quẩn chỉ có một ngón đá mà thôi. Hổ thấy vậy, mừng bụng bảo dạ rằng: “Tài nghệ con lừa ra chỉ có thế mà thôi!” Rồi hổ gầm thét chồm lên, vồ lừa, cấu lừa, cắn lừa, ăn thịt lừa đoạn rồi đi.
Liễu Tôn NguyênGIẢI NGHĨA
Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, người Hà Đông, tinh lanh tuyệt đời, văn chương nổi tiếng, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ Sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam ngày nay. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
LỜI BÀN
Bài này có ư nói: Ở đời có lắm người, lắm sự, lúc mới biết cho là lạ, th́ c̣n ưa, c̣n sợ, đến lúc đă biết rơ rồi th́ lại khinh thường, chẳng coi vào đâu nữa. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nh́n ra mới biết là chẫu chàng ngày mưa. Nhưng bài này lại có ư chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín đáo, để đến nổi người ta ḍm được tâm thuật của ḿnh mà làm hại ḿnh, như con lừa bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ vẫn thường hay dùng hai chữ “kiềm lô” (lừa đất Kiểm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có ǵ lạ.
Bookmarks