ĐI BIỂN - 3
Đại đa số các thủy thủ trên tàu đang trong lứa tuổi 18 - 20, nhiều người lần đầu tiên xa gia đ́nh. Thường thường cứ đến khoảng tuần lễ thứ ba sau khi tàu rời bến là bắt đầu có vấn đề, thủy thủ nhớ gia đ́nh, nhớ người yêu nhiều hơn, và bắt đầu xuống tinh thần. Họ xin gặp các tuyên úy để được an ủi, khuyên nhủ thường hơn, và v́ vậy các tuyên úy đă phải thêm phần bận rộn. Đôi khi ngay trong hàng ngũ hạ sĩ quan và sĩ quan cũng có người gặp khó khăn, thường là v́ lư do gia đ́nh.
Cấp trên cũng hiểu tinh thần và tâm lư binh sĩ nên trung b́nh cứ khoảng từ 3 đến 6 tuần lễ là tàu lại ghé một bến nào đó để thủy thủ có dịp xả hơi. Một huynh trưởng của tôi, tuyên úy N.B.A., vừa được vinh thăng Hải Quân Trung Tá, trong chuyến đi biển 6 tháng ở vùng Địa Trung Hải (Mediterranean Deployment, gọi tắt là MedDep) cách đây vài năm, cũng trên chiếc HKMH này, đă có dịp ghé hải cảng Nice ở Pháp. Ông lên thăm một người bạn và được mời cùng đi xem phần tŕnh diễn của đoàn "Con Rối Nước" (Water Puppets) từ Hà Nội qua; sau đó, ông đă mời cả đoàn, khoảng 40 người, lên thăm tàu vào ngày hôm sau. Họ đă kinh ngạc đến sững sờ trước chiếc chiến hạm quá vĩ đại (dài và rộng bằng ba sân đá banh nhập lại.) Càng ngạc nhiên hơn khi tuyên úy N.B.A. đưa họ đi xem những nơi quan trọng như pḥng chỉ huy (Captain's bridge), pḥng radar, pḥng của sĩ quan điều khiển không lực (Air Boss)... Họ đă trầm trồ: "Sao anh dám đưa chúng em đến những chỗ này? Không sợ lộ bí mật à?" Hoặc là: "Trong thời chiến tranh, chúng em chả hiểu tại sao nước Mỹ ở xa thế mà cứ chốc chốc lại có cả đàn máy bay vào đánh bom ở miền Bắc! Thật, bây giờ chúng em mới biết!!" Tội nghiệp cho những con người đă phải sống trong một xă hội bị bưng bít đến tối đa.
Trong một bữa ăn có món thịt gà chiên, tôi đă ngồi cạnh tuyên úy trưởng, B.N. May. Ông này không lấy món phụ theo đúng kiểu Mỹ là khoai tây chiên, nhưng lại là cơm. Tôi ṭ ṃ, hỏi trêu: "Bộ ông khoái ăn cơm lắm hả?" Tuyên úy May không trả lời nhưng hỏi lại tôi: "Năm 1975, anh (you) ở trại tị nạn nào?" Tôi đáp: "Fort Chaffee, Arkansas." Tuyên úy May nh́n vào khoảng không như đang hồi tưởng về một qúa khứ nào đó, rồi ông tâm sự: "Cha (Father) biết không, đầu tháng Năm, năm 1975, tôi đang là một trung úy phi công, lái trực thăng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến ở Camp Pendleton, California. Khi trại tị nạn cho người Việt được thành lập ở đó, tôi đă được lệnh làm việc với ban điều hành trại, đặc trách các nhà ăn ở những khu 1, 2 và 3. Một hôm, các thông dịch viên đă đến nói với tôi: "Hôm nay, chúng tôi không được ăn cơm!" Tôi nói: "Nhưng các ông mới ăn cơm hôm qua rồi mà!?" Họ đáp: "Đúng vậy, nhưng người Việt chúng tôi cần có cơm ngày ba bữa!" Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng vẫn ra lệnh cho nhà thầu phải mua thêm thật nhiều gạo để nấu cơm mỗi ngày cho dân chúng, thế rồi chính tôi cũng tập ăn cơm, lâu ngày thành quen, cho tới bây giờ."
Vài năm sau kinh nghiệm có một không hai đó, trung úy May đă xin giải ngũ và theo học đại chủng viện. Sau khi được thụ phong chức mục sư, ông đă xin tái ngũ và trở thành tuyên úy trong binh chủng Hải Quân cho đến hiện tại. Tôi bắt tay tuyên úy May thật chặt và nói: "Cám ơn Tuyên Úy, ông đă là người ơn, là chứng nhân sống động của một trong những trang sử bi thảm nhất của dân tộc chúng tôi." Tuyên úy May cũng xiết chặt tay và nh́n tôi với cái nh́n hết sức cảm thông, hai người đă trở thành thân thiết kể từ hôm ấy.
Pḥng tiếp khách của đại tá hạm trưởng (Navy Captain) cũng là nơi trưng bày những h́nh ảnh và di vật của cố tổng thống Kennedy mà tàu này đă lấy tên. Một buổi tối, tôi đă vào ngồi một ḿnh trong đó, nh́n vào tấm ảnh phóng lớn của người quá cố, tôi nói thầm trong đầu:
"John Fitzgerald Kennedy, ông đă là tổng thống một quốc gia hùng mạnh hàng đầu trên thế giới, nhiệm kỳ của ông tuy ngắn ngủi nhưng hai lần ông đă gây hệ lụy không nhỏ đối với những quốc gia được kể là "thân hữu" của Hoa Kỳ. Lần đầu, ở Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ông đă phản bội những người bạn Cuba muốn đổ bộ trở về giải phóng quê hương của họ, đưa họ vào chỗ chết mà không hề tiếp cứu. Lần kế, quan trọng hơn, nghiệt ngă hơn nhiều, cuộc chiến tranh đă hủy hoại trọn một thế hệ và làm suy thoái cả dân tộc của họ! Khởi đi từ việc ông đồng ư cho lật đổ một chính phủ hợp hiến, hợp pháp, lần đầu tiên được người dân Việt Nam bầu lên theo thể chế dân chủ, rập khuôn với chính phủ của ông. Ông đă tỏ ra ngạc nghiên và bất b́nh khi biết thuộc cấp của ông (đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam) và nhóm tướng lănh phản phúc làm đảo chánh, đă toa rập để giết chết vị tổng thống và hai người em của ông ta. Những người này đă tệ hại đến nỗi vị kế nhiệm của ông, Tổng Thống Lyndon B. Johnson, đă phải thẳng thắn gọi họ là “bọn côn đồ khốn kiếp” (Goddamn bunch of thugs). Nhưng tội qui về người đứng đầu, (the buck must stop on your desk!) Ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hậu qủa đau thương đó. Thế rồi, người đời chưa kịp trách ông th́ chính ông đă ngă gục trước viên đạn của kẻ sát nhân. Tôi c̣n nhớ, tối hôm ấy trên đường về nhà, tôi đă được nghe tin về cái chết của ông qua những máy thu thanh vang vọng từ nhà cửa ở dọc đường. Năm đó tôi vừa vào lứa tuổi trung học, nhưng đă sớm nhận biết thế nào là t́nh nghĩa ở đời, nhất là ‘t́nh nghĩa’ trên chính trường quốc tế! Thế nào là thân phận kẻ đang sống trong một quốc gia nhược tiểu, ông xử ‘không đẹp’ đối với một người đă được coi là bạn của ông, là tổng thống của chúng tôi!
"Nhưng hậu qủa dây chuyền của hành động đó c̣n khủng khiếp hơn, gần 60 ngàn quân nhân Hoa Kỳ và trên ba triệu người Việt Nam đă chết thảm v́ chính sách sai lầm của ông và những người nắm quyền kế tiếp. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đă qua kể từ ngày im tiếng súng, nhưng Việt Nam vẫn chưa ngóc đầu lên nổi, vẫn bị kể là một trong những nước nghèo đói nhất trên thế giới! Ông đă là một giáo dân Công giáo, tôi là một linh mục; giả sử ông có cơ hội trở về xưng tội với tôi th́ việc ‘đền tội’ tôi trao cho ông sẽ là: ‘Dùng tất cả những ơn Chúa ban riêng để làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia thực sự được độc lập, tự do, dân chủ, và phú cường,’ có như thế mới mong đáp lại phần nào lỗi lầm quá to lớn của ông."
Tôi bước ra khỏi pḥng, ḷng buồn vui lẫn lộn như vừa ban phép ḥa giải cho một hối nhân đă bỏ xưng tội đến gần 40 năm trời!
(C̣n tiếp)
Bookmarks