Xuân Lộc - Trận Đánh Giờ Thứ 25
(Tiếp Theo)
Mặt trận tạm yên th́ phái đoàn Thượng Hạ Viện từ Sài-G̣n đă bay ra tới tận cuối sân bay Long-Khánh để ủy lạo những người lính Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ mảnh đất c̣n lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói quà, những cái bắt tay, những lời hứa hẹn khen thưởng làm ấm ḷng người chiến sĩ.
Tôi nằm trên vơng dưới tàn cây điều lộn hột, ḷng buồn nhớ thương vợ con tôi không rơ giờ này ra sao. Những người lính dưới quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng không vui, thân nhân chúng tôi đă rơi vào tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Ban-mê-Thuột, Pleiku…
Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về ṿng đai pḥng thủ Xuân-Lộc. Đại Tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều.
Pháo binh bạn đă bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T 54 bị bắn đứt xích cách ṿng rào trại PB 181 không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội CSBV gơ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích!
Pháo binh từ trong ṿng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T 54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng.
Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân-Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?) Pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi.
Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài ṿng đai báo cáo, chiếc T 54 bị đứt xích đă được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài ṿng đai pḥng thủ cũng đang rút đi (?) Tôi báo cáo sự việc này cho Đại Tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu v́ lư do ǵ, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái th́ đột nhiên đổi hướng.
Những ngày sau đó t́nh h́nh im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng ḥa ca điệu cuối Xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao.
Khoảng ba giờ chiều ngày 20/04/1975 Đại Tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu,
– Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long-Khánh rút về Bà-Rịa, ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau.
Tôi ngồi với Đại Tá Hiếu một lúc th́ có điện thoại của Tư Lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long-Khánh là từ Tổng Thống. Địch không vây Long-Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên-Ḥa và thủ đô Sài-G̣n nên quân ta phải bỏ Xuân-Lộc, về bảo vệ Thủ-Đô. Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng Tổng Thống và Tướng Toàn đă quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép sư đoàn này thi hành lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TĐ 82 BĐQ về ngă ba Tân-Phong trước tám giờ đêm chờ lệnh.
Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân cuốn lều, lấp hầm hố pḥng thủ khi đêm rơi.
Cuối tháng Ba năm 1975 chúng tôi đă làm việc này ở Kiến-Đức, chúng tôi đă bỏ lại sau lưng một trận địa, một kẻ địch kinh hoàng đến độ hai ba ngày sau mới dám mon men vào điểm trú quân đă bỏ trống của đơn vị Biệt Động Quân một thời ngang dọc Vùng 2. Tôi đă rút đi, theo lệnh, để lại Kiến-Đức hàng chục nấm mồ thuộc cấp của ḿnh bên QL 14. Quận Kiến-Đức và Đồn Pleime cách nhau không bao xa, cũng c̣n là trong lănh thổ Vùng 2!
Lần này mười hai người lính của Pleime ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, quanh đây chỉ có điều lộn hột, chuối, xoài và đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa những ngọn núi hùng vĩ Chư Gô, Chư Don, thật xa con sông mơ màng Ia Meur lững lờ quanh năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa đường đứt gánh.
Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Ṭa Hành-Chánh tỉnh Long-Khánh th́ Đại Tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng đă chờ ở đó, Đại Tá yêu cầu tôi cho Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đi với đoàn quân của Tiểu-Khu Long-Khánh, và ông xin được tháp tùng tôi trong cuộc rút lui.
Tôi từ chối với lư do, “Đại Tá có cả một tiểu khu, Đại Tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ, Đại Tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy.”
Đại Tá, hiểu ra, cám ơn tôi đă có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt.
Măi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại Tá Phúc trong Trại Cải Tạo Nam-Hà A ngoài Bắc. Trong cuộc rút binh, Đại Tá Phúc đă bị bắt khi đi được nửa đường Xuân-Lộc, Bà-Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó.
Ra tới QL 1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngă ba Tân-Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL 1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính bộ binh lưng mang nặng ba lô, súng đeo vai đi sát hai bên đường.
Một anh lính bộ binh chạy từ bên phải sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng nón sắt. Chiếc xe cam nhông chạy qua, đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu th́ chiếc xe cam nhông thứ hai đă đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rơ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn Thành Long, sinh quán Long-An.
Hai bên đường, người đi như chảy hội, giữa đường, xe cứ nối đuôi nhau.
Tôi chờ khoảng mười phút th́ Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 cùng người liên lạc truyền tin của ông tới gặp tôi. Tháp tùng Đại Tá Hiếu c̣n có ông Trung Tá Linh, Sĩ Quan Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn 43. Đại Tá Hiếu cho tôi biết, Chuẩn Tướng Đảo chọn TĐ 82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ Bộ Tư Lệnh di chuyển.
Không lâu sau đó, một chiếc Jeep trờ tới, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo cùng bốn Quân Cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay.
Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số rồi lên đường.
Nhiệm vụ được phân chia rơ ràng: Tướng Tư Lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại tá Hiếu chỉ huy cánh quân của TĐ 82 BĐQ và TĐ1/43 BB của Thiếu Tá Nguyễn Khắc Tung (K20 VB) đi theo sau. TĐ 82 BĐQ chịu trách nhiệm bảo vệ Chuẩn Tướng Tư Lệnh trên đường di chuyển. TĐ 3/43 BB tùng thiết, được đặt dưới quyền Trung Tá Nô, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ-Binh. Riêng TĐ 2/43 BB của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế đóng quân trên núi Thị phải gánh chịu nhiệm vụ nặng nề nhất của cuộc triệt thoái, làm lực lượng đoạn hậu của SĐ 18 BB.
Đường Liên Tỉnh Lộ Long- Khánh, Bà- Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngă ba Tân-Phong một đỗi, tôi thấy những bành đạn pháo binh xếp dọc lề đường, đây là băi tiếp tế của sư đoàn, xa về hướng nam để đánh lạc pháo địch. Tuy vậy mới chiều hôm ấy địch đă phát giác băi này, và pháo binh CSBV đă đánh phá đoạn đường này cả giờ.
Chúng tôi đi bên trái đường, thỉnh thoảng chân tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân chạy giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác c̣n mềm, có cái c̣n toàn thân, có cái chỉ c̣n một phần h́nh hài con người.
Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào lúc công nhân ở đây đă lên xe chạy từ lâu. Những gia đ́nh chậm chân th́ khăn gói tất tả, vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài!
Tôi chạnh nhớ đến ba đứa con tôi ở Ban-Mê-Thuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi lại đang mang bầu. Ban-Mê-Thuột đă rơi vào tay giặc từ đầu tháng Ba năm 1975. Gia đ́nh tôi đă rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đ́nh những người khác ở Quảng-Đức.
Đầu tháng Ba, khi có tin địch sắp đánh Ban-Mê-Thuột, tôi đă gởi một cái điện khẩn cấp cho BCH/BĐQ/QK2 và BTL/QĐII cho phép tiểu đoàn tôi về pḥng thủ thị xă này. Không ai trả lời cái điện cầu xin trên. Đây là nỗi ân hận sâu xa nhất trong đời lính chiến của tôi, đó cũng là nỗi buồn ám ảnh suốt đoạn đời c̣n lại của người chỉ huy trực tiếp của tôi, Chuẩn Tướng BĐQ Phạm Duy Tất.
Đoạn đường vài chục cây số từ Tân-Phong đi B́nh- Ba, Bà- Rịa thực ra không có ǵ là đáng ngại đối với những người lính sơn cước của TĐ 82 BĐQ. Nhưng cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ Tư Lệnh Hành Quân đă làm tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng.
Đi chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân nhân của những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so với đội h́nh tác chiến một hàng dọc của TĐ 82 BĐQ đi sâu gần b́a rừng trái trục lộ.
Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư Lệnh quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi,
– Quân của Long đâu sao qua không thấy?
Tôi phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi đă được tập luyện thành thói quen, bất cứ lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây, g̣ đất, nếu không có ǵ ẩn nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng đội h́nh, nên Tư Lệnh không thấy rơ họ.
Nghe tôi giải thích có lư, Tướng gật đầu,
– Well well, very good!
Tới một cái cầu nơi con suối sâu, nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng b́a rừng, khi an ninh đă sẵn sàng, tôi mới mời Tư Lệnh và Đại Tá Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp tục lên đường.
Chúng tôi đến giữa cầu th́ nghe từ đầu dốc phía sau, tiếng chuông xe đạp, “kính coong! kính coong!”
Rồi một người đàn bà la lớn,“Ê các cha! Xe tui không có thắng, tránh xa! Tránh xa! ”
Thế là tụi tôi và Tư Lệnh đứng nép một bên cầu, cầu không có lan can, chỉ sợ người đi xe đạp lao vào ḿnh th́ chắc ḿnh sẽ rớt xuống sông tŕnh diện Hà-Bá!
Khi người đi xe lướt qua trước mặt, nhờ ánh hỏa châu soi, chúng tôi thấy rơ mặt người vừa la, một bà trung niên rất béo, cưỡi chiếc xe đàn ông loại để thồ đang vèo vèo lao xuống dốc.
Chợt chiếc xe vướng cục đá, tưng lên, trệch hướng, và lao xuống ḍng nước trắng xóa đang réo ầm ầm dưới kia. Chúng tôi nghe tiếng thét của người đàn bà ấy ngân dài trong thung lũng,
“Á !…Á !…Á !…”
rồi th́…
“Ùm!”
Sau dư âm của tiếng “Ùm!” cảnh vật lại trở về b́nh yên. Tôi rọi đèn xuống để quan sát t́nh trạng người bị nạn th́ chỉ thấy một khối đen trôi theo ḍng nước cuốn nhanh.
Đoàn quân vẫn tiếp tục hành tŕnh. Tư Lệnh vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa. V́ cùng tần số, tôi biết Trung Tá Trần Minh Công Trung Đoàn 48/SĐ 18 BB, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn 52/SĐ 18 BB đang ở nơi nào.
Khi đến gần ngă ba Xà-Bang th́ cánh quân của tôi đă bỏ đơn vị theo sau một đoạn hơi xa. Trong b́a rừng sâu tôi nghe tiếng súng báo động của địch. Những tiếng “Tắc!Tắc!…Tắc!…” hai ngắn, một dài, từ hướng Xuân-Lộc tiến dần từng chặng về hướng Nam . Rơ ràng địch đang âm mưu ǵ đây!
Đại Tá Hiếu th́ cứ luôn bận tâm đến đứa con đi đoạn hậu, TĐ 2/43, đơn vị này bắt đầu rời núi Thị. Tôi rất khâm phục cái trầm tĩnh và sức chịu đựng của người sĩ quan đàn anh này. Chân ông c̣n tháp một mảnh platinum v́ chiến thương, vậy mà ông cố theo bén gót những người lính miền núi mà không để hé chút dấu hiệu mệt nhọc nào, quả là một sự cố gắng phi thường.
Sắp đến ngă ba Xà-Bang, tôi thấy một cái xe Citroẽn dân sự bị bắn xẹp bánh, nằm giữa đường. Khi tôi rọi đèn pin vào trong xe th́ thấy hai ghế trước bỏ trống, trên ghế sau là xác một bà cụ già. Trên tay bà cụ c̣n ôm một cái cơi trầu. Cái cơi trầu bung nắp, những lá trầu đẫm máu nằm rải rác trên nệm xe. Tư Lệnh xúc động bùi ngùi nh́n cái xác người dân nằm đó, người dân bỏ cuộc giữa đường dẫn tới chốn b́nh an. Buồn rầu đóng cửa chiếc xe Citroẽn lại, tôi nhủ thầm,“Lỗi tại chúng tôi! Lỗi tại chúng tôi!”
Rồi tôi lâm râm đôi lời cầu nguyện cho người nạn nhân chiến cuộc.
Đến ngă ba Xà-Bang th́ Tướng Tư Lệnh mệt lắm rồi, ông đề nghị,
– Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không?
– Địch nó đă phát giác ra cuộc rút quân của chúng ta rồi, chắc chắn có bôn tập truy kích. Vị trí này rất nguy hiểm không dừng quân được đâu Thiếu Tướng. Nhất là ban đêm, đang đi mà ngừng lại nằm xuống là bị ngủ mê ngay, rất khó dậy nổi mà đi tiếp. Gắng vài giờ nữa là tới chỗ an toàn. Cố lên đi Thiếu Tướng!
Tôi vừa từ chối, vừa kéo tay Tư Lệnh tiến lên. Tôi huưt gió bài “The Longest Day” Tư Lệnh huưt gió theo, và chúng tôi tiếp tục bước đi. Hướng Xuân-Lộc vẫn ́ ầm tiếng đại bác. Hỏa châu lập ḷe phía chân trời xa.
Vừa lúc ấy trên máy liên lạc của Trung Đoàn 43 BB, Thiếu Tá Dư, TĐT 3/43 BB báo cáo rằng đoàn cơ giới của anh và Trung Tá Nô Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đă gặp quân Dù án ngữ ngơ vào B́nh-Ba, họ đang chờ xác nhận của cấp trên rồi mới cho phép quân Xuân-Lộc tiến vào. Tướng Tư Lệnh thở phào nhẹ nhơm, thế là chuyện “link-up” với quân bạn đă xong, bây giờ chỉ c̣n chuyện theo dơi an nguy của đoàn hậu quân là Tiểu-Khu Long-Khánh, Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 2/43 BB.
Chúng tôi dấn bước tiến nhanh về phía trước, xa xa vọng lại tiếng gà gáy sớm. Khi chúng tôi nh́n thấy ánh đèn dầu của xóm thôn le lói, cũng là lúc máy truyền tin của Tiểu- Khu Long-Khánh báo tin cho Tư Lệnh rơ rằng họ đang chạm địch. Rồi đến tin tức Lữ Đoàn Dù chạm địch. Những khẩu pháo Dù đặt bên đường đầu xóm bắt đầu tác xạ từng tràng yểm trợ cho quân bạn.
Mặt trời hừng đông, một chiếc xe Jeep chạy đến đón Tướng Tư Lệnh và tùy tùng của ông. Chiếc xe thứ hai đến đón Đại Tá Hiếu, Trung Tá Linh và anh lính truyền tin Trung Đoàn 43 BB.
Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xă rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh.
Mặt trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của một cái trực thăng chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của Dù. Ba người cao lớn nhảy xuống, chiếc tàu bay đi.
Không rơ những người vừa xuống máy bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời ǵ đó với những pháo thủ Dù, họ quay sang tiến về phía TĐ 82 BĐQ.
Khi họ đến gần th́ tôi nhận ra Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Úy Đức tùy viên của ông, và một anh lính mang máy truyền tin. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn tập họp năm đại đội dàn chào.
Sau khi bắt tay tôi, Tướng Toàn đi một ṿng, bắt tay từng người lính đứng trong hàng. Ông chỉ vắn tắt, lặp đi, lặp lại, có một câu,
“Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!”
Rồi ông quay qua tôi nhỏ giọng,
-Thôi cho anh em giải tán đi Long, ở đây sát nách căn cứ Mây-Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc nào, nguy hiểm.
Tôi cười,
– Pleime tứ bề là địch, vậy mà Trung Tướng xuống thăm, tụi tôi vẫn đội h́nh đàng hoàng dàn chào; c̣n ở đây th́ có cái ǵ đáng ngán mà bỏ lễ nghi quân cách?
Tướng Toàn cũng cười theo,
– Ừ, nhắc Pleime tức là chú mi nhắc khéo ta c̣n nợ cái lon trung tá của chú mi trận đó có phải không? Thôi về Long-B́nh kỳ này ta đền cho! Chịu chưa?
Rồi Trung Tướng Toàn bắt tay tôi từ giă, có xe chờ đưa ông vào Hội Đồng Xă B́nh-Ba họp với Tướng Đảo.
Tướng Toàn không lạ ǵ chúng tôi, chúng tôi cũng chẳng lạ ǵ Tướng Toàn. Trong thời gian Tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, ông thường ghé thăm Pleime và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Tướng Toàn đă chứng kiến khả năng đơn vị này qua những trận đánh lẫy lừng, Căn Cứ 711, Pleime, Đạo Trung.
Trong năm 1974 Tướng Toàn đă hai lần gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu lên hiệu kỳ tiểu đoàn này. Sau đó ông thuyên chuyển về làm Tư Lệnh Quân Khu 3.
Tháng 4/ 1975 Quân đoàn II tan ră. Khi được tin báo rằng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân c̣n đang lặn lội trong rừng già Bảo-Lộc, chính Tướng Nguyễn Văn Toàn đă ra lệnh cho Không Quân Vùng 3 Chiến Thuật cứu tiểu đoàn này về Long-Khánh chiều ngày 6/4/1975.
Chiều hôm đó, tại sân bay Long-Khánh, Tướng cũng chỉ ngắn gọn một câu,
“Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!”
Chúng tôi đă đáp lại lời khen của ông bằng những chiếc T 54 cháy bên rào Trại 181 PB, và bằng những khẩu pḥng không nước thép c̣n xanh biếc được trưng bày ở sân bay Long-Khánh.
Trưa hôm đó tôi vào gặp Chuẩn Tướng Đảo trong Hội Đồng Xă B́nh-Ba, ông cho biết Lữ Đoàn 1 Dù đă thành công diệt xong những con chốt chặn và đang trên đường tập trung vùng bắc xă B́nh-Ba.
Riêng tin tức liên quan đến Tiểu Khu Long-Khánh th́ c̣n mù mờ. Trung Tá Đ́nh (K10 VB) Tiểu Khu Phó đă tử trận v́ một quả B 40 trúng ngay xe ông. Số phận Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng th́ chưa rơ rệt, c̣n đang phối kiểm.
Tôi mượn xe và tài xế của Chuẩn Tướng Đảo để ra Bà-Rịa, vào trung tâm tiếp cư, ḍ tên gia đ́nh vợ con tôi trên danh sách nạn nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức ǵ của Ban-Mê-Thuột cả.
Khi tôi về lại Hội Đồng Xă B́nh-Ba th́ Đại Tá Hiếu cho tôi biết địch đă bôn tập truy kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn đánh quân bạn ngay tại ngă ba Xà-Bang, Trung Tá Đ́nh chết ở đây, Đại Tá Phúc cũng bị địch bắt ở địa điểm này. TĐ 2/43 BB của Th/Tá Chế th́ đang bị xe tank CSBV truy lùng, phải lẩn trốn trong rừng cao su để t́m đường rút về hướng Long-Thành.
Ngày hôm đó Tổng Thống Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương. Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm.
Sáng hôm sau chúng tôi rút về Long-B́nh, đơn vị tôi xuất phái từ Sư Đoàn 18 và được trả về cho Biệt Động Quân. Từ ngày về Long-B́nh tôi mải lo đi t́m tin tức vợ con, không màng tới việc gặp Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III để “đ̣i nợ” cái lon trung tá.
Ngày 28/4/1975 Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân được lệnh vào vùng hành quân phía sau lưng Trường Bộ Binh Long-Thành. V́ lệnh đến bất ngờ do đó 1/3 quân số đơn vị xuất trại về không kịp giờ di chuyển nên tiểu đoàn vào vùng với quân số 161 người, thiếu vắng Thiếu Úy Đặng Thành Học, người sĩ quan đại đội trưởng ưu tú nhất của tôi.
Tiểu đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng bắc tiến về, đồng thời hỗ trợ cho một đơn vị bạn (?) tái chiếm trường Bộ Binh Long-Thành. Ngọn đồi chúng tôi pḥng thủ là một cái tiền đồn cũ, có ba cái lô cốt nhỏ, không hầm hố địa đạo, không có hàng rào. Chúng tôi chỉ chất sơ sài những viên đá tổ ong thành một chiến lũy cấp thời.
Tối hôm đó, từng đoàn xe vận tải của CSBV đă đổ hàng trăm bộ đội xuống khu rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ. Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T 54, dàn hàng ngang xung phong biển người vào tuyến pḥng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
Ngay loạt đạn 100 ly mở màn, ba cái lô cốt đă bị bắn sập. Đại Úy Hoàn và anh lính truyền tin của ông là những người chết đầu tiên. Tôi ḅ sang hố của ông, quấn tấm thân đầy máu của ông bằng tấm mền poncho line.
Khi tôi di chuyển sang kiểm soát vị trí pḥng ngự của Thiếu Úy Thủy, ĐĐT/ ĐĐ 4 th́ bộ binh địch bắt đầu hô “Xung phong! ” Chúng tôi phải dùng lựu đạn M 26 để chặn bước tiến của giặc. Những trái M 72 bắn xéo qua xéo lại từ đỉnh đồi đă khiến cho chiến xa CSBV thoái lui. Dọc theo sườn đồi có bốn, năm chiếc T 54 bị hạ nằm bất động. Hai khẩu M 60 bắn chéo cánh sẻ đă vô hiệu hoá đợt sóng biển người đầu tiên của địch.
Tôi gọi cho Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xin không yểm và pháo yểm nhưng đơn xin yểm trợ không có ai trả lời!
Chợt đèn xe vụt tắt, tiếng động cơ chiến xa rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T 54 tắt đèn và mở hết tốc lực chạy lên đồi. Chúng đảo một ṿng chữ “C” trên vị trí đóng quân của Biệt Động Quân, xích xe đè nát thân thể những người không kịp tránh né rồi chạy đi. Sự kiện này thật là bất ngờ!
Chúng tôi chưa kịp phản ứng th́ chiến xa địch đă chạy khuất xuống chân đồi. Ông Thượng Sĩ Phạm Hoa, thường vụ tiểu đoàn bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng với anh B1 Bích, người nấu cơm cho tôi. Khẩu cối 81 bị đè găy càng bất khiển dụng. Chuẩn Úy Thiều, trung đội trưởng trung đội súng nặng ngồi ôm xác thượng sĩ Hoa khóc rưng rức. Cả tiểu đoàn đều biết Chuẩn Úy Thiều là ứng cử viên rể quư của “Thượng Sĩ Tía”. Ái nữ của thượng sĩ thường vụ đang là hoa khôi lớp 11 trường Trung Học Minh-Đức Pleiku.
Tôi chưa kịp chấn chỉnh lại đội h́nh th́ đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh đồi, rồi đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch mở đợt biển người tiếp theo. Lần này chúng tôi ngăn chúng từ xa bằng những quả lựu đạn M 67 nổ chậm. Chúng tôi ném hết sức thẳng tay những quả M 67 xuống chân đồi. Đèn xe soi rơ những thân h́nh cán binh Cộng-Sản loạng choạng ngă chúi xuống đất v́ trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M 60 vẫn đan cánh sẻ. Những xác người chết đè lên nhau, những tiếng thét đau đớn vang lên man rợ trong đêm đen.
Đèn xe lại tắt, tiếng chiến xa lại hú. Những ṇng M 72 đă sẵn sàng phóng đạn. Hai khẩu M 60 được nâng cao lên nhằm vào những xạ thủ pḥng không trên tank. Vài chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền đồi, nhưng có hai chiếc đă lọt được vào vị trí pḥng ngự của Biệt Động Quân. Xạ thủ 12,8 ly trên xe đă chết, cái dây xích c̣n móc vào chân xạ thủ, treo ṭn ten cái xác xạ thủ đung đưa bên hông chiến xa.
Trong khi chiếc tank hướng đông đă xoay sang trái chạy xuống đồi th́ chiếc thứ nh́ c̣n đang trở đầu ở khoảng đất giữa hai cái lô cốt. Có một Biệt Động Quân đứng xổng lưng giữa đồi chờ đợi cái xe tank đó. Chiếc xe nhằm anh lao tới, anh tránh sang một bên, rồi nắm sợi xích treo cái xác bên hông xe đu lên pháo tháp. Một quả lựu đạn ném gọn vào ḷng xe, quả thứ hai, quả thứ ba… bùng! bùng ! bùng! chiếc xe loạng choạng rồi ngừng trên đỉnh đồi.
Người Biệt Động Quân nhảy xuống xe, anh xả một băng M 16 vào cái thây ma cán binh Cộng-Sản, xạ thủ pḥng không. Hết đạn, anh thay băng đạn khác, nhả đạn tiếp tục, cái thây ma toe tua từng mảnh. Rồi anh ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc rống lên. Người ấy là Chuẩn Úy Thiều!
Tôi cứ để cho người sĩ quan trẻ khóc, khóc cho vơi hận thù, cho vơi nỗi thương tâm.
Khoảng nửa đêm, đèn xe lại rọi sáng, đạn 100 ly lại cày xới ngọn đồi không tên. Tôi không thể nắm vững được con số tổn thất của quân bạn là bao nhiêu. Chúng tôi đă xử dụng đến những ống M 72 cuối cùng. Tôi gọi Thiếu Úy Thủy và cho lệnh anh đi gom góp lựu đạn của những người đă tử trận về chia cho những người c̣n sống để đánh địch lần chót.
Dưới ánh đèn xe, những người lính xâm lăng trong đợt xung phong này h́nh như không c̣n hăng hái như hai đợt trước; họ bắt đầu ḅ lên, nương theo những mô đá nhấp nhô. Như vậy là địch đă mất tinh thần! Khi những quả lựu đạn vừa bật mỏ vịt nổ “Ùm!” th́ những anh bộ đội Cộng-Sản cũng quay lưng chạy thục mạng ngược về hướng rừng.
Thế là đèn pha vụt tắt. Dưới chân đồi có tiếng rên la của lính CSBV bị thương. Hai khẩu M 60 tưới đạn không thương tiếc về hướng có những tiếng rên la đau đớn ấy.
Chừng mười phút sau đoàn xe tank lại ào ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này chúng theo đội h́nh hai hàng dọc, đâm thẳng lên đỉnh đồi rồi đồng loạt pha đèn, chia hai ngả, trái, phải giày xéo vị trí trú quân của chúng tôi. Trên thành xe không có tên xạ thủ pḥng không nào! Những đứa nạp đạn đại bác th́ tḥ đầu lên thụp đầu xuống ném những trái thủ pháo xuống những cái lều poncho và những hố cá nhân.
Chúng tôi giờ này như những con thú bị thương, miệng la, “A !…A!… A!… Biệt Động!…Sát!” tay bóp c̣ M 16 nhắm những cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp.
Một trái thủ pháo ném trúng lưng tôi, tôi chụp nó ném đi hướng khác, trái thủ pháo nổ trên trời, thủ pháo Cộng-Sản nổ chậm hơn lựu đạn M 26 của ta, sát thương cũng không bằng M 26 của ta.
Bây giờ chúng tôi đă mất trí, không c̣n biết sợ chết nữa! Chúng tôi trở thành những tay giác đấu, gắng sức leo lên lưng những con quái vật T 54 để đánh quả lựu đạn sau cùng.
Tôi đă leo lên đến cái pháo tháp, tôi lần tay t́m trên sợi dây ba chạc, c̣n một quả mini và một quả lân tinh! Tay tôi chưa kịp mở chốt quả mini th́ một cái đầu địch nhô lên, nó đập một trái thủ pháo trên mũ sắt của tôi rồi ra sức xô tôi xuống xe. Hai con vật giằng co, quả mini tụt tay tôi rơi mất! Tôi gỡ cái nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu thằng giặc, đầu nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp vào ḷng xe. Tôi đang cố gỡ trái lân tinh móc trên dây ba chạc th́ cái pháo tháp xoay tṛn, tôi bị gạt rơi xuống xe. Tôi lăn sang sau một ụ đá, chiếc xe đảo một ṿng, xích sắt cày sâu trên đất, cát bụi tưới rát mặt, tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc !
Chúng tôi giờ này như những con cọp bị thương, bị dồn vào đường cùng! Chúng tôi chạy bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi. Trong đám bụi mù, một Biệt Động Quân đă bỏ được một trái M 26 vào trong ḷng chiếc T 54 hướng ĐĐ 4/TĐ 82 khiến nó quưnh quáng đâm vào hông một chiếc khác rồi lật nhào xuống triền đồi bốc cháy. Chiếc xe bị đâm trúng th́ đứt xích, từ trên xe, bốn tên CSBV nhảy xuống, chúng chưa đứng vững th́ năm sáu họng M 16 đă nhả hàng trăm viên đạn trên người chúng, bọn xâm lăng chết không kịp than tiếng nào.
Có vài Biệt Động Quân c̣n bám trên pháo tháp những chiếc tank đang đổ dốc, họ cố chúi mũi M 16 vào miệng pháo tháp bóp c̣ vô vọng. Pháo tháp xoay tṛn, họ rơi xuống đất. Chiếc xe chạy sau đè lên thân họ. Đoàn xe biến dạng trong đêm.
Đêm ấy tôi đă sống sót sau một trận chiến đấu đẫm máu và dă man nhất trong cuộc đời mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. Chiếc máy PRC 25 của tôi cũng bẹp dí. Chiến xa địch đă rút xa, tôi c̣n đứng sững trên đỉnh đồi nh́n theo chúng. Tay tôi c̣n cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối cùng, tiếc rẻ.
Tôi bước rảo quanh ngọn đồi trọc đă xác xơ. Thuộc cấp của tôi chết phơi thây trên miệng hố, la liệt đó đây. Không c̣n khẩu M 72 nào, lựu đạn cũng cạn, pháo yểm không có, không yểm cũng không có. Tôi quyết định cho đơn vị rút lui.
Một trái ḿn cóc nổ dưới chân Chuẩn Úy Trung, người sĩ quan trẻ theo sau lưng tôi đi kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung toe ra như miếng bă trầu đẫm máu. Tôi d́u Trung vào cái lều sập của Đại Úy Hoàn, cái xác Đại Úy Tiểu Đoàn Phó đă bị pháo 100 ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một nơi, tay chân văng một ngả. Tôi chụp cái máy PRC 25 của ông ra lệnh cho Trung Úy Trần Văn Phước ĐĐT/ĐĐ 3 cho người d́u Chuẩn Úy Trung xuống đồi. Rồi tuần tự, các Đại Đội 3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân đồi.
Trên đồi, những anh hùng Pleime vừa tử trận, nằm phơi thân trên miệng hố cá nhân. Không có tiếng rên la nào cả, tất cả đă ra đi êm ả, tất cả đă ra đi kiêu hùng. Đêm 28/4/1975 máu chúng tôi, máu những người Biệt Động c̣n tưới ướt đẫm một ngọn đồi không tên của quê hương.
Khi chúng tôi xuống tới vườn cam dưới chân đồi th́ xe tank địch ào ạt lên đồi lần thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt qua đỉnh đồi, bay trên đầu chúng tôi rồi rơi bên bờ suối. Đất đá bụi mù sau lưng chúng tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân lội nhanh qua bờ bên kia.
Đêm 28/4/1975, chợ chiều rồi! Không ai đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ. Không ai đáp ứng lời tôi xin một trái hỏa châu! Qua suối, tôi cho đơn vị dấu đội h́nh trong băi mía. Từ đây, sáng hôm sau tôi nh́n lại bên kia bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng người, những chiếc xe tank bị phá hủy đêm qua đă được kéo đi. Không thấy bóng dáng quân thù, không nghe tiếng động cơ chiến xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im ắng. Vào lúc này, bên trái cái lô cốt hướng bắc, cạnh một gốc bằng lăng, Đại Úy Hoàn TĐP/TĐ 82 BĐQ thoải mái nằm ngủ yên trên đó, đầu một nơi, thân một ngả. Có cả chục người lính can trường yên nghỉ trên ngọn đồi này cùng ông. Gió ngàn lồng lộng, hoa mía bay lồng lộng…
(C̣n Tiếp)
Bookmarks